Đây là một đề tài dành cho những người đang công phu thiền tập. Đó là ba cánh cửa giải thoát, từ chuyên môn nhà Phật gọi là “Tam giải thoát môn”, tức là ba phương pháp thiền quán để đạt đến giải thoát của Phật giáo phát triển. Nếu so sánh với Tam Pháp Ấn của Phật giáo nguyên thủy là Vô Thường-Khổ-Vô ngã, hay trong luận tạng là Vô thường-Vô ngã-Niết bàn thì ba cánh cửa này có ý nghĩa sâu xa hơn.
Đây cũng là ba vấn đề hết sức quan trọng và lại rất trừu tượng, nên nếu công phu thiền quán của chúng ta còn kém cỏi, nói cách khác, nếu chúng ta còn nhiều phiền não khổ đau quá, chúng ta sẽ khó lòng nắm bắt được.
Tam giải thoát môn gồm :
- Không môn.
- Vô tướng môn.
- Vô tác môn.
1. KHÔNG MÔN
Đó là thấy tất cả các pháp đều không thực thể. Vì sao trong nhà Phật, cái gì cũng cho là Không hết? Tất cả kinh điển Đại thừa trong đó có 600 quyển Bát Nhã, cho đến những bộ Luận tiểu thừa và đại thừa cũng nhằm làm sáng tỏ lý Không. Nhưng tại sao không nói CÓ mà lại nói KHÔNG? Trong cuộc đời thường chúng ta thấy khổ vì bất cứ cái gì chúng ta cũng cho là thật. Vì cho là thật nên chúng ta muốn nắm bắt, và ý niệm muốn nắm bắt đó, nếu thỏa mãn thì thêm tham, mà không thỏa mãn thì lại sân. Như vậy, từ chỗ chấp có các pháp (Si), mà chúng ta hoặc Tham hoặc Sân. Từ chỗ chấp có mà chúng ta thêm đau khổ, từ chỗ chấp có mà phải đi vào các cõi để thọ sanh. Thọ sanh trong mấy mươi năm, tuy chỉ một kiếp phù sinh mà con người vẫn cảm nhận nhiều sự khổ hơn vui.
Giờ đây, nói đến Không là để chúng ta không chấp. Ví dụ như, nếu chúng ta thấy thân không thật, mà phải thấy một cách thâm nhập, một cách sâu sắc, thì khi người khác chửi ta, ta không thấy giận, khi người khác khen ta, ta cũng không tự đắc tự hào. Vì vậy, người có thâm nhập được lý Không, thì đối với tất cả mọi cảnh ngộ, họ đều giữ tâm như đất. Từ đó suy ra cái đạo lực, cái định lực của mỗi người. Mỗi buổi sáng sau khi thức dậy, chúng ta nên tự nghiệm, trong suốt ngày qua chúng ta đã làm được gì, chúng ta đã tự tại khi tiếp duyên xúc cảnh được bao nhiêu phần. Điều này cần đến sức nội quán của chúng ta, nghĩa là tự kiểm nghiệm lại mình. Nhiều khi chúng ta nói vượt quá chỗ chúng ta làm được, điều này khiến ta không được an ổn chút nào hết.
Ở đây, cũng cần chú ý một điều: Khi chúng ta nhìn đóa hoa trước mặt và cho nó là Không, vì nó được hợp thành bởi nhiều cánh hoa, nếu chúng ta tách ra từng cánh thì cuối cùng sẽ không còn đóa hoa nữa. Như vậy, đóa hoa không có thực thể, cái ý niệm về đoá hoa chỉ là con đẻ của ý thức, đoá hoa chỉ có trên giả danh giả tướng vì là do duyên hợp. Cái "KHÔNG" vì thế có nghĩa là không có thực thể, chứ không phải phủ nhận sự hiện hữu của đoá hoa. Mặt khác, khi thiền quán, chúng ta từng bước quán chiếu thấy các pháp đều Không, là do chúng ta chia chẻ từng chi tiết của sự vật mà nhận ra tính duyên hợp giả có của chúng, còn chia chẻ mới thấy các pháp là Không, thì lúc đó đã có ý thức xen vào. Đó chỉ là cái thấy của "Tích không quán" chứ chưa thấy được "Đương thể tức không". Khi nhìn đóa hoa đã thấy ngay là Không, không cần quán mới thấy, đó là mức độ "KHÔNG" chúng ta cần nói ở đây. Cho nên, Không môn là cái thấy của trực giác chứ không phải của suy luận. Khi mà cái thấy còn là suy luận, nghĩa là còn có tâm năng quán trên cảnh sở quán thì cái thấy vẫn còn là phiến diện. Đóa hoa tự nó không nói lên điều gì, nhưng nếu chúng ta thấy hoa xấu hay hoa đẹp, thực hay giả..., đó là do ý thức của chúng ta áp đặt lên nó. Thật sự, hoa khi chưa nở đã là Không, đang nở cũng là Không, mà lúc tàn rụng cũng là Không. Cả ba giai đoạn : đã, đang và sẽ, đều là Không. "KHÔNG" này không phải là đối với "CÓ", nghĩa là không thuộc nhị biên phân biệt, mà ngay nơi các pháp vốn là Không. Đây là hành vi của Bát Nhã, cái thấy của trí tuệ chứ không phải cái thấy của suy luận, của ý thức. Ví dụ: Khi suy luận, ta phân biệt người thân kẻ sơ, nhưng khi phăng đến tận cùng, cái gọi là thân sơ ấy chẳng qua là sự chấp ngã: người có ơn nghĩa với ta gọi là thân, kẻ không dính dáng về tình cảm gọi là sơ. Hành vi ngã chấp này, rốt cuộc là do chấp có.
Lúc tọa thiền chúng ta có thể nhận biết rằng, khi buông bỏ hết vọng tưởng, để tâm hoàn toàn lặng lẽ, với tâm lặng lẽ đó mà vẫn biết, vẫn chiếu soi tất cả các pháp một cách tự nhiên. Đó là cái thấy không qua niệm khởi, cái thấy của Bát Nhã, đó là "KHÔNG". Nếu chúng ta chưa biết thiền định là gì, tâm sẽ suy nghĩ lung tung, không tự chủ được từng niệm, nên thấy cái gì cũng bằng niệm hết. Nếu cố gắng gán ghép, tưởng tượng ra một cái "Không" ở nơi cái "Hoa", đây là một điều hết sức sai lầm. Nếu có ý niệm cái "Không" trong cái "Hoa" thì ở đây sẽ có hai cái: Cái không và cái hoa. Cũng như khi nghe giảng về Phật tánh, chúng ta lại tưởng tượng có Phật tánh ở ngoài thân năm uẩn. Những trò chơi phân ranh ấy của ý thức, làm chúng ta không hiểu được lẽ thực của tất cả các pháp.
Có câu chuyện "Vua Sở mất gươm": một hôm vua đi săn, đánh rơi mất gươm báu. Khi về triều vua mới phát hiện là mất gươm quý, Vua bèn ra lệnh cho quần thần đi tìm. Sau đó mới hay có một người nước Sở đã nhặt được gươm. Vua bèn phán rằng: "Thôi đừng truy cứu nữa, bởi vì vua nước Sở mất gươm, người nước Sở được gươm". Khi việc này lan truyền trong nhân gian, các môn đệ của đức Khổng Tử hỏi Ngài : "Nếu ở địa vị Ngài, Ngài sẽ xử sự ra sao?", Đức Khổng Tử trả lời: "Khổng Khâu sẽ bảo là, người mất gươm, người được gươm". Chúng ta ngẫm xem tầm nhìn của các Ngài như thế nào ? Đối với vua Sở, tuy mất gươm nhưng người được gươm là người cùng nước Sở, nên Vua không truy cứu. Như vậy cái ngã của vua đã chan hòa khắp cả mọi người trong nước mình, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi nước Sở thôi. Còn đức Khổng Tử, tầm nhìn của Ngài xa hơn, thoáng hơn, nên cái ngã của Ngài bao trùm tất cả loài người.
Đối với những vị đã nhận được lý "không", sẽ thấy mọi pháp đều bình đẳng, tầm nhìn của các vị sẽ trùm khắp pháp giới. Khi nhìn sự hiện hữu của bất cứ pháp nào bằng trực giác Bát Nhã, thấy toàn bộ là "KHÔNG", thì cái thấy đó đã thuộc về Pháp Giới rồi. Tâm tính lúc đó là Pháp Giới Tính, cho nên cái thấy này càng siêu việt hơn. Đó là lý do các vị Bồ Tát khi thâm nhập được cái thấy này, đã lăn xả vào các cõi để độ sanh. Các Ngài có đời sống khác hơn người thường, sống bằng thần lực, bởi vì khi thấy được cái "KHÔNG", lập tức có sự bình an nội tâm do cái thấy không phân ranh, không chấp thủ, không đảo điên, không vọng tưởng. Còn chúng ta tu mà không thấy, nên càng tu lại càng tham sân nhiều. Đó là vì chúng ta lấy cái ngã mà tu, chưa thấy đường đi đã vội cất bước, nên phiền não cứ còn hoài.
Một điểm cần lưu ý, là chúng ta đừng bao giờ nghĩ cái Không ở đây là các Không đoạn diệt. Đức Phật không cố tình cho chúng ta thấy cuộc đời này là Không. Không phải khi đã ngộ đạo, các Ngài không còn thấy cái gì trước mắt, nhưng vì có mà diễn tả không đến, nên gọi là Diệu Hữu; vì không mà không phải là không ngơ, nên gọi là Chơn Không. Sắc mà thấy đúng mức thì không phải là cái sắc trên giả danh, giả tướng, mà là chơn sắc, diệu sắc. Đây là cái thấy rất tự tại, cái thấy không lệ thuộc nhị biên, cái thấy bằng ánh trực giác mà đôi lúc chúng ta có thể kiểm nghiệm được khi tâm hoàn toàn an định, lặng lẽ.
2. VÔ TƯỚNG MÔN:
Đây là cánh cửa giải thoát thứ hai. Vô tướng là gì? - Khi chúng ta nhìn đóa hoa, biết nó là duyên hợp hư giả, do nhiều yếu tố không phải nó hợp lại mà thành nó. Hoa không có tự thể riêng biệt, không có tướng nhất định, không có tính đồng nhất, nên nó vô tướng.
Tất cả các pháp cũng như thế, hoàn toàn lệ thuộc vào các duyên, không có tướng mạo nhất định. Ví dụ : nước chứa ở trong ly được gọi là ly nước, chứa ở trong chén thì gọi là chén nước. Hình tướng của ly nước khác hình tướng của chén nước, nhưng bản chất của nước là một. Như vậy, đồng là nước nhưng tùy duyên mà có hình khác nhau. Nước không có tướng nhất định nên gọi là vô tướng. Ai thấy được cái vô tướng này, người đó sẽ nhận được sự uyển chuyển sinh động trong từng giây phút của cuộc sống. “Chư pháp tùng bất lai, thường tự tịch diệt tướng”. Nhưng “Xuân đáo bách hoa khai, Hoàng Oanh đề liễu thượng”. Tuy tướng là tịch diệt, nhưng tùy duyên mà có hoa nở và chim hót trên cành. Chim hót vẫn ở trong chỗ tịch lặng, hoa nở cũng ở trong chỗ tịch lặng. Vì vậy, khi thấy hoa đào nở, Thiền sư Linh Vân liền tức khắc nhận ra cái vô tướng đó. Thấy được như thế là trở về với cái Phật tánh của chính mình. Và lúc ấy sẽ có một sự uyển chuyển sinh động trong cuộc sống. Các vị Bồ Tát lập phương tiện giáo hoá chúng sanh cũng nhờ cái thấy uyển chuyển sinh động này. Còn người nào có cái thấy giáo điều, cứng nhắc, khô chết, thì rõ ràng người ấy nhốt chân lý vào trong một khuôn khổ cố định. Thực ra, chân lý làm gì có khuôn khổ ? Nếu chân lý có khuôn khổ, thì Bồ Tát Quan Thế Âm đã không thị hiện rất nhiều thân tướng để tuỳ duyên hoá độ chúng sanh.