Huyễn hóa du hí một tự truyện của jamyang khyentse chokyi lodro

27/05/20201:00 SA(Xem: 5687)
Huyễn hóa du hí một tự truyện của jamyang khyentse chokyi lodro

HUYỄN HÓA DU HÍ
– MỘT TỰ TRUYỆN CỦA JAMYANG KHYENTSE CHOKYI LODRO
Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ

 

Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro
Chư đạo sư vô song, những đấng bảo hộ chúng sinh,

những bậc nhân từ, con đỉnh lễ dưới gót sen Ngài

khi lòng sùng mộ tràn ngập thân, khẩu và ý con.

 

Giờ đây, tôi sẽ kể câu chuyện giả dối về cuộc đời mình.

Vùng đất nơi tôi, một kẻ xấu xa, chào đời

là nơi được biết đến là bốn nút đất.

Ở đó, trong một vùng gọi là Rekhe,

bên bờ một con sông vàng,

có nơi gọi là Ajam.

 

Cha tôi là vị Trì Minh giàu lòng trắc ẩn,

với lòng từ vô song,

được biết đến là Gyurme Tsewang Gyatso[1].

 

Tổ tiên của cha bao gồm Gyalse Pema Namgyal,

một hậu duệ trong dòng dõi gia đình của Đức Dudul[2].

Được gia trì bởi thân, khẩu và ý bí mật của vị này

là vị Trì Minh phát lộ kho tàng vĩ đại,

Nuden Namkhai Naljor;

cha tôi chính là con trai của vị này.

 

Mẹ tôi, tên là Tsultrim Tso,

sinh ra trong gia đình của một thành tựu giả

được biết đến là vị khất sĩ của thung lũng Ser xứ Amdo,

trong dòng dõi Achak Dru.

 

Tôi sinh ra là con trai của họ trong năm Thủy Tỵ[3] cái –

trong những tháng mùa thu, tôi được kể lại như vậy.

Cha mẹ tôi chẳng mấy bận tâm đến những chuyện như thế,

do vậy, họ không để lại ghi chép nào

về các hành tinh và vì sao hay giấc mộng và dấu hiệu.

 

Tôi được nuôi dạy và rèn luyện theo lối tuần tự.

Khi tôi lên sáu hay khoảng đó,

cậu tôi, Lama Gelek,

bắt đầu dạy tôi đọc.

Như thế, tôi đã học ba mươi phụ âm căn bản và các dấu hiệu phụ tố,

cũng như đàn tràng và bảy nhánh từ Hiện Thân Chứng Ngộ.

Một dịp, tôi đã thọ nhận

quán đỉnh trường thọ từ Đức Drakmar Yishin Wangyal[4],

và nhờ đó, thiết lập một kết nối Giáo Pháp.

 

Năm tôi lên bảy, Situ Pandita[5] vĩ đại

cử một đoàn cung nghênh

đến thỉnh mời tôi về Tu viện Kathok[6].

Chúng tôi đã đến Kathok vinh quangvô song

vào một ngày mùa đông khi tuyết mới bắt đầu rơi –

dấu hiệu tích cực cho thấy kết nối cát tường.

Tôi đã sống ở đó, tại nơi cư ngụ của Đức Longsal,

Dzong-ngo Tashi Khangsar.

 

Vào một ngày cát tường, Đấng Quy Y

đã cử hành lễ thế phát trước tôn tượng Đức Phật

được biết đến là Lhachen Palbar – ‘Đấng Vĩ Đại Chói Ngời Vinh Quang’,

và trao cho tôi Pháp danh Jamyang Lodro Gyatso.

 

Không lâu sau, tôi bắt đầu nghiên cứu

với thầy giáo thọ Thupten Rigdzin Gyatso nhân từ

ở Bartro Choling.

 

Khi đến Horpo, tôi trải qua vô vàn khó khăn khổ sở

bởi tuổi trẻ.

Tôi đã gặp đức vua và hoàng hậu Lingkar[7]

giải thích lời tán thán Gangloma[8] theo những gì nhớ được.

 

Nhớ về đạo sư,

cặp đôi hoàng gia òa khóc sùng kính.

Từ bấy lâu chúng tôi đã kết nối

như là thí chủ và vị thọ nhận,

với thệ nguyện thanh tịnh, vô cấu nhiễm cùng niềm tin và tình yêu thương lớn lao.

 

Vào khoảng thời gian này, thầy giáo thọ nhân từ dạy tôi viết

và hướng dẫn tôi trong các thực hành sơ khởi (Ngondro).

Thầy giải thích Ngọn Đèn Của Khẩu, Ba Mươi Đoạn KệÁp Dụng Về Giống hai lần,

cũng như Nhập Bồ Tát HạnhKho Tàng Phẩm Tính Quý Báu[9],

luận giải Sarasvatavyakarana về ngữ pháp tiếng Phạn và những chỉ dẫn về giai đoạn phát triển (Kyerim).

Thầy đã dạy tất cả theo cách thức đơn giản, dễ hiểu.

 

Thầy cũng khuyến khích tôi giải thích Ngọn Đèn Của Khẩu cho người khác,

ban khẩu truyền cho các trước tác của Đức Getse Panchen

và dạy tôi những khía cạnh khác nhau của nghi lễ một cách chi tiết chuẩn xác.

 

Giờ đây khi ngẫm lại cách mà thầy đã hướng dẫn tôi trong mọi chuyện,

bắt đầu từ cách ăn và mặc

và mọi điểm khác nhau về hành động – điều cần làm và điều cần tránh –

Tôi òa khóc xúc động.

Xin chăm sóc con với lòng bi cho đến khi con đạt giác ngộ!

Bất cứ phẩm tính nào mà bây giờ tôi sở hữu

đều hoàn toàn nhờ sự chăm sóc bi mẫn của đấng vĩ đại này.

 

Lúc này, tôi cũng thọ nhận từ Đấng Quy Y toàn tri[10]

các quán đỉnh và trao truyền mở rộng

cho Tám Bổn Tôn (Kagye), Tập Hội Ý Định Kinh, Nyingma Kama[11]

Bốn Phần Tâm Yếu[12], Chư Tôn An BìnhPhẫn Nộ [Shitro] và v.v.

nhưng bởi tôi không thể giữ một ghi chép,

các chi tiết không hoàn toàn rõ ràng.

 

Cùng với Situ Panchen,

tôi thọ nhận từ thầy Sherab, đạo sư nghi lễ của Đức Khyentse đời trước,

những trao truyền cho các tác phẩm được tuyển tập của chư vị trưởng lão Sakya,

cũng như các trước tác của Đức Tsele và hơn thế nữa.

 

Đấng Toàn Tri đã đóng vai tròGiới Sư

và cùng với vị đạonghi lễ [KarmacharyaYết Ma A Xà Lê] Rigdzin Gyatso,

trước một tập hội Tăng đoàn,

Ngài đã từ ái trao cho tôi giới luật Sa Di

Pháp tự Tsuklak Lungrik Nyima Mawe Senge.

 

Kể từ đó, tôi đã tránh phạm bốn giới trọng và các vi phạm khác

và tôi sẽ tiếp tục tránh chúng cho đến khi sự hỗ trợ vật lý này cuối cùng biến đổi.

 

Tôi đã thọ nhận tất cả quán đỉnh cho các phát lộ của Đức Longsal Nyingpo[13] và Dudul Dorje[14] trực tiếp từ vị đạo sư này,

trong khi Ngài Zhingkyong Jewon ban các khẩu truyền tương ứng.

Cũng vào khoảng thời gian ấy, tôi thọ nhận từ vị đạo sư này [tức Đức Zhingkyong Jewon],

trao truyền cho hai tập các trước tác hỗn hợp của Đức Khyentse,

một sự cho phép bản văn về vị bảo vệ Ganapati,

trao truyền Đại Dương Giáo Pháp Kết Hợp Mọi Giáo Lý và Mani Kabum[15]

quán đỉnh Trưởng Dưỡng Cõi Tịnh Độ Hiện Hỷ.

Nhờ chúng cùng những trao truyền khác, chúng tôi thiết lập nhiều kết nối Giáo Pháp.

Đây là một đạo sư đặc biệt chú ý đến những vị có địa vị thấp hơn

và chăm sóc tất cả bằng lòng từ của cha mẹ.

 

Tôi đã tham dự nhiều lễ cúng dường chính yếu

ở Kathok trong giai đoạn này, cả mùa hè và mùa đông.

 

Năm mười tuổi, tôi tham dự nhập thất mùa mưa

và được kiểm tra trước tập hội

về các khía cạnh khác nhau của điều đã được giảng dạy.

 

Mười một tuổi, tôi nghiên cứu hội họa

luận giải Sarasvatavyakarana với thầy giáo thọ.

Khoảng thời gian này, tôi đi thu thập ngũ cốc ở vùng gần sông Nyakchu,

và vào đầu mùa hè, tôi đến Tromkhok và những nơi khác để thu thập các sản phẩm bơ sữa.

 

Sau đấy, năm mười hai tuổi, trong ba tháng,

tôi đã nghiên cứu về năm tuyển tập các tính toán thiên văn được vạch ra trên cát.

Tôi lặp lại điều thầy nói và học cách tính toán bằng ngón tay,

nhưng không hiểu [các nguyên tắc cơ bản] chút nào.

 

Tại chính điện của Kathok, tôi tham dự thực hành Tịnh Độ

giải thích lời nguyện Cực Lạc

trước sự sửng sốt rõ ràng của mọi người.

 

Khi du hành đến Tromkhok, ở trại Druk,

tôi diện kiến tôn nhan hoàng kim của Đức Natsok Rangdrol[16]

đạo sư Trì Minh vĩ đại với lòng từ vô song.

Ngài bày tỏ sự tán thán dựa trên tri kiến thanh tịnh của Ngài,

ban một quán đỉnh trường thọ và hào phóng trao cho tôi các món cúng dường.

Tôi đã gặp Ngài nhiều lần trong giai đoạn này,

thọ nhận quán đỉnh chín muồi cùng chỉ dẫn giải thoát cho Gongpa Zangthal[17]Longchen Nyingtik[18],

cũng như Lama Yangtik và những phát lộ của chính đạo sư.

Ngài cũng ban cho tôi những chỉ dẫn Dzogchen liên quan đến Trekcho và Togal,

các chỉ dẫn trực chỉ và đem đến sự tăng cường.

Ngài vô cùng từ ái cả về Giáo Phápthế tục.

 

Năm tôi mười ba tuổi, thầy giáo thọ nhân từ của tôi đến một cõi Tịnh độ

bỏ lại tôi như đứa con một mình giữa hoang mạc

hay kẻ mù bị lạc, chẳng người dẫn dắt.

 

Thầy giáo thọ cao quý của tôi đã liên tục đau đớn vì căn bệnh về đờm trong ba năm.

Suốt thời gian đó, tôi gạt sang một bên các mối bận tâm của bản thân

phụng sự như là thị giả của thầy.

Không mệt mỏi, tôi pha trà, gánh nước, chăm sóc thầy và v.v.

Tôi tin rằng tất cả những điều này đã giúp tịnh hóa đôi chút che chướng của bản thân.

 

Sau bốn mươi chín ngày, khi Kim Cương Trì[19] đến Tu viện Dralak,

Ngài đem theo tôi như là thị giả.

Trong lúc nghỉ, tôi học thuộc Guhyagarbha[20]

và đi xung quanh các vùng du mục để thu thập đồ dùng.

 

Khi trở về, tôi học thuộc bản văn gốc của Hiện Quán Trang Nghiêm (Abhisamayalamkara).

Mùa Đông năm đó, tôi đóng vai trò là vị nhiếp chính trong [Pháp hội] Đại Tập Hội Được Vân Tập (Tsogchen Dupa)

gia nhập Mật Viện,

tôi thọ nhận vô số giáo lý, bao gồm

lời tán thán Ganggi Lodroma đến Đức Văn Thù, Tán Thán Sự Siêu Việt Của Đức Phật, Cao Quý Hơn Chư Thiên, Phân Tích Ngũ Uẩn, Nhập Bồ Tát Hạnh,

Ba Bộ Giới Luật, Kho Tàng Phẩm Tính Quý Báu, Kho Tàng Như Ý,

Giới Thiệu Học Thuật, Hiện Quán Trang Nghiêm, hai Phân Biệt, Vô Thượng Tục Luận, Trang Nghiêm Đại Thừa Kinh (Sutralamkara), Trang Nghiêm Trung Đạo (Madyamakalamkara) và v.v.

từ Đức Situ Panchen, Khenpo Kunpal,

Tenzang, Aka và những vị khác.

 

Lama Kunzang Palden Chodrak, vị Khenpo vĩ đại, vô cùng từ ái và chu đáo

lúc này, trong việc giải thích những điểm khó của các bản văn;

nhờ đó, tôi phát triển sự hiểu căn bản về truyền thống được kế thừa của chúng tôi.

 

Cũng trong năm mười bốn tuổi, tôi nghiên cứu truyền thống bản văn,

thỉnh thoảng tham dự tập hội để thọ nhận các quán đỉnh và trao truyền,

tiến hành nhập thất mùa mưa và v.v.

 

Năm tôi mười lăm tuổi, vị tái sinh từ Dzongsar[21]

đã đến một cõi giới khác[22],

và theo di chúc cuối cùng của người cháu trai không khỏe của vị tiền nhiệm của chúng tôi[23],

như được trao lại cho Đức Situ,

tôi, một bao đựng đồ cúng dường lãng phí, phải di chuyển đến trụ xứ chính.

 

Mọi người rời bỏ tôi và một mình,

tôi phải chịu trách nhiệm độc lập.

Bởi ác nghiệp quá khứ,

vài người không thân thiệnthù địch với tôi.

Nhưng nhờ kỷ luật của việc tránh kiêu ngạo,

Tôi đảm bảo rằng trụ xứ không bị mất.

Nhờ áp dụng thái độ từ ái lớn lao,

Tôi xoa dịu sự thù ghét và chiếm được cảm tình của mọi người.

 

Theo những chỉ dẫn của Đấng Quy Y,

Tôi dấn thân vào các nghiên cứu với Khenpo Kalzang Wangchuk

về những bản văn của Đức Di Lặc mà tôi chưa thọ nhận,

cũng như Kho Tàng A Tỳ Đạt Ma, Trung Đạo Căn Bản Kệ, Nhập Trung Đạo,

Kệ Tóm Tắt Trí Tuệ Hoàn Hảo.

 

Lúc này, tôi giảng dạy cho khoảng hai mươi tu sĩ của Tu viện Dzongsar

Nhập Bồ Tát Hạnh, ba bộ giới luật, Căn Bản Kệ Trí Tuệ Hoàn Hảo,

Vô Thượng Tục Luận [Uttaratantra]Phổ Hiền Hạnh Nguyện.

 

Năm Thổ Dậu [1909], tôi viếng thăm Đức Loter Wangpo[24],

vị Kim Cương Trì mà chỉ nghĩ đến Ngài cũng xua tan thống khổ trong tim.

Hài lòng, Ngài mời tôi ngồi trên một ngai tòa

được trang hoàng bởi nệm gấm tốt nhất.

Nhờ sức mạnh của kết nối nghiệp quá khứ,

tôi cảm thấy vô cùng kính trọng và sùng mộ mãnh liệt với Ngài.

Chẳng bao lâu sau, từ chính vị Kim Cương Trì này

và Ngài Tashi từ Drakra, tôi bắt đầu thọ nhận

các quán đỉnh chính yếu của Trích Yếu Mật Điển.

Chúa tể vĩ đại của các gia đình Phật cũng ban vô vàn chỉ dẫn

về Xa Lìa Bốn Bám Chấp[25]Bảy Điểm [Luyện Tâm][26].

Ngài bắt đầu bằng lễ phát Bồ đề tâm theo truyền thống Trung Đạo

và Mandala phổ thông của ba gia đình,

và tổng cộng, tôi đã thọ nhận nhiều quán đỉnh chính yếu.

 

Tôi đã thọ nhận chỉ dẫn đầy đủ về Đạo Và Quả Dành Cho Các Đệ Tử[27]

và một giải thích tỉ mỉ về Mật điển Hevajra [Kim Cương Hỷ].

Khi giải thích tri kiến về sự bất khả phân của luân hồiNiết Bàn

theo sự tương tục nguyên nhân của nền tảng phổ quát,

trong những giáo lý cho các đệ tử

Ngài dành bảy ngày cho những chỉ dẫn trực chỉ dựa trên việc tìm kiếm tâm.

Nhờ đó, tôi đạt được sự hiểu một phần về tinh túy của tâm.

Kim Cương Trì vĩ đại cũng nắm giữ truyền thừa rốt ráo sâu xa

về sự hướng dẫn kinh nghiệm, những chỉ dẫn tâm yếu của Đức Nyoshul Lungtok Tenpe Nyima[28].

 

Tôi được yêu cầu giải thích Bảy Điểm [Luyện Tâm] cho một nhóm những hành giả khát khao

khi Khenchen Shenphen Rinpoche đang tiến hành một tóm tắt quan trọng về các giáo lý Mật điển.

Tôi cũng chịu trách nhiệm kiểm tra nửa đầu của Cây Phân Loại Mật Điển Chung.

Vị đạohọc giả này cũng giải thích Tóm Lược Căn Bản Luật.

Thartse Khenchen không thể đến;

vì thế, khi phần Yoga Tantra kết thúc,

Tôi thọ nhận Trăm Trao Truyền Mitra [Mitra Gyatsa] và Bảy Mandala Của Ngor[29],

các quán đỉnh Bhairava chính yếu của truyền thống Ra và Tsarpa,

cũng như một chỉ dẫn ba phần dựa trên hướng dẫn về Đạo Và Quả của Đức Ngawang Chodrak từ Ngài Tashi Gyatso.

 

Sự trao truyền Tuyển Tập Mật Điển bị trì hoãn và nhìn chung, đã kéo dài khoảng bảy tháng.

Mặc dù cha cao quý của tôi, vị Trì Minh vĩ đại,

đã đến để trao truyền Kho Tàng Phát Lộ [Rinchen Terdzod[30]],

tôi vẫn đang cân nhắc xem điều gì quan trọng hơn.

Cuối cùng, tôi cáo lỗi với nỗi bận tâm lớn rằng cha đã ở Dzongsar quá lâu,

và bỏ lỡ phần Bổn tôn và đạo sư, tôi trở về nơi của mình ở Tashi Lhatse.

 

Bắt đầu vào ngày cát tường theo chiêm tinh,

trong tháng của những thần thông năm Kim Tuất [1910],

cha tôi ban một chuỗi các quán đỉnh quan trọng,

bao gồm Đại Tập Hội, Vét Cạn Đáy Sâu Luân Hồitoàn bộ Kho Tàng Mới Của Đức Chokling[31].

Trong tám tháng cả thảy, cha đã ban các quán đỉnh và trao truyền.

 

Đạo sư cao quý với lòng từ chẳng thể đo lường,

từ nay cho đến khi con đạt tinh túy giác ngộ,

Hỡi đạo sư với lòng từ vô lượng,

con sẽ liên tục dâng cúng dường lên Ngài.

 

Trong năm Kim Hợi [1911], tôi thọ nhận mọi quán đỉnh chín muồichỉ dẫn giải thoát

cho Trích Yếu Nghi Quỹ từ vua của chư vị Kim Cương Trì,

Khenchen Samten Lodro, cũng như khẩu truyền cho Khecari và hơn thế nữa.

 

Cũng năm đó, cha cao quý của tôi, vị Trì Minh,

viên tịch và đến cõi Liên Hoa Quang[32].

Tôi dâng vô số cúng dường như mây để hoàn thành các ý định của Ngài.

 

Trong hơn bốn tháng của năm Thủy Tý [1912],

tôi thọ nhận rất nhiều quán đỉnh từ Trích Yếu Mật Điển,

từ phần Vô Thượng Du Già trở đi,

từ Thartse Zhabdrung Rinpoche Jampa Kunzang Tenpai Nyima của Tu viện Wara.

Vị đạo sư này là vô song trong những phẩm tính về sự uyên bác, giới luậtnhân từ;

sự thật rằng Ngài không thể trường thọ là điều vô cùng đáng tiếc và cội nguồn của nhiều đau buồn.

 

Từ Đức Kunzang Palden Chodrak, tôi thọ nhận sự hướng dẫn mang tính giải thích về Pramanavarttika,

một luận giải về Mật điển Thời Luân Kalachakra và v.v.

 

Chúa tể của những học giả – Tashi Chophel nhiều lần minh chứng lòng từ tuyệt vời của Ngài

bằng cách ban cho tôi Các Pháp Vàng Của Shangpa, Thời Luân và v.v.

 

Bước sang tuổi hai mươi lăm, tôi đến điều phục thung lũng Gonjo[33].

Như điều này chứng minh, mặc dù đã quay về trụ xứ của mình,

tôi vẫn có nhiều chuyến đi vào mùa hè và mùa đông để thu thập cúng phẩm.

 

Không để món quà của những kẻ chí thành bị uổng phí,

tôi thành lập các trung tâm nghiên cứuthực hành

và sắp xếp để những trước tác của vị tiền nhiệm của tôi

được xuất bản thành hơn mười ba tập[34].

Cùng với ba tập trong tuyển tập Khecari,

luận giải về Tập Hội Ý Định KinhTikka cho Guhyagarbha,

hơn hai tập các trước tác của Đức Mipham[35],

và những bản văn cùng luận giải quan trọng khác từ Kinh và Mật,

tôi đã tài trợ việc in ấn nhiều tập sách theo năm tháng.

 

Trong năm Thổ Ngọ [1918], khi tôi hai mươi lăm,

tôi thiết lập trung tâm giảng dạy Giáo Pháp vĩ đại

Shedrup Dargye Ling[36]

và nhờ những mong ước cao thượng của Khenchen Shenphen Jampe Gocha[37],

nó đã tiếp tục không suy giảm cho đến hiện tại.

Theo cách này, tôi đã đem đến vài lợi lạc cho những giáo lý.

 

Cũng năm đó, khi lễ gia trì thuốc diễn ra tại Tu viện Pukgon,

tôi đến Rudam Samten Choling [tức Tu viện Dzogchen[38]].

Ở đó, từ Đức Losal [tức Khenpo Jigme Pema Losal], vị sở hữu những phẩm tính xuất sắc nhất về sự trì luậtuyên bác,

tôi thọ nhận đại giới.

Tuy nhiên, các hoàn cảnh cát tường chỉ ở mức trung bình.

 

Chính trong lễ gia trì thuốc Kagye ở Tu viện Pukgon

mà tôi lần đầu tiên diện kiến diện mạo hoàng kim của Kim Cương Trì Shechen Gyaltsab[39]

và thọ nhận từ Ngài quán đỉnh trường thọ Tập Hội Tinh Túy Bí Mật Nhất [Yangnying Kundu].

Ngài vô cùng từ ái với tôi.

 

Sau đấy, Ngài đến Dzongsar và ở lại trong một thời gian dài,

ban nhiều quán đỉnh và trao truyền hiếm

từ truyền thống Terma cổ xưa, bao gồm Kho Tàng Phương Bắc[40].

 

Năm Kim Thân[41], Gyaltsab Rinpoche

ban nhiều quán đỉnh và trao truyền từ truyền thống Mindrolling.

Ngài bị ốm và tôi đã dâng nhiều lời cầu nguyện vì sự trường thọ của Ngài.

 

Tôi đến trại Do ở phía Bắc

và gặp gỡ Đấng Toàn Tri Tenpe Nyima[42].

Ngài từ bi ban các quán đỉnh Tập Hội Trì Minh [Rigdzin Dupa] và Nghi Quỹ Đạo Sư Tinh Túy Niêm Kín [Ladrup Tikle Gyachen],

trao cho tôi các chỉ dẫn về Longchen Nyingtik

và giảng dạy tổng quan Guhyagarbha.

Ngài liên tục ban hướng dẫn và lời khuyên.

Ngài cho phép tôi trao truyền các trước tác của Ngài

ngay cả khi chưa thọ nhận khẩu truyền

và chăm sóc tôi với lòng từ lớn lao.

 

Tôi đã gặp gỡ Đức Lerab Lingpa[43], thọ nhận quán đỉnh chín muồichỉ dẫn giải thoát

từ pho Phổ Ba Kim CươngTinh Túy Giải Thoát (Drolthig)[44].

 

Trong năm Mộc Tý[45] [1924], khi tôi ba mươi mốt tuổi,

tại ẩn thất Tashi Demchok Ling

trung tâm Giáo Pháp vĩ đại của Shechen[46],

chúa tể của đàn tràng với danh hiệu Padma [tức Đức Shechen Gyaltsab]

ngự trên tòa sư tử

và với sự vân tập xuất sắc của đạo sư và tập hội này,

ban các chỉ dẫn cho nhiều bản văn,

cùng với quán đỉnhchỉ dẫn hỗ trợ,

liên quan đến tám cỗ xe lớn của truyền thừa thực hành

từ Kho Tàng Chỉ Dẫn Quý Báu [Damngak Dzod[47]],

cũng như quán đỉnh chín muồichỉ dẫn giải thoát

cho những giáo lý với dấu ấn hạn chế từ Kho Tàng Phát Lộ.

 

Đấng Quy Y này, viên ngọc báu như ý,

đã chăm sóc tôi với lòng từ lớn lao cả về thế tục lẫn tâm linh.

Ngài là một kho tàng bi mẫn vô song.

 

Từ Đức Pema Drime Lodro,

tôi thọ nhận trao truyền cho các trước tác của Ngài Kunzang Namgyal[48],

và hai hệ thống Nyingtik[49] cũng như các quán đỉnh Đại Tập Hội

và hơn thế nữa – vô vàn giáo lýquán đỉnh cả thảy.

 

Trung tâm nhập thất Dragang, do vị vua Pháp trước kia của Derge thành lập,

đã hư hỏng.

Tôi trao cho những hành giả một khoản thu nhập

gồm hơn trăm con Dri và ba mươi mẩu bạc mỗi vị,

xây dựng lại những phòng nhập thất của họ.

Tôi cũng thiết lập các địa điểm nhập thất cho dòng truyền thừa nhĩ truyền

chủ yếu tập trung vào thực hành Đạo Và Quả.

 

Sau đấy, trong vùng Khyungpo,

tôi được thỉnh mời bởi Wangnor, một quan chức

thiết lập một kết nối Giáo Pháp

nhờ các quán đỉnh Bốn Phần Tâm Yếu và v.v.

 

Trong năm Mộc Sửu[50] [1925], tôi hành hương đến Lhasa

đỉnh lễ và dâng cúng dường trước tôn tượng Phật Thích Ca Mâu Ni Jowo.

Tôi dâng nhiều lời nguyện đúng như mong ước

chiêm ngưỡng những tướng tốt và vẻ đẹp của Đức Gyalwang Thupten Gyatso[51].

Như một kết nối Giáo Pháp, tôi thọ nhận giáo lý về Đèn Soi Nẻo Giác[52]

và dâng nhiều lời cầu nguyện chân thành vì sự trường thọ của Ngài.

 

Tuân theo tiểu sử của vị tiền nhiệm,

tôi đến trung tâm Giáo Pháp Mindrolling[53] vĩ đại

để thọ nhận đại giới một lần nữa

từ Đức Ngawang Thupten Norbu.

 

Một tháng trong năm đó, tôi đã du hành đến Khyungpo.

Dọc đường, tôi gặp Đức Neten Chokling[54] và Tsikey Tulku Rinpoche[55],

từ những vị này, tôi thọ nhận nhiều quán đỉnhgiáo lý,

bao gồm Kho Tàng Mới Của Đức Chokling [Chokling Tersar].

 

Trong năm Mộc Sửu[56] [1925],

tôi, kẻ bất hạnh,

nhận được tin tức tồi tệ rằng Đấng Toàn Tri Situ vĩ đại,

vị mà chỉ nghĩ đến Ngài cũng xua tan đau khổ của sự tồn tạitịch tĩnh,

đã viên tịch.

Tôi tụng nhiều lời cầu nguyện và dâng cúng dường để hoàn thành ý định của Ngài.

Trong nhiều năm sau đó, tôi nhiều lần gặp Ngài trong mơ.

 

Mặc dù Ngài, đấng bảo hộ của con, đã về cõi tuyệt đối,

Con chắc chắn rằng Ngài vẫn tiếp tục chăm sóc con bằng tình yêu thương.

Và con liên tục cảm thấy buồn vui lẫn lộn.

 

Theo mệnh lệnh của thượng thư Mento[57],

tôi du hành đến Jampa Ling ở Chamdo

và ở đó, cử hành nghi lễ đẩy lùi Yama,

cũng như thực hành về chư trưởng lão và v.v.

Tôi cũng trao quán đỉnh và lễ tẩy tịnh cho thượng thư

khẩu truyền giải thích về Kho Tàng Pháp Giới (Choying Dzod).

 

Vào khoảng thời gian này, tôi thọ nhận nhiều quán đỉnh quan trọng

từ chúa tể của chư học giả – Geshe Jampal Rolwe Lodro[58],

bao gồm đại quán đỉnh Mật Tập Guhyasamaja,

trên chính đỉnh của chùa Đại Uy Đức.

Ngài thiết lập những điều kiện cát tường cho sự trường thọ của tôi

nhờ thực hành trường thọ Thắng Lạc Kim Cương.

 

Trở về nơi ở của mình,

tôi gửi lời chào và một chiếc khăn nghi lễ

đến Kyabje Gyaltsab Rinpoche ở Shechen.

Trong lời đáp lại viết tay của mình, Ngài viết:

“Giờ đây, đại học giả Kathok Situ đã viên tịch

và Ta cũng là một ông lão sắp chết.

Dầu trong ngọn đèn giáo lý Nyingma sắp cạn,

vì thế, thật tốt nếu con dồn hết dũng khí

và chuẩn bị bản thân để phụng sự giáo lý”.

Đó là thông điệp cuối cùng của Ngài.

Không lâu sau đó, Ngài đã về cõi tuyệt đối.

 

Tôi đến để cử hành sự viên thành các ý định của Ngài

và đêm nọ khi đang ở Pawok, tôi gặp đạo sư trong mơ.

Cho đến cuối tuần thứ ba, tôi dâng những cúng dường như mây

cầu nguyện nhiều lần để hoàn thành các ý định của Ngài.

Tôi cũng cử hành lễ trà tỳ và v.v.

 

Từ Khenpo Kunzang Palden[59] vĩ đại,

tôi thọ nhận chỉ dẫn về phát Bồ đề tâm theo Nhập Bồ Tát Hạnh.

Sau đấy, trở về nơi ở của mình, tôi lập tức tiến hành nhập thất.

 

Sau khóa nhập thất, tôi đến Kathok vinh quang

và giám sát việc sửa chữa tỉ mỉ học viện nghiên cứu,

nơi mà chúng tôi đã thêm bức tượng linh thiêng mới.

Sau đấy, với nguồn lực của bản thân và bất cứ điều gì còn lại,

chúng tôi xây dựng một ngôi chùa để lưu giữ tôn tượng Phật lớn,

cả cấu trúc bên ngoài lẫn các đối tượng linh thiêng bên trong.

 

Dzogchen Rinpoche thứ năm đã viên tịch

và khi vị tái sinh của Ngài xuất hiện, tôi chủ trì lễ tấn phong,

cúng dường sự tán thán và v.v.

mà không có bất cứ điều gì dựa trên sự tư lợi.

 

Vào khoảng năm tôi mười lăm tuổi,

tôi đã phụng sự giáo lý tại Kathok.

Trong thời gian rảnh vào giai đoạn ấy,

tôi cử hành nhiều sự trì tụng tiếp cận và thành tựu,

bao gồm sự trì tụng tiếp cận chính yếu cho Kim Cương Hỷ.

 

Dưới chân Đức Gaton Lekpa[60],

vua của tất cả những vị trì giữ truyền thừa nhĩ truyền, Pháp Chủ Kim Cương Trì,

tôi thọ nhận một sự giải thích về những chỉ dẫn riêng tư sâu xa

của Đạo Và Quả theo truyền thống khẩu truyền, đầy đủ bốn tiêu chuẩn có cơ sở,

cũng như Khecari, Yamantaka, Mahakala và v.v –

nhiều quán đỉnh chín muồichỉ dẫn giải thoát sâu xa từ truyền thừa khẩu truyền.

Ngài cực kỳ từ áigiao phó cho tôi bằng ý định trí tuệ của Ngài.

 

Đạo sư tôn quý với lòng từ vô song

đã thiết lập một truyền thống mới về thực hành Phổ Ba tỉ mỉ ở Dzongsar,

xây dựng nhiều sự hỗ trợ của thân, khẩu và ý giác ngộ,

cũng như thành lập một trung tâm nhập thất nhỏ ở Taktsang.

Vào một dịp, tôi đã cử hành nhiều thực hành đại thành tựu (Drupchen),

và theo tầm nhìn của Đấng Toàn Tri Situ,

giúp phổ biến thực hành ‘Trăm Triệu Biến Mật Chú Mani’ vĩ đại

trên khắp các vùng lân cận,

nơi nó trở thành nền tảng cho hạnh phúcan lành.

 

Bây giờ, tôi sẽ kể chi tiết về một số kết nối Giáo Pháp khác

mà tôi đã thiết lập vào những dịp khác nhau thông qua khẩu của chư đạo sư vĩ đại.

 

Tôi đã thọ nhận nhiều quán đỉnhgiáo lý

từ Đức Gyaltsen Ozer, vị Khenpo vĩ đại[61].

Từ Terton Drime Ozer[62],

tôi thọ nhận đại quán đỉnh cho Thâu Nhiếp Chứng Ngộ Chư Bổn Tôn [Yidam Gongdu],

cũng như tuyển tập Đại Uy Đức của chính Terton và v.v.

Với những quán đỉnh này và nhờ tiêu trừ các chướng ngại,

Ngài ôm trọn tôi bằng lòng từ to lớn.

 

Từ Đức Raktrul Thupten Shedrup[63],

tôi thọ nhận mọi quán đỉnh và trao truyền cho Giáo Lý Hư Không [Namcho[64]],

cũng như các phát lộ của Tổ Ratna Lingpa[65] và hơn thế nữa.

 

Khenpo Ngawang Palzang vĩ đại[66]

ban cho tôi các quán đỉnh và trao truyền về những phát lộ của Tổ Longsal Nyingpo và Dudul Dorje,

cũng như đại quán đỉnh Tám Bổn Tôn Vĩ Đại – Bí Mật Trọn Vẹn,

và các quán đỉnh cùng với trao truyền cho Tinh Túy Bí Mật Nhất Của Không Hành Nữ [Khandro Yangtik] và v.v.

Như thế, Ngài chăm sóc tôi với lòng từ lớn lao.

 

Từ chúa tể của chư học giả – Lekshe Jorden,

tôi thọ nhận các trao truyền cho trước tác của Tổ Jigme Lingpa[67] và kho tàng của Đức Jatson Nyingpo[68],

cũng như những nghi thức được kết tập cho truyền thống Kama.

 

Từ Zurmang Trungpa Rinpoche[69],

tôi thọ nhận những chỉ dẫnquán đỉnh từ truyền thừa nhĩ truyền Thắng Lạc Kim Cương,

Tri Kiến Mở Rộng Bao La [Tawa Longyang] của Đức Dorje Lingpa[70],

chỉ dẫn về Sáu Du GiàĐại Thủ Ấn.

 

Từ vị tái sinh Chokling ở Tu viện Neten,

tôi thọ nhận hai nghi quỹ Thực Hành Tâm [Tukdrup] từ Kho Tàng Mới,

cũng như Ba Phần Đại Viên Mãn[71].

 

Từ Kela Tulku Rinpoche,

tôi thọ nhận quán đỉnh chính yếu cho Thực Hành Tâm – Tự Nhiên Viên Thành Ước Nguyện [Tukdrup Sampa Lhundrup],

trao truyền Thực Hành Sinh Lực Trì Minh [Rigdzin Sokdrup[72]] và hơn thế nữa.

 

Tôi đã thọ nhận nhiều quán đỉnh và trao truyền từ Dabzang Tulku Rinpoche,

bao gồm quán đỉnh Kim Cương Hợi Mẫu, chín Bổn tôn Jinasagara,

Jinasagara của Đức Khyentse và v.v.

 

Từ vị tái sinh của Terchen Rolpe Dorje[73],

tôi thọ nhận tất cả giáo lý kho tàng của Đức Rolpe Dorje.

 

Từ Đức Palpung Jamgon Situ[74],

tôi thọ nhận Bồ Tát giới theo truyền thừa hành động bao la,

quán đỉnh chính yếu về Kim Cương Hỷ

và nhiều giáo lý khác, bao gồm Bạch Độ Mẫu.

 

Từ vị tái sinh của Đức Kongtrul ở Tsadra[75],

tôi thọ nhận các quán đỉnh cho Phổ Ba Kim Cương của Tổ Ratna Lingpa,

phát lộ Terma Yangdak của Đức Kongtrul Vĩ Đại[76] và hơn thế nữa.

 

Từ Shechen Rabjam Rinpoche,

tôi thọ nhận quán đỉnh Krodhakali ngắn gọn của Tổ Nyang

và nhiều quán đỉnh khác, bao gồm Đại Uy Đức – Đấng Chiến Thắng Tinh Linh Kiêu Ngạo.

 

Từ Đức Kathok Kunzang Tenzin,

tôi thọ nhận khẩu truyền giải thích cho Kinh Văn Phổ Thông Thâu Nhiếp Mọi Ý Định,

cũng như những giáo lý về Ba Bộ An Trú [Ngalso Korsum], Kho Tàng Tối Thượng Thừa [Thekchok Dzod]

và nhiều bản văn khác.

 

Từ Ngài Pema Tukje Wangchuk[77],

tôi thọ nhận các kho tàng được tuyển tập của Đức Lerab Lingpa,

quán đỉnhkhẩu truyền cho hai pho Dongtruk trong Nyingma Kama[78].

 

Tôi cũng thiết lập nhiều kết nối Giáo Pháp

với Đức Sangye Nyenpa, Tralek Choktrul,

Tenzang, Khargo Tulku và những vị khác.

 

Lúc trẻ, tôi đã thọ nhận

quán đỉnh chính yếu cho Thực Hành Tâm Tự Nhiên Viên Thành Mong Ước

khẩu truyền cho Pema Kathang[79] từ Terse Tsewang Norbu.

 

Từ vị Tulku thù thắng Tashi Paljor[80],

tôi thọ nhận nhiều trao truyền, bao gồm quán đỉnh Phổ Ba Hệ Thống Mật Điển (Gyuluk Phurba),

và nhiều quán đỉnhkhẩu truyền cho Terma tâm của chính vị đạo sư này,

cũng như khẩu truyền cho Kho Tàng Mật Chú Kagyu [Kagyu Ngakdzod]

và các tác phẩm được tuyển tập của Tôn giả Jonangpa Taranatha[81].

 

Drikung Terton Osel Dorje đã xua tan các chướng ngại với cuộc đời tôi

và ban một quán đỉnh Tara từ những phát lộ Terma của chính Ngài

cũng như một quán đỉnh trường thọ.

Theo những cách như vậy, chúng tôi thiết lập một kết nối Giáo Pháp theo thời gian.

Mặc dù Ngài là một vị phát lộ kho tàng chân chính,

hoạt động lợi lạc của Ngài yếu ớt bởi tính cách ngang bướng.

 

Từ thiện tri thức tâm linh Jamgyal vĩ đại[82],

tôi thọ nhận các quán đỉnh Kim Cương Hỷ và Vô Ngã Phật Mẫu [Nairatmya] Nguyên NhânCon Đường,

một khẩu truyền giải thích cho Đạo Và Quả – Sự Giải Thích Riêng Tư Cho Đệ Tử,

và hơn thế nữa – một chuỗi bao la những Giáo Pháp như cam lồ.

Ngài dành cho tôi tình mến thương và lòng từ lớn lao.

 

Dezhung Choktrul Rinpoche[83],

sức trang hoàng duy nhất của truyền thống Ngor trong các giáo lý Sakya,

đã ban cho tôi những sự gia trì cho phép cho Đại Dương Nghi Quỹ,

Mandala thân Thắng Lạc Kim Cương của Tổ Drilbupa, Kim Cương Du Già Nữ Khecari,

và nhiều quán đỉnh chín muồi cùng chỉ dẫn giải thoát quan trọng khác.

 

Từ Zimwog Choktrul, tôi thọ nhận các quán đỉnh Kim Cương Hỷ Nguyên NhânCon Đường,

cũng như mọi quán đỉnhchỉ dẫn cho Mahakala Bốn Mặt.

 

Tôi không trực tiếp gặp gỡ Đức Drubwang Shakya Shrijnana[84],

nhưng đã trao đổi qua thư.

Ngài bày tỏ lòng bi mẫn lớn lao với tôi và

tôi cảm nhận được ân phước gia trì từ sự chứng ngộ của Ngài, khuấy động sức mạnh của giác tính.

 

Từ tâm tử Phakchok Dorje[85] của Ngài,

tôi thọ nhận quán đỉnh Đạo Sư Thắng Lạc Kim Cương và nhiều giáo lý khác.

 

Mặc dù tôi chẳng có được phước báu diện kiến Gyalwang Karmapa thứ mười lăm,

tôi đã gặp Ngài trong những giấc mơ.

Dù vậy, tôi đã diện kiến diện mạo sáng ngời của vị tái sinh của Ngài, vị thứ mười sáu, Đức Rigpe Dorje.

Với niềm tin và lòng sùng mộ lớn lao, tôi chiêm ngưỡng

nghi lễ vương miện giải thoát nhờ nhìn ngắm vĩ đại

và uống cam lồ từ khẩu giác ngộ của Ngài.

 

Từ Kim Cương Trì Bodhibhadra,

tôi thọ nhận các quán đỉnhchỉ dẫn

cho A Súc Bệ Phật, Kim Cương Hỷ và Kim Cương Du Già Nữ Khecari.

 

Từ vị Yogi ẩn mật Tenphel,

tôi thọ nhận các quán đỉnh, sự cho phépchỉ dẫn sâu xa

cho Dòng Nhĩ Truyền của Tổ Thangtong Gyalpo[86] và Panjaranatha,

Kim Cương Du Già Nữ Khecari và v.v.

 

Đức Ewam Thartse Khenchen[87]

ban cho tôi các quán đỉnh Nguyên NhânCon Đường của Kim Cương Hỷ

và sự gia trì cho con đường sâu xa.

 

Khenchen Donpal ban cho tôi quán đỉnh Vô Lượng ThọMã Đầu Minh Vương kết hợp.

Luding Gyalse Rinpoche[88]

ban cho tôi sự gia trì cho phép về Ba Bổn Tôn Trắng.

Và từ Đức Dordzin Palden Jamyang,

tôi thọ nhận quán đỉnh chính yếu về Thắng Lạc Kim Cương từ truyền thống Luipa,

mọi quán đỉnh chín muồi cũng như chỉ dẫn giải thoát cho Mahakala Bốn Mặt.

 

Từ Đức Jamyang Khyenrab Thaye[89],

tôi thọ nhận đại quán đỉnh Thời Luân

và các khẩu truyền cho Vajrabhairava và Mahakala Bốn Mặt.

 

Từ Tharlam Tulku Rinpoche[90],

tôi thọ nhận khẩu truyền

các trước tác của chư vị trưởng lão Sakya, Ngorchen và Zhuchen.

Từ Tsangsar Tulku, tôi thọ nhận quán đỉnh chính yếu cho các nghi lễ thượng và hạ của Phổ Ba

và các pho về Mahakala, Vaisravana [Tỳ Sa Môn] và v.v.

 

Từ Đức Namkha Kunzang Tenpe Gyaltsen[91],

tôi thọ nhận các quán đỉnhgia trì cho phép

cho chín Bổn tôn Vô Lượng Thọ và Đấng Cưỡi Hổ.

Từ Shar Lama Konchok Tenzin, tôi thọ nhận

mọi sự gia trì cho phép và những chỉ dẫn chi tiết về Panjaranatha,

và sự gia trì cho phép về Bạch Độ Mẫu Tỏa Sáu Hào Quang.

 

Nói ngắn gọn, nhờ nương tựa hơn tám mươi đạo sư,

tôi đã thọ nhận vô vàn Giáo Pháp linh thiêng.

 

Bắt đầu từ năm thứ bốn mươi tám, tôi bị phiền nhiễu

bởi một hoàn cảnh nghiêm trọng kéo dài nhiều năm.

Nhờ lòng bi mẫn của đạo sưTam Bảo

tôi vẫn còn sống.

 

Bởi che chướng nặng nề từ ác nghiệpsử dụng sai ngân quỹ,

tôi chẳng có bất kỳ linh kiến nào về chư Tôn Tam Gốc,

các kinh nghiệm về việc thọ nhận giáo lý từ chư vị hay tương tự,

vì thế, không có gì để viết lại.

 

Hạnh tinh tấn thì yếu ớt còn thông tuệ thì nhỏ bé.

Tôi nhớ được một chút với sự hiểu trung bình.

Nếu tôi đã được rèn luyện trong các nguyên tắc về Lô-gích,

tôi tin rằng tôi đã có thể trở nên không lỗi lầm trong tranh luận,

nhưng điều đó thật vô nghĩa.

 

Tôi đã ghi nhớ Trì Tụng Danh Hiệu Văn Thù,

cũng như các nghi quỹ Tam Gốc

Magon Chamdral[92] từ Longchen Nyingtik,

bên cạnh nhiều sự trì tụng cho thực hành tập hội trong truyền thống Ngor,

khi mới trì tụng chúng chỉ hai hay ba lần.

Tôi tin rằng điều này là nhờ thói quen tích cực từ nhiều đời quá khứ.

 

Khi học thuộc đà-ra-ni Kim Cương Tồi Toái [Vajravidāraa],

một tối, lúc nhìn lên mặt trăng,

tôi cảm thấy nỗi buồn lớn lao và liên tục nhớ về

trung tâm Giáo Pháp vĩ đại của Sakya vinh quang,

và cách mà tôi đã sinh ra trong gia đình Khon

trong một đời quá khứ

một ký ức thoáng qua dựa trên các tập khí.

 

Thỉnh thoảng tôi cũng có ký ức rời rạc

về Ngari Panchen[93], Lhatsun[94] vĩ đại,

Ngawang Lobzang Gyatso[95],

Tsangyang Gyatso[96], Palri Khyentse[97] và những vị khác.

Chúng là những tưởng tượng điên cuồng của tôi

dựa trên sự kiêu ngạo quá mức,

bởi điều đó rõ ràng thật vô lý

khi những đạo sư thù thắng như vậy

lại sinh làm một kẻ xấu xa như tôi.

 

Khi còn trẻ, tôi có một giấc mơ

trong đó, tôi được Nữ Hộ Pháp Mật Chú chăm sóc.

Tôi bạch điều này với chúa tể của đàn tràng,

vị bảo rằng tôi cần trì tụng Nữ Hộ Pháp Mật Chú của Tổ Longsal Nyingpo.

 

Tổ Thangtong Gyalpo đã giới thiệu cho tôi bản chất của giác tính thanh tịnh

với sự hỗ trợ của một viên pha lê.

Trong những giấc mơ, tôi diện kiến trưởng lão Angaja[98] cao quý,

cũng như Đức Vimalamitra[99] và Tổ Longchenpa[100].

Tôi thọ nhận quán đỉnh trường thọ từ Đức Khyentse Wangpo[101]

và sự trao truyền giải thích cho các thực hành sơ khởi Longchen Nyingtik

từ Bồ Tát Patrul[102] vĩ đại.

 

Đức Nubchen Sangye Yeshe trao cho tôi những giao phó

cho nhiều tác phẩm Mật thừa.

Tôi có những giấc mơ và kinh nghiệm về việc thọ nhận gia trì

từ nhiều đạo sư trong truyền thừa Đạo Và Quả,

cũng như Tổ Milarepa, Sakya Pandita, Tsongkhapa,

và Lhatsun Namkha Jigme,

vị cho tôi thấy những dấu hiệu về hành động Mật thừa.

Tôi chẳng thể nói liệu chúng là thật hay giả;

chúng giống như những thứ lờ mờ mê lầm.

Và bởi tôi không bám chấp vào ngã,

tôi không thể nhớ lại chúng một cách chi tiết chuẩn xác.

 

Mặc dù tôi mong muốn thực hành tiếp cận và thành tựu

về chư Tôn Tam Gốc của trường phái mới và cũ, truyền thống Kama và Terma,

liều lĩnh như kẻ khát mong mỏi nước uống,

tôi vẫn chìm trong tám mối bận tâm thế tục.

 

Tôi đã xoay xở được như sau, dù ít hay nhiều:

 

Thời trẻ, tôi đã thực hành lời tán thán Đức Văn Thù

và trì tụng nó trong khoảng một tháng,

nhưng gần như chìm trong xao lãng.

 

Tôi đã tích lũy 300.000 biến Bạch Văn Thù

và 500.000 Mật chú tiếp cận cho Diệu Âm Thiên Nữ,

nhưng điều này bao gồm nhiều ý nghĩ và rất ít áp dụng các điểm then chốt.

 

Tôi tiến hành trì tụng hàng ngày Nghi Quỹ Bí Mật Phổ Ba Kim Cương của Tổ Ratna Lingpa, Bạch Hợi Mẫu Kim Cương từ truyền thống Konkadatta,

và kho tàng tâm, Trí Tuệ Soi Sáng (Prajnalokakrtya)[103].

 

Tôi cũng hoàn thành các trì tụng cho Takhyung Barwa phẫn nộ, Sư Tử Diện Phật Mẫu,

thực hành đạo Tinh Túy Niêm Kín (Tikle Gyachen) và Phổ Ba Kim Cương.

 

Tôi thực hành hai lần Mahakala Bốn Mặt Tăng Cường Trường Thọ.

Tôi tiến hành các tích lũy một trăm nghìn của thực hành sơ khởi Longchen Nyingtik,

nhưng không thể hoàn thành hơn 40.000 lễ lạy.

 

Tôi thực hành tiếp cận chính yếu cho Kim Cương Hỷ một cách tỉ mỉ,

Bhutadamara, [Bạch] Vô Lượng Thọ của Đức Mitra theo cả [truyền thống] Kama và Terma,

Phổ Ba Tinh Túy Bí Mật (Sangtik) hai lần,

Phổ Ba Nhĩ Truyền (Nyengyu),

cả Phổ Ba Kim CươngĐại Uy Đức từ Tịnh Quang Tâm Yếu (Osal Nyingtik),
Phổ Ba [truyền thống] Chokling: Vua Phẫn Nộ Thâu Nhiếp Mọi Sức Mạnh,

Kim Cương Thủ và Hoàng Tài Bảo của Tổ Longsal Nyingpo,

Thực Hành Bí Mật về Phổ Ba của Tổ Dudul Dorje và Palchen Dupa,

trì tụng mở rộng cho Văn Thù Hệ Thống Mật Điển,

Dorje Drolo từ Sangwa Gyachen,

Karma Guru, Bạch Độ Mẫu,

và Tách Rút Tinh Túy Trọng Yếu,

Makzor, Thực Hành Trường Thọ Mandala Chung Của Ba Gia Đình,

Lama Sangdu và Konchok Chidu,

Barche Kunsel, Sampa Lhundrup và Tara Trừ Chướng,

Độ Mẫu Tara, Kim Cương Thủ và Uế Tích Kim Cương [Ucchusma], Tập Hội Chư Thiện Thệ của Tổ Nyang, Tập Hội Tám Bổn Tôn (Kagye),

Đại Uy Đức từ Dòng Nhĩ Truyền hai lần.

 

Tôi cũng thực hành Đấng Chiến Thắng Kẻ Thù (Parol Goljom) hai lần,

Vijaya từ truyền thống Bari,

Tâm Yếu Thánh Mẫu Bất Tử (Chime Phakme Nyingtik) ba lần,

nghi quỹ đạo sư Vimalamitra Tâm Gia Trì,

Thánh Vô Cấu Nhiễm hai lần.

 

Tôi đã thực hành thực hành tâm Vô Lượng Thọ Đỏ và Kimkara Đỏ,

thực hành ‘đẩy lùi thêm’ từ Tinh Túy Giải Thoát, Nagaraksha,

Bạch Độ Mẫu từ truyền thống của Tổ Atisa và của Zhikpo Lingpa,

Bạch Độ Mẫu từ Longchen Nyingtik và truyền thống Bari hai lần,

vị bảo vệ Sáu Tay Trắng,

Kim Cương Tát Đỏa từ truyền thống Mindrolling, [Đạo Sư] Phẫn Nộ Đỏ (Drakmar),

Dorje Drolo từ Thực Hành Tâm,

Dorje Drakdzongma, vị bảo vệ của Panjaranatha, ba lần,

và tôi trì tụng bảy âm tiết của Panjaranatha

khoảng tám triệu biến.

 

Tôi tin rằng hình tướng Mahakala này

luôn quán sát tôi với lòng bi mẫn.

Khi trùng tu ngôi chùa Hộ PhápTu viện Dzing Namgyal,

lúc xua tan chướng ngại trong lễ thánh hóa,

nhờ tăng thêm sức mạnh của giác tính

bức tượng của vị ấy thực sự rung động

như tôi và nhiều người khác chứng kiến.

 

Tôi đã tích lũy hai triệu biến Phổ Ba Sakya

thực hành Trì Minh Trưởng Tử Của Những Đấng Chiến Thắng [Gyalwe Dungdzin] từ Thực Hành Tâm,

cũng như Đạo Sư Sư Tử Ngữ từ truyền thống của Tổ Padampa,

Sư Tử Ngữ, thực hành hàng ngày cho toàn bộ Mandala

của Không Hành Nữ Mật Tập [Khandro Sangdu],

các thực hành tức tai, tăng íchkính ái Kim Cương Hợi Mẫu.

 

Tôi cũng thực hành Xoa Dịu Giày Vò từ Tinh Túy Giải Thoát,

Tác Minh Phật Mẫu từ truyền thống Sakya, Khecari,

hai hệ thống về thực hành trường thọ của Tổ Thangtong Gyalpo,

Đạo Sư Du Già về Mahakala Xanh Dương Sáu Tay,

thực hành bí mật về Mahakala Bốn Mặt vinh quang

và mười nghìn biến [lời cầu nguyện] Bạch Tán Cái.

 

Đạo Sư Du Già dựa trên Tam Tôn Trường Thọ[104],

Mã Đầu Minh Vương của Đức Kyergang, Kim Sí Điểu Đa Sắc, Văn Thù Đen,

Kim Cương Thủ trong các hình tướng Utsarya và Y Xanh Dương [Nilambaradhara],

hình tướng Văn Thù kết hợp của Sakya[105],

Diệu Âm Thiên Nữ của Samantasri,

Diệu Âm Thiên Nữ của truyền thống Brahmin Kila,

thực hành bí mật về Diệu Âm Thiên Nữ Đỏ của Bhiksaparama,

Uế Tích Kim Cương trong truyền thống Tổ Atisa,

Xua Tan Lỗi Lầm Ô Nhiễm Thệ Nguyện [Damdrip Nyepa Kunsel] từ truyền thống Tinh Túy Giải Thoát,
Bạch Acala, vị Bổn tôn chính Lục Độ Mẫu từ truyền thống Suryagupta,

Jambhala Đỏ, thực hành trường thọ Bảy-Gur về Mahakala Bốn Mặt,

thực hành trường thọ Nữ Hoàng Chư Thành Tựu,

thực hành trường thọ Kurava.

 

Tôi cũng thực hành Krodhikali của Tổ Nyang,

Kim Cương Thủ Kim Cương Hỏa Chói Ngời của Đức Khyentse,

thực hành Mã Đầu Minh Vương dòng nhĩ truyền của Năm Vị Giải Độc,

Tâm Yếu Sự Hiển Bày Của Mã Đầu Minh Vương Thù Thắng,

Mã Đầu Minh Vương Giải Thoát Tinh Linh Kiêu Ngạo, Hỏa Luân Sắt Thiên Thạch,

Bạch Tán Cái Tức Tai, Khổng Tước Minh Vương [Mahamayuri],

kho tàng Vị Bảo Hộ Bốn Tay Trắng Tăng Cương Thọ Mạng của Tổ Nyang,

Liên Hoa Không Hành Nữ của Tổ Rongzom,

Đạo Sư Phẫn Nộ với phần dưới là Dao từ Giáo Lý Hư Không (Namcho),

Nghi Quỹ Đạo Sư từ Tinh Túy Chư Không Hành Nữ

thực hành trường thọ gọi là Cây Sắt.

 

Tôi đã thực hành kho tàng Ling về vị phối ngẫu trường thọ (Tseyum)

và Candali của Đức Khyentse hai lần.

Tôi cũng hoàn thành các trì tụng tiếp cận và thành tựu

cho Sư Tử Diện của Đức Vimalamitra trong [kho tàng của] Tổ Chokling,

Bạch Độ Mẫu của Guru Chowang và v.v.

 

Tất cả được tiến hành như trong tuyên bố,

“Với tâm xao lãng,

dù con trì tụng bao nhiêu, nó cũng chẳng có kết quả”.

Tôi thậm chí chẳng có được một dấu hiệu thành tựu phổ thông.

 

Nhưng chừng nào cái chết chưa tóm lấy tôi,

tôi sẽ thực hành thêm một chút về tiếp cận và thành tựu.

Để có thể đạt được thành tựu theo cách này –

Chúa tể Oddiyana, xin ban cảm hứng và ân phước gia trì!

 

Tôi không sở hữu mười phẩm tính cần thiết

của một đạo sư kim cương ngoài hay trong.

Tôi cũng không thực hành trì tụng tiếp cận

cho các bộ Mật điển lớn ở mức độ bao la.

nhưng với sự kiêu căng tự phụ,

đáp lại những thỉnh cầu, tôi nhận trọng trách của một đạo sư.

 

Do đó, tôi đã ban Kho Tàng Chỉ Dẫn (Damngak Dzod) ba lần, Trích Yếu Nghi Quỹ bốn lần,

các quán đỉnhkhẩu truyền cho Kho Tàng Phát Lộ vĩ đại,

và những chỉ dẫn riêng tư cho Đạo Và Quả một lần,

các chỉ dẫn cộng đồng hai lần, những giáo lý về Mật điển Kim Cương Hỷ ba lần,

sự trao truyền giải thích cho các Mật điển gốc của Gur và Samputa,

và với nỗ lực lớn lao, tôi thọ nhận hai lần

sự giải thích được giảng dạy trong truyền thừa gần của Đức Khyentse.

 

Tôi giảng dạy Bảy Mandala Của Ngor ba lần,

Mandala Xoa Dịu Mọi Vận Mệnh Xấu (Sarvadurgatipariosdhana) ba lần.

Tôi giảng dạy những giải thích Jonang và Zhalu về Thời Luân sáu lần và luận giải của Đức Mipham về Mật điển này một lần.

Tôi cũng trao truyền Thắng Lạc Kim Cương theo truyền thống Luipa và Nagpopa nhiều lần,

và dòng nhĩ truyền Thắng Lạc Kim Cương một lần.

 

Tôi đã ban quán đỉnhkhẩu truyền cho Kim Cương Du Già Nữ Khecari nhiều lần

khẩu truyền cho nghi thức được tuyển tập (Be’u bum) hai lần.

Tôi đã ban các trước tác được tuyển tập của chư vị trưởng lão Sakya và Ngorchen một lần,

quán đỉnhkhẩu truyền cho Panjaranatha và Mahakala Bốn Mặt hai lần.

Tôi ban sự trao truyền bản văn Bhairava một lần

và các quán đỉnh nhiều lần.

 

Tôi ban khẩu truyền Các Giai Đoạn Vĩ Đại Của Con Đường (Lamrim Chenmo[106]) một lần,

Nyingma Kama hai lần và

Tuyển Tập Mật Điển Nyingma (Nyingma Gyubum) một lần.

 

Tôi ban các bản văn chính từ Kama –

Guhyagarbha, Kinh Văn Phổ Quát,

Mật điển Mảnh Gốc [của Phổ Ba Kim Cương] –

bốn lần và các quán đỉnh chín muồi

cho phần với dấu ấn hạn chế từ Kho Tàng Terma Quý Báu ba lần

khẩu truyền hai lần.

Tôi đã trao truyền Bốn Phần Tâm Yếu ba lần,

và hai Tinh Túy hai lần.

 

Tôi ban khẩu truyền Bảy Kho Tàng [Dzod-dun[107]] hai lần

giải thích Ba Bộ An Trú nhiều lần.

Tôi ban quán đỉnh chính yếu cho Lama Gongdu hai lần,

quán đỉnh Kagye chính yếu cũng hai lần.

Tôi trao truyền Gongpa Zangthal hai lần

và Thangtong Nyengyu ba lần.

 

Tôi ban những linh kiến thanh tịnh được niêm kín [của Đức Dalai Lama thứ năm]

và Kho Tàng Mindrolling ba hay bốn lần mỗi loại.

 

Tôi ban Bình Như Ý Xuất Sắc (Dojo Bumzang[108]) hai lần

khẩu truyền cho các trước tác của Đức Minling Terchen và Tsele Natsok Rangdrol[109] một lần.

Tôi ban quán đỉnhkhẩu truyền cho các phát lộ của Tổ Dudul Dorje và Longsal Nyingpo hai lần,

các quán đỉnh chín muồichỉ dẫn giải thoát cho Longchen Nyingtik nhiều lần,

cũng như giảng dạy về Kho Tàng Phẩm Tính Quý Báu ba lần.

 

Tôi ban toàn bộ tuyển tập Terma của Đức Khyentse Wangpo

khẩu truyền cho các trước tác của Ngài hai lần.

Và tôi trao truyền toàn bộ Kho Tàng Mới Của Đức Chokling cũng hai lần.

 

Nói ngắn gọn, đáp lại nhiều lời thỉnh cầu,

và theo mong ước của mọi người, tôi đã dâng một dòng không gián đoạn

Giáo Pháp, quán đỉnh, sự cho phép, gia trìchỉ dẫn.

 

Vị tiền nhiệm của tôi, Jamgon Lama,

có sự quan tâm với mọi truyền thống như mẹ dành cho con

và hiểu các hệ thống độc đáo của mỗi truyền thống

về Mật điển, luận giảichỉ dẫn cốt tủy, mà không trộn lẫn chúng.

 

Ngài không phá hỏng các truyền thống bằng cách kết hợp chúng,

mà giảng dạy tất cả các đệ tử tùy theo nhu cầu.

Do vậy, mọi trường phái – Sakya, Gelug, Kagyu và Nyingma –

đều trân trọng Ngài là một trong những đạo sư của họ.

 

Mặc dù không có năng lực tương tự,

tôi vẫn trưởng dưỡng nhận thức thanh tịnh một cách mở rộng

với tất cả tám cỗ xe lớn của Tây Tạng,

duy trì không vấy bẩn bởi che chướng của những tư tưởng sai lầm

trong khi cũng tránh khinh thường và thành kiến bộ phái.

 

Tôi cầu nguyện rằng bất cứ truyền thống quán đỉnh, chỉ dẫnkhẩu truyền nào vẫn còn,

với nỗ lực lớn lao, tôi có thể

thọ nhận tất cả, bây giờ và trong tương lai!

 

Bất cứ điều gì tôi thọ nhận với ý định cao quý

rằng những giáo lý có thể tồn tại lâu hơn trong tương lai,

nguyện tôi có thể trao lại không chút thành kiến bộ phái,

và nguyện tôi từ bỏ mọi chỉ tríchđố kỵ

hay xem thường chúng sinh, bất kể địa vị của họ.

 

Do vậy, với mong muốn làm lợi lạc tất cả,

ý định thanh tịnh như vỏ ốc trắng hay rễ sen,

tôi đã phát Bồ đề tâm và dâng nhiều lời nguyện tích cực.

Mong tất cả những kết nối mà tôi tạo ra đều ý nghĩa.

 

Đó là tinh túy của cuộc đời giải thoát của tôi.

 

Bởi tôi đã bước sang tuổi năm mươi sáu –

nửa thế kỷ cộng thêm các lạc thú và một sừng tê[110],

mặc dù tôi chẳng có ngay cả đặc tính nhỏ bé nhất

của một vị phát lộ kho tàng hay một thành tựu giả,

nếu tôi vẫn còn tiếp tục sống,

có thể rằng khi tôi cố gắng đảm bảo sở thích của bản thân,

tôi cũng có thể đem lại chút lợi lạc nhỏ bé cho chúng sinh khác.

 

Vì thế, tuân theo những tuyên bố gián tiếp

từ Đấng Toàn Tri, vị tiền nhiệm của tôi,

cũng như tiên tri của nhiều vị vĩ đại,

bao gồm vài lời từ Đức Jamgon Kongtrul vĩ đại,

và điều khởi lên trong chính tâm tôi,

những hoàn cảnh xuất hiện khiến tôi chấp nhận một vị phối ngẫu vì thực hành trường thọ.

 

Tôi xả giới luật căn bản thừa của sự giải thoát cá nhân

và bây giờ, tôi có thể không đạt được sự chứng ngộ mà chúng nương tựa vào.

Dẫu vậy, với Bồ đề tâm, tôi bền bỉ trong các thiện hạnh.

Mặc dù tôi không thể hứa rằng điều này sẽ lợi lạc,

chừng nào tôi không là nạn nhân của các hoàn cảnh bên trong hay ngoài,

ít nhất trong một lúc, có thể tôi sẽ sống.

 

Với gánh nặng lớn lao bởi ác nghiệp mà tôi đã tích lũy,

luật nhân quả không sai lầm quy định rằng

tôi phải trải qua khổ đau như là kết quả.

Vì thế, cầu khẩn những vị bảo vệ bi mẫn:

Xin hãy từ ái quán sát kẻ khốn khổ này

và dẫn dắt hắn thoát khỏi bãi lầy khổ đau!

 

Những vi phạm các quy tắc chính và phụ

trong ba bộ giới luật trút xuống như mưa,

và tôi cũng bị vấy bẩn bởi các ác hạnh tự nhiên.

Với sự hối hận sâu sắc và chân thành, tôi nhớ lại

sám hối những lỗi lầm này: xin hãy tịnh hóa tất cả!

 

Tôi chẳng có sự tin tưởng để hoan hỷ với cái chết

và dù đời người này còn lại bao lâu,

nguyện hiến dâng tất cả cho thực hành Giáo Pháp.

Đặc biệt, nhờ tâm vị tha của Bồ đề tâm,

ổn định như vua của những ngọn núi,

nguyện hoàn thành mong ước của tất cả chúng sinh

đảm bảo sự an lành chân chính của họ!

 

Bất cứ điều gì chưa được hoàn thành trong các ước nguyện hay hoạt động

của đấng bảo hộ toàn tri Jamyang Khyentse,

kho tàng vĩ đại và quý báu của trí tuệtình thương,

nguyện là vị hoàn thành tất cả!

 

Nguyện tôi và tất cả những ai kết nối với tôi,

ngay cả những vị chỉ nghe thấy danh hiệu của tôi,

tịnh hóa mọi nghiệp, phiền não, ác hạnh và che chướng,

và sinh ra diệu kỳ ở tâm của bông sen

trong cõi Tây Phương Tịnh Độ Cực Lạc.

Ở đó, nguyện chúng tôi được thọ ký giác ngộ,

du hành năm con đường và mười địa

đạt được bốn thân toàn tri!

 

Như thế, tôi dâng lên bản tóm tắt thô ráp

về các hoạt động quá khứ của mình,

trong đó tôi che giấu lỗi lầm của bản thân

và cường điệu những phẩm tính.

 

Tôi viết lại ghi chép ngắn gọn này

bởi không thể từ chối lời thỉnh cầu

của vị Tulku thù thắng, toàn tri,

Tashi Paljor tôn quý,

người mà tôi đã kết nối trong nhiều đời quá khứ

nhờ sức mạnh của một ước nguyện chung.

 

Vì thế, lão già ngu xuẩn, kẻ lang thang này, người đã từ bỏ cả hai kiểu theo đuổi[111],

vị được gọi là Chokyi Lodro – Pháp Tuệ,

tự nhiên viết lại bất cứ điều gì xuất hiện trong tâm.

Cầu mong thiện đức này là nguyên nhân của sự tiến bộ hướng về giải thoát

trong tất cả những ai có kết nối tích cực hay tiêu cực!

(Tôi đã bổ sung vài chỗ khi những đệ tử sùng kính chuẩn bị làm các bản khắc gỗ.)

 

Nguyện thiện hạnh phát triển! Sarva mangalam.

 

| Adam Pearcey chuyển dịch sang Anh ngữ năm 2019, với sự hỗ trợ hào phóng của Tổ Chức Khyentse [Khyentse Foundation] và Terton Sogyal Trust và sự giúp đỡ từ ái của Alak Zenkar Rinpoche[112] và (bác sĩ) Lodro Phuntsok.

Nguồn Anh ngữ: https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/jamyang-khyentse-chokyi-lodro/autobiography-play-of-illusion.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.

 

THƯ MỤC

Nguồn Tạng ngữ:

  • Bkra shis dpal 'byor. “‘Jam dbyangs chos kyi blo gros kyi rnam thar yongs ‘dud dga’ tshal” trong Dil mgo mkhyen brtse’i bka’ ‘bum, Quyển 1, 1–207. New Delhi: Shechen Publications, 1994.
  • ‘Jam dbyangs chos kyi blo gros. “‘Jam dbyangs chos kyi blo gros kyi rtogs pa brjod pa sgyu ma’i rol rtsed” trong ‘Jam dbyangs chos kyi blo gros kyi gsung ‘bum. TBRC W1KG12986. 1: 1–33. Bir, H.P.: Khyentse Labrang, 2012.
  • ‘Jam dbyangs chos kyi blo gros. “‘Jam dbyangs chos kyi blo gros kyi rtogs pa brjod pa sgyu ma'i rol rtsed” trong ‘Jam dbyangs chos kyi blo gros kyi gsung ‘bum. W21813. 1: 1–43. Gangtok: Dzongsar Khyentse Labrang, 1981–1985.

Nguồn thứ cấp:

  • Akester, Matthew. Jamyang Khyentse Wangpo's Guide to Central Tibet. Chicago: Serindia, 2016.
  • Chögyal Namkhai Norbu, The Lamp that Enlightens Narrow Minds: The Life and Times of a Realized Tibetan Master, Khyentse Chökyi Wangchug. Ed. Enrico Dell’Angelo. Berkeley: North Atlantic Books, 2012.
  • Dilgo Khyentse. The Life and Times of Jamyang Khyentse Chökyi Lodrö: The Great Biography by Dilgo Khyentse Rinpoche and Other Stories. Boulder: Shambhala Publications, 2017.
  • Ringu Tulku. The Ri-me Philosophy of Jamgön Kongtrul the Great. Boston: Shambhala, 2006.

Tulku Thondup. Masters of Meditation and Miracles. Boston: Shambhala, 1996[113].



[1] Theo Rigpawiki, Rigdzin Gyurme Tsewang Gyatso, cha và cũng là một trong những đạo sư của Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Ngài là một hóa hiện của đại dịch giả Vairotsana và bản thân là con trai của Serpa Tergen, một đạo sư chịu trách nhiệm duy trì những giáo lý của Terton Rigdzin Dudul Dorje vĩ đại. Ngài là một trong những đệ tử chính yếu của Tổ Jamyang Khyentse Wangpo, vị trao cho Ngài Mật danh Chime Nangdze Dorje. Ngài là vị giữ gìn một vài trong số các giáo lý quý báu của Đức Khyentse Wangpo, chẳng hạn Chime Phakme Nyingtik và là một vị nắm giữ Rinchen Terdzod.

[2] Tức Terton Dudul Rolpa Tsal.

[3] Tức năm 1893 Dương lịch.

[4] Một vị đạo sư kết nối với Tu viện Kathok.

[5] Theo Rigpawiki, Kathok Situ Chokyi Gyatso – vị Kathok Situ thứ ba (1880-1923/5) – cháu trai và vị kế thừa tâm linh của Tổ Jamyang Khyentse Wangpo và là một trong những đệ tử xuất sắc nhất của Mipham Rinpoche. Ngài là đạo sư chính yếu của Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Ngài nổi tiếng với cuốn hướng dẫn hành hương đến trung tâm Tây Tạng.

[6] Theo RigpawikiTu viện Kathok – Kathok Dorje Den – cổ nhất trong sáu Tổ đình Nyingma. Tu viện được thành lập bởi Tổ Kathok Dampa Deshek, em trai của Ngài Phagmodrupa Dorje Gyalpo, vào năm 1159, phía trên Horpo, ở miền Đông Tây Tạng. Địa điểm này được xem là một trong hai mươi lăm thánh địa của miền Đông Tây Tạng và đại diện cho địa điểm linh thiêng chính yếu về hoạt động giác ngộ. Sau khi Tu viện ban đầu trở nên ọp ẹp, một Tu viện mới được xây dựng tại đó vào năm 1656 bởi Terton Rigdzin Dudul Dorje (1615-1672) và Rigdzin Longsal Nyingpo (1625-1692). Có khoảng 800 tu sĩ tại Tu viện trước khi Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng.

[7] Tức Lingtsang, một vương quốc gần Derge ở Kham.

[8] Lời tán thán Đức Văn Thù nổi tiếng nhất, thuộc về Vajrayudha/Vajrasastra nhưng thường được cho là do 500 học giả biên soạn cùng lúc.

[9] Theo Rigpawiki, Yonten Dzod – Kho Tàng Phẩm Tính Quý Báu, bộ luận nổi tiếng của Tổ Jigme Lingpa, trong đó, Ngài giảng giải toàn bộ con đường Phật giáo, từ những giáo lý Thanh Văn thừa đến Đại Viên Mãn.

[10] Tức Ngài Kathok Situ.

[11] Theo Rigpawiki, Nyingma Kama là tuyển tập những giáo lý Kama, Truyền Thừa Khẩu Truyền, của Nyingma. Đây là một trong hai kiểu trao truyền các giáo lý Kinh thừaKim Cương thừa của trường phái Nyingma (kiểu kia là truyền thừa Terma).

[12] Theo Rigpawiki, Nyingtik Yabshi nghĩa đenTâm Yếu Bốn Phần. Nó bao gồm: Vima Nyingtik, Lama Yangtik, Khandro Nyingtik và Khandro Yangtik.

Vima Nyingtik và Khandro Nyingtik là những bản văn Nyingtik ‘mẹ’ trong khi Lama Yangtik và Khandro Yangtik được biết đến là những bản văn ‘con’; do đó, tên gọi phổ biến khác cho tuyển tập này là Bốn Phần Mẹ – Con Của Nyingtik (Nyingtik Mabu Shi).

Tổ Longchen Rabjam cũng biên soạn Zabmo Yangtik, thứ cô đọng các chỉ dẫn cốt tủy quan trọng của cả Vima Nyingtik và Khandro Nyingtik.

[13] Theo Rigpawiki, Longsal Nyingpo (1625-1692), cũng được biết đến là Longsal Dorje Nyingpo, là một Terton mà những giáo lý Terma cũng được biết đến với danh hiệu của Ngài. Ngài là học trò của Đức Rigdzin Dudul Dorje. Ngài là một trong những vị chịu trách nhiệm trùng tu Tu viện Kathok, nơi mà sau bốn thế kỷ rưỡi, đã hư hỏng.

[14] Theo Rigpawiki, Terton Rigdzin Dudul Dorje (1615-1672) là một Terton Nyingma và là một trong những đệ tử chính yếu của Đức Jatson Nyingpo. Vào giữa thế kỷ 17, Ngài đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố lại sức mạnh của truyền thừa Tu viện Kathok và Tu viện gốc, nơi đã trở nên hư hỏng.

[15] Theo Rigpawiki, Mani Kabum – một tuyển tập các giáo lýthực hành tập trung vào Quán Thế Âm, được cho là của Vua Songtsen Gampo và được phát lộ như một Terma bởi ba đạo sư khác nhau: thành tựu giả Ngodrup, Nyangral Nyima Ozer và Shakya O.

[16] Tức Ngài Adzom Drukpa. Theo Rigpawiki, Adzom Drukpa Drodul Pawo Dorje hay Natsok Rangdrol (1842-1924) – một đạo sư quan trọng trong truyền thừa Dzogchen và Longchen Nyingtik. Ngài là đệ tử của Đức Shechen Ontrul Thutob Namgyal, Kathok Situ Chokyi Lodro, Jamyang Khyentse Wangpo, Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, Patrul Rinpoche, Khenpo Pema Vajra, Nyala Pema Dundul và Mipham Rinpoche và là thầy của Togden Shakya Shri, Terton Sogyal Lerab Lingpa, Yukhok Chatralwa Choying Rangdrol, Tso Patrul Rinpoche và Jamyang Khyentse Chokyi Lodro.

Namkhai Norbu Rinpoche (1938-2018) được xem là hóa thân trực tiếp của Ngài.

[17] Theo Rigpawiki, Gongpa Zangthal – những giáo lý Dzogchen cao cấp nhất trong truyền thống Kho Tàng Phương Bắc, được phát lộ bởi Tổ Rigdzin Godem.

[19] Theo Rigpawiki, Vajradhara – ‘Kim Cương Trì’, vị Phật nguyên thủy. Đây cũng là danh hiệu kính trọng dành cho những đạo sư cao cấp nhất.

[20] Theo Rigpawiki, Mật điển Guhyagarbha (Tạng: Gyu Sangwe Nyingpo) – Tinh Túy Bí MậtMật điển chính yếu của Mahayoga. Nó bao gồm hai mươi hai chương.

[21] Theo Rigpawiki, Tu viện Dzongsar – một Tu viện Sakya ở Derge, trụ xứ chính yếu của Đức Jamyang Khyentse Wangpo và Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Các vị tái sinh chính yếu khác tại Dzongsar là Gongna và Ngari Tulku.

Tu viện được thành lập bởi Đức Chogyal Phakpa khi Ngài trở về từ Trung Quốc vào năm 1275. Trước đó, đây vốn là một ngôi chùa Nyingma và Kadam và ban đầu là địa điểm của một ngôi đền Bonpo. Trước năm 1958, Dzongsar có khoảng 300 đến 500 tu sĩ nhưng toàn bộ vùng phụ cận chứa đầy lều trại bất cứ khi nào Đức Jamyang Khyentse Wangpo hay Jamyang Khyentse Chokyi Lodro ở đó, bởi mọi người cắm trại nhiều ngày hay thậm chí nhiều tháng với hy vọng được diện kiến những vị đạo sư vĩ đại này. Tất cả chùa chiền đã bị phá hủy vào năm 1958, nhưng đã bắt đầu được xây dựng lại vào năm 1983 dưới sự dẫn dắt của (bác sĩ) Lodro Phuntsok.

[22] Tức Jamyang Chokyi Wangpo (1893-1908).

[23] Tức Kalzang Dorje, cháu trai và cũng là thủ quỹ của Đức Jamyang Khyentse Wangpo.

[24] Theo Rigpawiki, Đức Jamyang Loter Wangpo, tức Thartse Ponlop Loter Wangpo (1847-1914) – một đạo sư Rime Sakya quan trọng của Tu viện Ngor Thartse, người đóng vai trò then chốt trong phong trào Rime. Ngài là đệ tử của Tổ Jamyang Khyentse Wangpo và một vị thầy của Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Ngài nổi tiếng về việc kết tập Trích Yếu Mật Điển theo nguồn cảm hứng của đạo sư – Tổ Jamyang Khyentse Wangpo cũng như xuất bản ấn bản đầu tiên được in của Giải Thích Cho Đệ Tử Cá Nhân trong hệ thống Lamdre của trường phái Sakya, điều trước kia chỉ được truyền miệng và rất ít khi được giữ gìn dưới dạng bản văn viết tay. Ngài Jamyang Loter Wangpo cũng thọ nhận những chỉ dẫn Dzogchen từ Đức Nyoshul Lungtok.

Tuyển tập 139 bức thangka Mandala được vẽ cho Trích Yếu Mật Điển được Sonam Gyatso Thartse Khen Rinpoche bảo vệ vào năm 1958 và sau này được phát hành với hơn một ấn bản.

[25] Theo Rigpawiki, Xa Lìa Bốn Bám Chấp – một giáo lý ngắn do chính Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi thuyết giảng cho trưởng lão Sakya – Sachen Kunga Nyingpo.

[26] Theo Rigpawiki, Bảy Điểm Luyện Tâm (Tạng: Lojong Don Dunma) – chỉ dẫn nổi tiếng về ‘luyện tâm’ được Đức Atisa đem đến Tây Tạng và do Geshe Chekawa viết lại.

[27] Theo Rigpawiki, Lamdre – những chỉ dẫn ‘Đạo Và Quả’ liên quan đến Bổn tôn Hevajra là các giáo lý cao cấp nhất trong trường phái Sakya. Nó bao gồm hai phần: phần đầu tiên gọi là Linh Kiến Ba Phần – thứ giải thích con đường Kinh thừa và phần thứ hai gọi là Mật Điển Ba Phần – thứ giải thích phần Mật thừa, tập trung vào các giáo lý Hevajra bí truyền.

Lamdre sau đó phát triển thành hai dòng trao truyền chính yếu:

  • sự trình bày phổ thông được biết đến là Lamdre Tsokshe (Giải Thích Dành Cho Đại Chúng) và
  • sự trình bày bí mật được biết đến là Lamdre Lopshe (Giải Thích Dành Cho Các Đệ Tử).

[28] Theo Rigpawiki, Nyoshul Lungtok Tenpe Nyima (1829-1901) đã thọ nhận những giáo lý Dzogchen từ Patrul Rinpoche và là đệ tử vĩ đại nhất của Ngài. Ngài được xem là một hóa hiện của Đức Tịch Hộ (Shantarakshita).

[29] Theo Rigpawiki, Ngor – một trong hai nhánh nhỏ của truyền thống Sakya, được thành lập bởi Đức Ngorchen Kunga Zangpo (1382-1456). Đặc điểm của Ngor là sự trì giới nghiêm ngặt và kiến thức về các Mật điển. Ngor nổi tiếng về điều được gọi là ‘Bảy Mandala Của Ngor’, điều bao gồm: Guhyasamaja [Mật Tập], Hevajra [Kim Cương Hỷ], Chakrasamvara [Thắng Lạc Kim Cương], Vajrayogini [Kim Cương Du Già Nữ], Vajrabhairava, Sarvavidya và Mahakala.

[30] Theo Rigpawiki, Rinchen Terdzod – Kho Tàng Giáo Lý Ẩn Giấu Quý Báu là một trong Năm Kho Tàng Vĩ Đại của Tổ Jamgon Kongtrul. Đây là một tuyển tập từ tất cả các Terma được phát lộ cho đến thời của Ngài, bao gồm cả các kho tàng của Tổ Chokgyur Lingpa. Lo sợ rằng những giáo lý này sẽ bị mất, Ngài bắt đầu việc kết tập vào năm 1855 với sự gia trì của Tổ Jamyang Khyentse Wangpo và hoàn thành vào năm 1889. Đơn giản thọ nhận các quán đỉnh và khẩu truyền Rinchen Terdzod cũng cần từ 4 đến 6 tháng.

[32] Tức cõi Tịnh độ của Guru Rinpoche.

[33] gdul ba. Đây là một cách nói trại để chỉ ra rằng Ngài đến đó để thu thập những món cúng dường (theo Alak Zenkar Rinpoche – AZR).

[34] Ấn bản ban đầu về các trước tác của Đức Khyentse Wangpo bao gồm mười ba tập. Ấn bản gần đây nhất, được xuất bản vào năm 2014, bao gồm hai mươi lăm tập.

[36] Tức học viện nghiên cứu (Shedra) Dzongsar Khamje.

[37] Tức Khenpo Shenphen Nangwa, hay Shenga. Theo Rigpawiki, Khenpo Shenga – Shenphen Chokyi Nangwa (1871-1927) – một vị quan trọng trong phong trào Rime, người chấn hưng việc nghiên cứu ở nhiều vùng của miền Đông Tây Tạng bằng cách thành lập các Phật học viện Shedra và chỉnh sửa chương trình học tập với sự nhấn mạnh vào các bộ luận mang tính kinh điển của Ấn Độ.

[38] Theo RigpawikiTu viện Dzogchen – Rudam Orgyen Samten Choling, một trong sáu Tổ đình Nyingma của Tây Tạng, được thành lập bởi Tổ Dzogchen Pema Rigdzin (1625-1697) vào năm 1675 (theo Đại Từ Điển Tây Tạng) hoặc 1684 (theo Tổ Jamyang Khyentse Wangpo). Nó trở nên đặc biệt nổi tiếng bởi [Phật học viện] Shri Singha Shedra do Gyalse Shenphen Thaye thành lập dưới thời Dzogchen Rinpoche thứ tư – Mingyur Namkhe Dorje, không lâu sau khi Tu viện gần như bị phá hủy trong một trận động đất vào năm 1842. Trong những đạo sư vĩ đại đã từng sống và giảng dạy tại Dzogchen có Khenpo Pema Vajra, Patrul Rinpoche, Mipham Rinpoche và Khenpo Shenga.

Dưới thời của Dzogchen Rinpoche thứ năm (1872-1935), Tu viện Dzogchen ở thời kỳ đỉnh cao của các hoạt động, với năm trăm tu sĩ cư ngụ, mười ba trung tâm nhập thất và ước tính hai trăm tám mươi [Tu viện] nhánh – một tập hội gồm hàng vạn Lama, Tulku, Khenpo, Tăng và Ni. Quanh năm, một chuỗi những nghi lễ phức tạp mở rộng được cử hành.

Dzogchen cũng là một trong những trung tâm nổi tiếng nhất về vũ điệu nghi lễ linh thiêng, ngày nay thường được biết đến là vũ điệu Lama.

Ngôi chùa chính đã bị phá hủy bởi hỏa hoạn vào tháng Hai năm Hỏa Tý (1936). Nó được xây dựng lại và sau đó, toàn bộ Tu viện bị phá hủy bởi người Trung Quốc vào cuối thập niên 1950.

[40] Theo Rigpawiki, truyền thống Kho Tàng Phương Bắc (Tạng: Changter) xoay quanh các phát lộ Terma của Tổ Rigdzin Godem Ngodrup Gyaltsen (1337-1409). Trụ xứ và cội nguồn chính yếu của truyền thống này là Tu viện Thupten Dorje Drak, được xây dựng vào năm 1632 bởi vị Rigdzin Chenmo Ngagi Wangpo thứ ba. Các vị tái sinh của Tổ Rigdzin Godem, cũng được biết đến là Rigdzin Chenmo, vẫn là những người đứng đầu của truyền thống Changter, cũng như của Dorje Drak. Tại Dartsedo (Kanding, phía Đông của Kham), có một Tu viện gọi là Do Dorje Drak, bởi một trong những vị Rigdzin Chenmo đã sinh ra trong gia đình của các vị vua Chagla của Dartsedo. Cũng có một vài Tu viện ở vùng Golok, nhưng hầu hết các Tu viện Changter được tìm thấy ở phía Tây Tây Tạng, các tỉnh Tsang và To hay Ngari và vùng Himalaya của Ấn Độ, Nepal và Ladakh.

Trong số những phát lộ Terma quan trọng nhất của Tổ Rigdzin Godem có Kagye Rangjung Rangshar và Dzogpa Chenpo Kunzang Gongpa Zangthal. Cực kỳ phổ biến trong trường phái Nyingma là Leu Dunma ‘Lời Cầu Nguyện Bảy Chương’ đến Guru Rinpoche. Nhiều Terma được tìm thấy ở Zangzang Lhadrak, Tsang, Tây Tây Tạng. Chính bởi vùng này được xem là ‘phía Bắc’ và cũng có thể bởi nó nằm về phía Bắc của Samye mà truyền thống này có tên như vậy.

[41] Ấn bản Tạng ngữ nói rằng đây là năm Thổ Thân (1908). Tuy nhiên, đây chắc hẳn là một nhầm lẫn với năm Kim Thân (1920).

[42] Theo Rigpawiki, Dodrupchen Jigme Tenpe Nyima – Dodrupchen Rinpoche thứ ba (1865-1926) – một trong những đạo sư Tây Tạng xuất sắc nhất thời đó và là thầy của nhiều vị đạo sư vĩ đại, bao gồm Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Ngài rất được Đức Dalai Lama [thứ 14] kính trọng, vị gọi Ngài là “một học giả vĩ đại và một Yogi xuất chúng”. Các trước tác của Ngài là một trong những nguồn chính yếu được sử dụng bởi Đức Dalai Lama khi nghiên cứu Dzogchen và Đức Dalai Lama thường xuyên trích dẫn trong lúc giảng dạy.

[43] Về Đức Lerab Lingpa, tham khảo https://thuvienhoasen.org/p38a33571/tieu-su-terton-sogyal.

[44] Tinh Túy Giải Thoát – Tự Giải Thoát Sự Chứng Ngộ (grol thig dgongs pa rang grol) của Trengpo Terton Sherab Ozer (1518-1584).

[45] Cả hai Ấn bản [Tạng ngữ] có sẵn đều nói Thủy Tý (chu byi) ở đây, nhưng nếu điều này tương ứng với năm thứ ba mươi hai của Ngài, như phần còn lại của dòng này chỉ ra, đây chắc hẳn là một nhầm lẫn với Mộc Tý (shing byi).

[46] Theo Rigpawiki, Tu viện Shechen – một trong sáu Tổ đình Nyingma của Tây Tạng, được thành lập năm 1695 bởi Ngài Shechen Rabjam Tenpe Gyaltsen, vị được Đức Dalai Lama thứ năm cử đến Kham với mục đích này.

[47] Theo Rigpawiki, Kho Tàng Chỉ Dẫn Quý Báu – Damngak Dzod là một trong Năm Kho Tàng Vĩ Đại của Đức Jamgon Kongtrul. Đây là một tuyển tập những quán đỉnh chín muồichỉ dẫn sâu xa nhất thuộc về tám cỗ xe vĩ đại của truyền thừa thực hành.

[48] Tức vị Shechen Rabjam thứ hai – Gyurme Kunzang Namgyal (1711-1769).

[49] Tức Vima Nyingtik và Khandro Nyingtik.

[50] Cả hai ấn bản đều nói đến năm Thủy Sửu (1913) ở đây, nhưng theo Tulku Thondup, bản dịch [Anh ngữ/Việt ngữ] được sửa lại thành năm Mộc Sửu (1925).

[51] Tức Đức Dalai Lama thứ mười ba (1876-1933).

[52] Theo Rigpawiki, Đèn Soi Nẻo Giác (Phạn: Bodhipathapradipa; Tạng: Changchub Lamdron) – bộ luận nổi tiếng và có tầm ảnh hưởng nhất của Đức Atisa, trong đó, Ngài định nghĩa ba cấp độ căn cơ tâm linh và chỉ trong 68 đoạn kệ, thiết lập nền tảng cho truyền thống Lamrim.

[53] Theo Rigpawiki, Tu viện Orgyen Mindrolling là một trong Sáu Tổ Đình của truyền thống Nyingma. Tu viện được thành lập bởi Tổ Minling Terchen Gyurme Dorje, tức Rigdzin Terdak Lingpa cùng với em trai Lochen Dharmashri vào năm 1676. Tu viện có một mối liên hệ thân thiết với Đức Dalai Lama thứ năm, nhưng bị phá hủy trong chiến tranh Dzungar năm 1717-1718, khi mà em trai của Tổ Terdak Lingpa, đại học giả Lochen Dharmashri bị sát hại. Con gái của Đức Terdak Lingpa, Bà Jetsun Mingyur Paldron, chạy đến Sikkim và sau đó trở lại Mindrolling, cùng với em trai Drinchen Rinchen Namgyal tái thiết Tu viện, với sự hỗ trợ của Polha Taiji.

Người đứng đầu [trưởng dòng] của Mindrolling là những vị kế thừa cha truyền con nối của Tổ Minling Terchen. Minling Trichen Rinpoche là vị trì giữ Pháp tòa thứ 11 và sau khi Ngài qua đời vào năm 2008, con trai của Ngài – Dungse Dalha Gyaltsen (sinh năm 1959) từ Tây Tạng, trở thành vị trì giữ Pháp tòa thứ 12.

[54] Tức Neten Chokling Rinpoche thứ hai – Ngedon Drubpe Dorje (1873/4-1927).

[55] Tức Tsikey Chokling Rinpoche thứ hai – Konchok Gyurme Tenpe Gyaltsen (1871-1939).

[56] Trong Ấn bản Tạng ngữ, đó là năm Thủy Sửu (1913). Tuy nhiên, đây rõ ràng là một nhầm lẫn với Mộc Sửu (1925), tức năm mà Đức Kathok Situ viên tịch.

[57] Có lẽ là Mento Dorje Namgyal (sman stod rdo rje rnam rgyal).

[58] Cũng được biết đến là Amdo Geshe (1888-1936).

[59] Theo Rigpawiki, Khenpo Kunzang Palden (khoảng năm 1862-1943) hay Khenpo Kunpal, cũng được biết đến là Gekong Khenchen Kunzang Palden hay Thubten Kunzang Chokyi Drakpa, là một học giả vĩ đại trong truyền thống Nyingma, một đệ tử thân thiết và người viết tiểu sử của Patrul Rinpoche.

Ngài sinh ở thung lũng Dzachukha thuộc Kham và xuất gia trở thành tu sĩ dưới sự dẫn dắt của Khenpo Yonten Gyatso của Tu viện Dzogchen. Sau khi thọ nhận trao truyền từ Tổ Jamyang Khyentse Wangpo và Dzogchen Rinpoche thứ năm, Ngài trở thành một trong những vị trì giữ vĩ đại của truyền thừa Longchen Nyingtik. Ngài cũng là một đệ tử quan trọng và người viết tiểu sử của Mipham Rinpoche. Ngài đã giảng dạy tại Tu viện Gekong ở Dzachukha và là vị thầy đầu tiên tại Phật học viện của Tu viện Kathok, nơi mà Ngài được hỗ trợ bởi Khenpo Ngawang Palzang (Khenpo Ngakchung). Ngài để lại nhiều trước tác quan trọng, chẳng hạn Những Câu Chuyện Về Vinaya và một luận giải về Ngọn Đuốc Xác Quyết của Mipham Rinpoche. Ngài nổi tiếng nhất với luận giải về Nhập Bồ Tát Hạnh, điều vẫn được giảng dạy tại hầu hết các Shedra ngày nay.

Ngài là vị thầy chính yếu của Popa Tulku và cũng đã giảng dạy Khunu Lama Tenzin Gyaltsen.

[60] Theo Rigpawiki, Gaton Ngawang Lekpa (1867-1941) – một đạo sư Sakya quan trọng liên quan đến Tu viện Tharlam, người nổi tiếng về sự trì giới nghiêm cẩn và những khó khăn mà Ngài chịu đựng trong mười lăm năm nhập thất. Người ta kể rằng Ngài đã hoàn thành 4.100.000 lễ lạy trong cuộc đời. Ngài là một đệ tử của Tổ Jamyang Khyentse Wangpo và là thầy của Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro và Dezhung Rinpoche.

Ngài viên tịch vào ngày 29 tháng 3 lịch Tây Tạng.

[61] Thubten Gyaltsen Ozer (sinh năm 1862).

[62] 1881-1924.

[63] Tức Rago Choktrul Thupten Shedrup Gyatso (1879-1972).

[64] Theo Rigpawiki, Namcho là những phát lộ Terma của Terton Mingyur Dorje, điều được đặc biệt giữ gìn trong truyền thống Palyul.

[65] Theo Rigpawiki, Ratna Lingpa (1403-1478) – một Terton Tây Tạng, người đã kết tập Nyingma Gyubum – Tuyển Tập Mật Điển Nyingma vào thế kỷ 15. Ngài cũng được biết đến với các danh hiệu Shikpo Lingpa và Drodul Lingpa, bởi trong một đời, Ngài đã phát lộ các Terma tiền định của ba đời khác nhau.

[66] Cũng được biết đến là Khenpo Ngakchung. Theo Rigpawiki, Khenpo Ngawang Palzang tức Khenpo Ngakchung (1879-1941) là một trong những đạo sư Dzogchen quan trọng và có tầm ảnh hưởng nhất trong thời kỳ gần đây. Ngài được xem là hóa thân của Tổ Vimalamitra, vị đã tiên đoán rằng bản thân sẽ xuất hiện một trăm năm một lần.

[68] Theo Rigpawiki, Jatson Nyingpo (1585-1656) là một đạo sư và Terton Nyingma. Pho Terma chính yếu của Ngài là Konchok Chidu.

[69] Tức Karma Chokyi Nyinje (1879?-1939), Hóa thân đời trước của Chogyam Trungpa Rinpoche.

[70] Theo Rigpawiki, Dorje Lingpa (1346-1405), vị thứ ba trong năm Khai Mật Tạng Vương, là một hóa hiện của Vua Trisong Detsen và đại dịch giả Vairotsana.

[71] Theo Rigpawiki, Ba Phần Đại Viên Mãn (Dzogchen Desum) là một phát lộ (Terma) của Tổ Chokgyur Dechen Lingpa và Tổ Jamyang Khyentse Wangpo. Giáo lý này được phát lộ vào năm 1857 ở Mesho Dzomnang như một Terma đất từ Động Liên Hoa Pha Lê, một hang động linh thiêng của Guru Rinpoche. Tulku Urgyen Rinpoche miêu tả đây là kho tàng xuất sắc nhất của Tổ Chokgyur Lingpa, bởi nó là Terma Tây Tạng duy nhất phát lộ cả ba bộ của Dzogchen.

[72] Theo Rigpawiki, Rigdzin Sokdrup hay ‘Thành Tựu Sinh Lực Trì Minh’ – pho giáo lý được Lhatsun Namkha Jigme phát lộ sau một linh kiến thanh tịnh trong lúc thiền định trong Động Tâm Bổn Tôn về phía Bắc của Drakkar Tashiding ở Sikkim. Pho giáo lý này bao gồm cả thực hành Riwo Sangchod nổi tiếng.

[73] Đây là vị tái sinh thứ năm của Terton Rolpo Dorje [vị Terton này qua đời năm 1719].

[74] Pema Wangchen.

[75] Tức Karse Kongtrul, vị Jamgon Kongtrul thứ hai.

[77] Con trai của Drime Osel Lingpa và là một đạo sư lỗi lạc, có trụ xứ tại Tu viện Kathok.

[78] Tức Zhitro Narak Dongtruk (zhi khro na rak dong sprugs) và Khorwa Dongtruk (‘khor ba dong sprugs) (AZR).

[79] Theo Rigpawiki, Pema Kathang – Biên Niên Sử Liên Hoa – một tiểu sử của Guru Rinpoche, cũng được biết đến là Sheldrakma, do Orgyen Lingpa phát lộ từ Động Pha Lê. Tiểu sử này gồm 108 chương.

[80] Tức Dilgo Khyentse Rinpoche (1910-1991). Tham khảo https://thuvienhoasen.org/a32138/tieu-su-dilgo-khyentse-rinpoche-1910-1991-.

[81] Theo Rigpawiki, Jetsun Taranatha Kunga Nyingpo (1575-1634) là một đạo sư thành tựu vĩ đại của truyền thống Jonang và Shangpa Kagyu của Phật giáo Tây Tạng.

[82] Tức Jamyang Gyaltsen (1870-1940).

[83] Tức Ajam Kunga Tenpe Gyaltsen (1885-1952).

[84] Theo Rigpawiki, Togden Shakya Shri tức Drubwang Shakya Shri (1853-1919) – một đạo sư Đại Thủ Ấn và Đại Viên Mãn vĩ đại. Ngài được nuôi dạy trong một Tu viện Drukpa Kagyu và chư đạo sư chính yếu của Ngài từ truyền thống đó là Khamtrul Rinpoche Tenpe Nyima và Drubwang Tsoknyi Rinpoche. Sau đấy, Ngài gặp Đức Jamyang Khyentse Rinpoche và thọ nhận các giáo lý Dzogchen. Ngài thành lập một khu trại thiền định ở Khyipuk, miền Trung Tây Tạng, với 700 học trò sống trong những lều trại đơn giản và hang động trên đồi, nơi nổi tiếng với sự trì giới nghiêm ngặt và sự hành trì thiền định Đại Thủ Ấn và Đại Viên Mãn một cách miên mật. Trong các đệ tử của Ngài có Lama Sonam Zangpo, ông [ngoại] của Dzongsar Khyentse Rinpoche.

[85] Phakchok Dorje (1893-1943) là con trai của Đức Shakya Shri và là một hóa hiện về ý của Tổ Jamyang Khyentse Wangpo.

[86] Theo Rigpawiki, Thangtong Gyalpo tức Tsondru Zangpo (1385-1509) là vị thành tựu giả Tây Tạng nổi tiếng, người đã du hành đến nhiều nơi ở Trung Hoa, Tây Tạng và các quốc gia phía Đông khác, xây dựng nhiều chùa chiền và cầu sắt, thành lập các Tu viện ở Derge và nơi khác.

Ngài được cho là hóa hiện về tâm của Guru Rinpoche và cũng là vị tái sinh của Đức Doplpopa Sherab Gyaltsen.

[87] Tức Jamyang Kunzang Tenpe Nyima.

[88] Jampal Chokyi Nyima.

[89] Shar Lama từ Lhundrup Teng.

[90] Tức Dezhung Rinpoche (1906-1987).

[91] Tức Thartse Zhabdrung.

[92] Theo Rigpawiki, Magon Chamdral là thực hành Hộ Pháp căn bản từ Longchen Nyingtik, nổi bật là Ekadzati cùng với Maning Nakpo, Damchen Dorje Lekpa, Za Rahula và Durtro Lhamo.

[93] Theo Rigpawiki, Ngari Panchen Pema Wangyal (1487-1542) – một học giả và Terton Nyingma quan trọng, nằm trong số các tiền thân của Tổ Jigme Lingpa. Ngài nổi tiếng nhất về Xác Quyết Ba Bộ Giới Luật. Vị tái sinh của Ngài là Changdak Tashi Tobgyal.

[94] Theo Rigpawiki, Lhatsun Namkha Jigme (1597-1653) là hóa thân của đại học giảđạo sư Dzogchen vĩ đại – Đức Vô Cấu Hữu Vimalamitra, người đã đắc thân cầu vồng và Đấng Toàn Tri Longchenpa.

[95] Tức Đức Dalai Lama thứ năm.

[96] Tức Đức Dalai Lama thứ sáu.

[97] (dpal mkhyen). Gần như chắc chắn là để chỉ Do Khyentse Yeshe Dorje, vị cũng được biết đến là Palri Khyentse. Tôi [dịch giả Anh ngữ] vô cùng biết ơn bác sĩ Lodro Phuntsok vì sự giúp đỡ của Ngài trong dòng đặc biệt này.

[98] Một trong Mười Sáu A La Hán.

[99] Theo Rigpawiki, Vimalamitra – Vô Cấu Hữu hay Mahavajra là một trong ba đạo sư Phật giáo Ấn Độ uyên bác nhất. Ngài đã đến Tây Tạng vào thế kỷ 9, nơi Ngài giảng dạy rộng khắp và biên soạn cũng như chuyển dịch nhiều bản văn Phạn ngữTinh túy của các giáo lý của Ngài được biết đến là Vima Nyingtik, một trong những giáo lý Tâm Yếu của Đại Viên Mãn.

Vimalamitra dành mười ba năm ở Tây Tạng và sau đó, hứa khả sẽ trở lại Tây Tạng mỗi một trăm năm để củng cố giáo lý Tịnh Quang Đại Viên Mãn, Ngài đến Ngũ Đài Sơn của Trung Quốc. Ở đó, Ngài duy trì Thân Cầu Vồng – ‘Thân Đại Chuyển Di’ và sẽ an trụ như vậy cho đến khi tất cả 1002 vị Phật của Hiền Kiếp này xuất hiện. Khi chư vị đều đã xuất hiện, Ngài sẽ đến Kim Cương Tòa ở Ấn Độ một lần nữa và hiển bày trạng thái giác ngộ viên mãn.

[100] Theo Rigpawiki, Longchenpa, cũng được biết đến là Longchen Rabjam hay Drime Ozer [Vô Cấu Quang] (1308-1364), là một trong những bậc thầy thông tuệ nhất của truyền thống Nyingma, Ngài đã hệ thống hóa giáo lý Nyingma trong ‘Bảy Kho Tàng’ và viết rất nhiều về Dzogchen. Ngài đã trao truyền pho Longchen Nyingtik cho Đức Jigme Lingpa và pho giáo lý này trở thành một trong những thực hành phổ biến nhất.

[101] Về Đức Jamyang Khyentse Wangpo, tham khảo https://thuvienhoasen.org/a30571/cuoc-doi-duc-jamyang-khyentse-wangpo.

[103] Một hình tướng của Kim Cương Du Già Nữ.

[104] Có thể do Đức Jamyang Khyentse Wangpo soạn.

[105] [Bản Tạng ngữ] đọc sbagssbrags. Ngụ ý chính xác ở đây không rõ ràng.

[106] Tham khảo bản dịch Việt ngữ với tựa đề Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (https://thuvienhoasen.org/author/post/1965/1/nhom-dich-thuat-lamrim-lotsawas).

[107] Theo Rigpawiki, Bảy Kho Tàng (Tạng: Dzod-dun) là những tác phẩm của Đức Longchenpa, điều mà cùng với Ba Bộ Tự Nhiên Giải Thoát (Rangdrol Korsum), trình bày cách tiếp cận mở rộng, học thuật của học giả. Chúng vốn không được dự định là một tuyển tập.

[108] Theo Rigpawiki, Dojo Bumzang hay “Bình Như Ý Xuất Sắc” là một tuyển tập các Terma được kết tập bởi Tổ Terdak Lingpa và em trai – Lochen Dharmashri. Đây được xem là nguyên mẫu đầu tiên của Rinchen Terdzod.

[109] Theo Rigpawiki, Tsele Natsok Rangdrol (sinh năm 1608) chào đời ở gần biên giới các tỉnh Kongpo và Dakpo của Tây Tạng. Ngài được công nhận là vị tái sinh trực tiếp của Đức Tenzin Dorje (1535-1605?) và cũng là tái sinh của Tổ Gotsangpa, một đạo sư vĩ đại của truyền thừa Drukpa Kagyu, hóa hiện của Đức Milarepa. Thời trẻ, Ngài đã tu học với Pawo Rinpoche thứ ba và Terton Jatson Nyingpo nổi tiếng cũng như nhiều đạo sư vĩ đại khác của truyền thừa Kagyu và Nyingma.

Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro và Dilgo Khyentse Rinpoche khuyến khích việc nghiên cứu các trước tác của Ngài, bởi chúng đặc biệt thích hợp với chúng sinh thời nay.

[110] Đây là một cách khá khó hiểu để nhắc đến con số 56 theo nghệ thuật [sử dụng] những từ đồng nghĩa về số (grangs kyi mngon brjod), tức là nửa thế kỷ (50) cộng thêm số lạc thú (5) cộng thêm một sừng tê (1).

[111] Tức thế tụcGiáo Pháp (AZR).

[113] Tham khảo bản dịch Việt ngữ với tựa đề Các Đạo Sư Của Sự Thiền Định Và Những Điều Huyền Diệu (https://thuvienhoasen.org/a16949/cac-dao-su-cua-su-thien-dinh).

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.