PHẦN MỘT
CON ĐƯỜNG CHỮA LÀNH
VÀO ĐỀTôi sinh ra trong căn lều một
gia đình du mục tầm thường trên một cao nguyên cỏ xanh
hoang dã phía Đông
Tây Tạng, giữa
thế giới của những ngọn núi cao và những con sông rộng. Mặt đất bao phủ đầy tuyết suốt tám tháng một năm.
Gia đình tôi thuộc bộ lạc
du mục sinh sống trong lều, chăn nuôi
gia súc như trâu Yak, ngựa và cừu. Nhiều lần trong năm
chúng tôi cắm trại trên những thung lũng khác nhau để có đủ cỏ tươi cho
gia súc.
Lúc lên năm tuổi, một thay đổi mạnh mẽ làm lay chuyển cuộc sống tôi. Tôi được
công nhận là
tái sanh của một vị thầy
nổi tiếng thuộc
tu viện Dodrupchen, một học viện quan trọng ở miền Đông
Tây Tạng. Người
Phật tử công nhận nguyên lý về nghiệp và
tái sanh,
vì vậy người
Tây Tạng tin rằng : khi một
Đại Sư viên tịch, Ông hay Bà ấy sẽ
tái sanh như một người có khả năng lớn lao làm
lợi ích cho kẻ khác. Vì tôi là đứa con
duy nhất, nên
cha mẹ tôi rất buồn,
tuy nhiên họ đã dâng cúng tôi cho
tu viện không một chút lưỡng lự.
Cha mẹ tôi đã tự hào và
cảm thấy được
vinh dự sâu xa rằng con họ sẽ nhanh chóng
trở thành một trong những người được
tôn kính trong thung lũng của họ.
Mọi
phương diện của cuộc sống tôi
đột nhiên thay đổi. Tôi không có
tuổi thơ bình thường được chơi đùa với những đứa trẻ khác. Thay vào đó, những vị Thầy phụ
đạo phẩm giá
săn sóc và
đối đãi tôi với sự
tôn kính, vì tôi được
công nhận là vị Thầy
tái sanh của họ. Tôi
cảm thấy quen thuộc với cuộc sống mới, vì trẻ em luôn luôn dễ dàng
thích nghi với những
hoàn cảnh mới hơn người lớn. Tôi thương
cha mẹ tôi,
đặc biệt là bà ngoại, nhưng dù họ được
đặc biệt tạm thời
cho phép, tôi bảo họ không nên vào
tu viện. Người ta cho rằng đây là một dấu hiệu khác
chứng tỏ rằng tôi đã từng sống ở
tu viện trong đời trước của tôi.
Từ bình minh đến khi chiều xuống, vòng
thời gian của tôi đầy ắp việc học tập và
cầu nguyện. Trong môi trường này, phần lớn
thời gian tôi tràn đầy
hoan hỷ và
an bình. Những vị Thầy phụ đạo của tôi rất
từ bi, thấu hiểu và
thực tế. Họ không phải là những
tu sĩ kỷ luật cứng ngắt như bạn đã
hình dung, dù đôi lúc có thể như vậy.
Trái lại, họ
hiền từ, khiêm tốn và mang lại cho
mọi người niềm
hoan hỷ và nụ cười. Sau một
thời gian, tôi không còn ham chơi đùa, chạy nhảy
vô ích. Tôi cũng
cảm thấy không
cần thiết phải nhìn quanh nhiều, và tôi có thể
ngồi yên trong nhiều giờ.
Trước tiên tôi thọ những
lời nguyện cho người mới tu và sau đó là
tu sĩ. Mỗi một tháng được
cạo tóc, và sau bữa trưa
chúng tôi không ăn
cho đến sáng hôm sau. Những ngày của
chúng tôi đều đặn theo chu kỳ
mặt trời và
mặt trăng.
Cho đến tuổi mười tám, tôi vẫn chưa thấy máy bay hay xe gắn máy. Một cái đồng hồ đeo tay là sản phẩm
tinh vi nhất của kỹ thuật
hiện đại mà tôi
tình cờ thấy được trước khi rời
tu viện.
Với
chúng tôi,
đạo Phật không chỉ là
thiền định, học tập hay
nghi lễ, mà là một
cách sống hàng ngày và
toàn bộ cuộc đời.
Đạo Phật dạy rằng
đặc tính thiết yếu của tất cả
chúng sanh là tâm, mà trong
bản tánh chân thật của mình, tâm thì
thanh tịnh,
an bình và
hoàn thiện đầy đủ. Tâm là Phật. Như
chúng ta biết, khi
tâm thức chúng ta thoát khỏi áp lực của
cảm xúc và
hoàn cảnh bên ngoài, tâm trở nên
an bình, rỗng rang,
sáng suốt và
lồng lộng hơn.
Trong
tu viện, tôi đã được dạy về sự quan trọng của việc
buông xả cái
thái độ mà
đạo Phật gọi là “chấp ngã”. Nó là một
nhận thức sai lầm về một
thực thể thường hằng, cứng chắc trong chính mình, trong những
chúng sanh khác và sự vật. “Cái ta” là một
ý niệm được tạo tác bởi
tâm trí thông thường, không phải là tâm trong thực tánh của nó.
Chấp ngã là gốc rễ của
rối loạn tâm trí và tình cảm, là
nguyên nhân của
đau khổ của
chúng ta. Đây là điểm ở đó
chúng ta có thể hiểu
cốt lõi,
tinh thần và
mùi vị của
đạo Phật. Bạn có thấy
đạo Phật là
căn bản như thế nào không ?
Phật Giáo nói rằng
đau khổ do
tâm thức chúng ta gây ra, thậm chí trước khi
chúng ta có một cách ứng xử nào không khéo léo hay
rắc rối, hoặc
ngôn ngữ bất hòa, trước khi
chúng ta lao vào
đau khổ, bệnh tật,
tuổi già và cái chết chúng là
sự nghiệp của tất cả
chúng sanh. Trong
đạo Phật, tất cả những
phiền não xáo trộn đều do từ, đều gắn chặt vào sự
chấp ngã. Ngài Shantideva một
Đại Sư của
Phật Giáo đã
mô tả cái
bản ngã mà
chúng ta bám víu vào như “con quái vật độc ác” :
Mọi bạo lực,
sợ hãi và
đau khổHiện hữu trên
thế gianĐều do
chấp ngã.
Vậy, con
đại ác quỷ này có ích gì cho các bạn ?
Nếu bạn không
buông bỏ bản ngãThì khổ đau của bạn không khi nào
chấm dứt.
Giống như bàn tay mình không
lìa bỏ lửa
Thì bàn tay không bao giờ ngừng bỏng.
Nhưng, làm thế nào
chúng ta có thể
buông bỏ bản ngã ? Với tôi, việc
chứng ngộ thật tánh không thể
thực hiện lúc tôi còn quá bé và mới bắt đầu giai đoạn
tu hành. Nhưng, khi đã
tiến bộ qua nhiều mức độ
rèn luyện thân thể và
tâm linh khác nhau, tôi đã có
cảm hứng với sự
tỉnh thức,
lòng bi mẫn, sùng mộ,
tham thiền và
tri giác thanh tịnh. Điều đó có từ những mức độ
tiệm tiến của việc nới lỏng sự siết chặt
tâm thức và
cảm xúc của sự
chấp ngã của tôi, và tôi thu hoạch
sức mạnh,
tỉnh giác và sự rộng mở bên trong nhiều hơn. Vì tôi
dần dần đưa tâm mình vào
bản tính bình an của nó, và tự
rèn luyện buông xả trong nó, sự
rối loạn của môi trường bên ngoài bắt đầu ít
tác động đến cảm nghĩ của tôi và trở nên dễ xử lý. Những
kinh nghiệm về
bản tánh bình an và rỗng rang của tâm giúp tôi chữa lành những
biến cố khó chịu của cuộc sống,
duy trì sức mạnh và
hạnh phúc trong cả hai môi trường tốt và xấu.
Vào năm tôi mười tám tuổi, vì những thay đổi chính trị ở
Tây Tạng, tôi đã
đào thoát vất vả hàng ngàn dặm
trong vòng nhiều tháng với hai vị Thầy và tám người bạn của tôi từ
Tây Tạng đến
Ấn Độ. Giữa đường, tại một hang động
thiêng liêng trong một thung lũng trống, ở đó những ngọn núi xám
sừng sững mọi hướng, Thầy tôi, Ngài Kyala Khenpo, người đã
săn sóc tôi như
cha mẹ từ khi tôi năm tuổi đã thở hơi
cuối cùng.
Đột nhiên tôi
nhận thấy mình là một người
mồ côi, một
kẻ đào thoát và một người tỵ nạn không nhà.
Cuối cùng,
chúng tôi đến
Ấn Độ, một miền đất giàu
trí huệ và
văn minh. Lần đầu tiên trong nhiều tháng, tôi có thể hưởng thụ
cảm giác mát mẻ dưới những bóng cây và
thoải mái trong sự ấm áp của những chỗ ở.
Trong khoảng một trăm ngàn người tỵ nạn
Tây Tạng ở
Ấn Độ, nhiều người đã chết vì sự thay đổi của khí hậu,
thực phẩm, nước và độ cao. Với những người còn sống, nỗi
đau khổ của những người thân còn ở lại
Tây Tạng vẫn
tiếp tục ám ảnh chúng tôi cả ngày lẫn đêm.
Trong những ngày
đen tối đó, tất cả những gì tôi phải sống và
an ủi tôi là ánh
sáng trí huệ của
đạo Phật trong tâm tôi. Nếu một
vấn đề rắc rối có thể
giải quyết và xứng đáng để
thử thách, tôi
cố gắng dâng hiến cuộc sống mình để
giải quyết nó với một
tâm thức an bình, một
thái độ rộng mở, một
tính cách hoan hỷ. Nếu
vấn đề không giải quyết được, tôi
cố gắng không
nóng nảy và
lãng phí thời gian và
năng lực của tôi
vô ích. Trong bất kỳ tình huống nào, tôi
cố gắng buông xả những
phiền não, những bám chấp của
tâm thức, bằng cách không bám vào, không trụ nơi chúng, không
lo âu về chúng, vì điều đó chỉ làm tình huống
tồi tệ hơn. Ngài Shantideva đã nói :
Nếu bạn có thể
giải quyết những
vấn đề của mình,
Thì cần gì phải
lo nghĩ ?
Nếu bạn
không giải quyết được chúng,
Thì
lo nghĩ có ích gì ?
Suốt từ lúc tôi
đào thoát đến
Ấn Độ, tôi không còn sống trong
cộng đồng tu viện hay dưới sự giám sát của kỷ luật
tu viện. Nhưng
ấn tượng về sự
an bình và
hoan hỷ về
tu viện thiêng liêng ở
Tây Tạng vẫn
sống động mạnh mẽ trong
tâm trí tôi. Tiếng vọng của những lời
từ ái, êm dịu của những vị thầy đầy
từ bi và
trí huệ tột cùng hồi tôi còn bé vẫn vang lên trong tai tôi. Quan trọng hơn nữa, cái
kinh nghiệm về sự rỗng rang,
an bình,
sức mạnh mà tôi đã trau dồi rồi được tinh lọc và chiếu sáng trong lòng tôi, qua việc đối mặt những gian khó trong cuộc sống tôi, giống như
vàng ròng được
tinh luyện bằng sự nấu chảy và trui đập. Những
hình ảnh,
lời nói và
kinh nghiệm ấy luôn luôn là ánh sáng
dẫn đường và
năng lực chữa lành qua những
đau khổ,
rối loạn và
yếu đuối của đời tôi.
Che trú cho ánh sáng của
tâm thức an bình khỏi gió bão của những trận chiến
cuộc đời, và
tỏa ra ánh sáng của sự rỗng rang và
thái độ tích cực để đến với những người khác, là hai
yếu tố giúp cho tôi
tiếp tục sống qua những lúc khó khăn. Bằng nhiều cách, những
bi kịch lớn của đời tôi đã chuyển thành những
gia hộ ban phước. Chúng làm rõ những
giáo lý đạo Phật về tính
như huyễn của cuộc sống, lột bỏ tấm
màn che của sự
an toàn giả tạo. Không có những
nghi ngờ gì nữa về
quyền lực chữa lành của việc
từ bỏ chấp ngã.
Tôi đến nước Mỹ năm 1980, một xứ sở của
tự do và dư dả. Nói chung, thật khó cho
tâm trí an bình sống được qua những tấn công của
dục vọng và sự
quyến rũ của
vật chất hơn là những nỗi
đau đớn, khổ đau. Nhưng
hiệu lực của sự
tu hành Phật giáo là trong lúc tôi hưởng
thọ sự thịnh vượng vật chất của phương Tây, tôi
mến phục hơn cuộc sống khiêm tốn,
tự nhiên,
trần thế của
đạo Phật thời còn bé. Cũng vậy, tôi càng được hưởng thụ cuộc sống
tâm linh của
đạo Phật, tôi càng
đánh giá cao
lòng tin,
lòng bi mẫn, sự
rộng lượng đặt nền trên những
giá trị của
Do Thái Cơ Đốc Giáo kết hợp với sự
thịnh vượng của phương Tây làm
phong phú cho
sức mạnh tâm linh tôi. Sống trong ánh
sáng trí huệ của
đạo Phật, tôi nhìn thấy những phẩm tính
tích cực của mỗi
hoàn cảnh qua cánh cửa của
bản tánh an bình của tâm thay vì để cho những phẩm tính
tiêu cực tràn ngập. Đây là trái tim của
con đường chữa lành.
Năm 1984, lần đầu tiên trong hai mươi bảy năm, tôi có thể về thăm
quê nhà Tây Tạng. Đó là lúc tôi
sung sướng gặp lại một số bạn cũ, những người thân còn
sống sót, và một
thời khắc buồn rầu nhớ lại những người tôi
thương mến, những khuôn mặt
thân yêu ấy đã ở trong ký ức tôi nhiều năm, và những vị thầy
tôn kính, mà lời dạy của các vị là nguồn chữa lành của tôi đã qua đời.
Tu viện, trong ký ức tôi là nơi
tu học, qua mấy chục năm yên lặng, nay còn lại là những bức tường vỡ.
Gần đây một số
tu sĩ đã bắt đầu
trở lại xây dựng lại
tu viện và
đời sống tu viện của họ.
Đa số họ có thể
chấp nhận và tự chữa lành khỏi những
kinh nghiệm không may của mình mà không cần trách cứ ai khác.
Rõ ràng người ta có thể tạm thời
hài lòng bằng cách trách cứ,
đổ lỗi những sự không may của mình về những người khác, nhưng điều này luôn dẫn đến kết quả là
rối loạn và
đau khổ lớn hơn. Bằng lòng, không phiền trách là điểm
chuyển hướng thật sự của việc chữa lành. Nó là
sức mạnh chữa lành của tâm. Đó là tại sao Ngài Shantideva viết :
Nếu bạn không thể phát sinh
lòng bi mẫnHướng tới những người
bị bắt buộc phải hại bạn
Vì những
phiền não của họ (của
vô minh và sân giận)
Việc
cuối cùng bạn có thể làm là trở nên
phẫn nộ với những
phiền não ấy.
Ở
Tây Tạng, người ta đến với những vị thầy
tôn giáo để được
ban phước và chỉ dạy về
tâm linh hay xin
cầu nguyện để chữa lành những khó khăn hay để
thành tựu những
mục tiêu trần thế hay
tâm linh của họ. Hiếm khi họ đến để
tham khảo về những
vấn đề tâm lý,
xã hội hay
vật chất của họ.
Tuy nhiên, trong nền
văn hóa phương Tây, giới
tăng lữ lại được
tham khảo về tất cả
các loại vấn đề đời sống. Từ khi tôi đến Mỹ, bất cứ khi nào gặp khó khăn, những người bạn đều đến gặp tôi để nhận
lời khuyên. Thật lạ lùng, tôi lại có thể đề nghị những
giải pháp chữa lành cho nhiều khó khăn của họ. Điều
bí ẩn không phải là tôi đã được trang bị bằng bất
cứ sự khéo léo y học, nghệ thuật chữa lành hay
năng lực thần bí nào, mà do tôi đã tự
tu hành trí huệ của
đạo Phật, và có được khéo léo trong việc chữa lành những
hoàn cảnh đau đớn của
đời sống của chính mình. Phát hiện đó tạo
cảm hứng cho tôi
giới thiệu những cái nhìn và những
tu hành của
đạo Phật về sự chữa lành trong
hình thức một quyển sách.
Quyển sách này là một hướng dẫn
thực hành cho bất cứ ai mong muốn
tìm thấy an vui và chữa lành cho
lo lắng,
căng thẳng và
đau khổ. Nó là bản
tóm tắt những lời dạy về
trí huệ chữa trị mà tôi đã được nghe từ những lời êm dịu của những vị
đại sư.
Trí huệ này
trở thành nguồn chữa lành
năng lực nhất cho tôi và những người bạn tôi. Đó là những
giáo lý đạo Phật về sự chữa lành, và tôi chỉ cố thử đem chúng đến với bạn mà không làm
lu mờ chúng bằng giọng điệu và
ý niệm của riêng tôi.
Quyển sách này có ba phần. Phần đầu là một cái nhìn tổng quan về cuộc sống hàng ngày và
thiền định, những thành tố
cần thiết cho việc chữa lành. Phần hai
giới thiệu những bài tập
đặc biệt để chữa lành những
vấn đề tâm trí, tình cảm,
xã hội và
tâm linh. Những
vấn đề về thân xác là khó chữa lành nhất, nhưng chúng cũng có thể được giúp đỡ bằng những bài tập làm phát sinh
an bình,
sức mạnh, và
năng lực tích cực, suối nguồn
tối hậu của sự khỏe mạnh
thân thể của
chúng ta. Phần cuối
giới thiệu một số
thiền định của
đạo Phật không những
liên quan đến những
vấn đề trong đời sống hàng ngày mà còn với việc
đánh thức Phật tánh mà tất cả
chúng ta đều
sở hữu và với sự
mở rộng sức mạnh chữa lành
vô tận của
Tâm Phật cho chính
chúng ta và người khác.
Sự khuyên bảo và hướng dẫn trong tập sách này bắt nguồn từ những
giáo lý đạo Phật,
đặc biệt từ một bản văn ngắn nhưng
độc nhất vô nhị mang tựa “Chuyển
hạnh phúc và
đau khổ vào
con đường giác ngộ” do Ngài Dodrupchen, Jigme Tenpe Nyima (1865-1926) một trong những vị Lama
lãnh đạo và
học giả có
thẩm quyền của phái Nyingma của
đạo Phật Tây Tạng và từ những luận thư khác như “Một hướng dẫn
phương cách sống của Bồ tát” do Ngài Shantideva (thế kỷ thứ tám) một trong những vị thầy vĩ đại
Ấn Độ của
Phật giáo Đại thừa.
Trên tất cả, bất cứ những lời dạy về
trí huệ chữa lành nào được thấy trong những trang giấy này đều được
cảm hứng từ một người bằng xương bằng thịt tốt lòng và
trí huệ nhất mà tôi đã từng gặp, là vị Thầy
nhân từ Kyala Khenpo Chochošg (1892-1957) của tôi. Dưới sự chăm sóc của Ngài tôi đã được
nuôi dưỡng trong suốt mười bốn năm như một người con. Nếu có bất cứ
lỗi lầm nào trong sách đều do những lơi lỏng của
tâm trí vô minh của tôi, và với
trách nhiệm tinh thần, tôi cầu mong được sự
tha thứ của tất cả các vị thầy đã
giác ngộ và của những người đọc bi mẫn.
Nếu bạn theo những bài tập trong sách này, bạn có thể chữa lành những
đau khổ và
vấn đề của mình,
phục hồi niềm vui và
sức khỏe trong cuộc sống bạn. Ít ra, chúng có thể giúp bạn
giảm bớt mức độ
đau khổ, nỗi khó khăn và làm
gia tăng niềm
hoan hỷ và
sức khỏe của bạn. Hơn thế nữa, sự an vui và
sức mạnh phát xuất từ
năng lực chữa lành của tâm sẽ trang bị cho bạn đón nhận những
đau khổ và khó khăn thật dễ dàng,
thoải mái như một phần của cuộc sống, cũng giống như
chúng ta chào đón đêm tối như một phần của chu kỳ một ngày.
Tôi
hy vọng rằng quyển sách này sẽ giúp
mọi người học làm thế nào để được
hạnh phúc và
mạnh khỏe hơn. Bất cứ người nào
tâm thức rộng mở với
năng lực chữa lành sẽ được
lợi lạc bằng cách
thực hành theo những bài tập chữa lành trong sách này. Không
cần thiết phải tự cho mình là
Phật tử.
Tuy nhiên, những bài tập này không có nghĩa là những thay
thế cho sự
điều trị thông thường. Thuốc men
thích hợp,
cách sinh hoạt, chế độ
ăn uống và
thực tập luôn luôn là thiết yếu cho sự chữa lành.
PHẦN MỘT
CON ĐƯỜNG CHỮA LÀNH
1
NHỮNG NỀN TẢNG CỦA SỰ CHỮA LÀNHTâm
chúng ta sở hữu sức mạnh chữa lành
đau khổ và tạo ra
hạnh phúc. Nếu
chúng ta sử dụng sức mạnh này cùng với
lối sống đúng đắn, một
thái độ tích cực và việc
thiền định,
chúng ta có thể chữa lành không chỉ những
phiền não tâm trí và tình cảm mà ngay cả những
rắc rối của
thân thể.
Khi
chúng ta đã bám vào những mong muốn và
lo nghĩ với tất cả
năng lực của ta,
chúng ta chỉ tạo ra
căng thẳng và
mệt mỏi. Bằng cách
buông xả cái
ý niệm mà
đạo Phật gọi là “chấp ngã”,
chúng ta có thể mở ra với
thật tánh của mình, đó là sự an vui và
giác ngộ. Quyển sách này là một
lời mời đánh thức trí huệ nội tại vốn có của
chúng ta, nguồn chữa lành mà
chúng ta đều có. Giống như một cánh cửa mở ra với
trí huệ này,
chúng ta có thể đem vào
ánh nắng, sự ấm áp và làn gió êm dịu của sự chữa lành. Nguồn
năng lực này là của
chúng ta để
tiếp xúc và
chia xẻ bất cứ lúc nào, một
tài sản vũ trụ có thể mang lại
hạnh phúc cho
chúng ta ngay cả trong
một thế giới
biến dịch không ngừng và
đau khổ này.
Trong
đạo Phật,
trí huệ được dạy trong
kinh điển chủ yếu nhằm đến việc
thực hiện sự
giác ngộ.
Tuy nhiên, những luyện tập
tinh thần cũng có thể giúp
chúng ta tìm được
hạnh phúc và khỏe mạnh
trong đời sống hàng ngày. Có những bài
thuyết pháp dài trong
đạo Phật về sự
cải thiện cuộc đời bình thường của
chúng ta và cách có được
một đời sống an vui,
hoan hỷ và
lợi lạc ngay trong
thế giới này.
NHỮNG LỢI LẠC CỦA SỰ CHỮA LÀNHĐạo Phật ủng hộ sự
buông bỏ những
căng thẳng không
lành mạnh và không
cần thiết do
chúng ta tạo ra trong cuộc sống bằng cách
nhận ra chân lý sự vật thật sự là thế nào. Tôi đã thấy nhiều ví dụ về
sức mạnh chữa lành của tâm trong những
vấn đề cảm xúc,
tinh thần và cả bệnh về thể xác.
Một ví dụ về chính
cuộc đời của tôi. Khi được mười tám tuổi, vị Thầy
thân yêu Kyala Khenpo và tôi
quyết định rời bỏ
Tây Tạng vì
rối loạn chính trị, dù biết rằng
chúng tôi phải mất đất nước, nhà cửa, bạn hữu và
cách sinh sống. Trong một thung lũng trống trải nhưng
linh thiêng, Thầy Kyala Khenpo đã
viên tịch vì bệnh tật và
tuổi già. Ngài không chỉ là người Thầy
giác ngộ từ ái mà còn là người chăm sóc từ khi tôi được năm tuổi như là
cha mẹ ruột của tôi. Đây là khoảng
thời gian đau buồn và
bối rối nhất.
Tuy nhiên, sự
hiểu biết về
vô thường –
sự kiện rằng mọi sự luôn luôn thay đổi
trong đời sống khiến tôi dễ dàng
chấp nhận. Những
kinh nghiệm tâm linh giúp tôi
duy trì tĩnh lặng, và ánh
sáng trí huệ của
giáo lý làm cho cuộc sống tương lai
trong sáng hơn với tôi. Nói khác đi,
nhận biết bản tánh của sự việc đang xảy ra, mở ra với nó và dùng những nguồn
sức mạnh mà tôi đã được trao cho giúp tôi chữa lành những mất mát một cách dễ dàng hơn.
Chúng ta sẽ thấy có ba bước cơ bản –
nhận ra những khó khăn và
đau khổ,
mở rộng ra với chúng, và trau dồi một
thái độ tích cực – là
toàn bộ quá trình chữa lành.
Lama Pushul, một vị Thầy khác của tôi, suốt thời còn bé đã có những
vấn đề tinh thần. Vào tuổi
thiếu niên, Ngài là người phá phách,
gia đình đã trói Ngài lại để
bảo vệ cho chính Ngài và người khác khỏi sự
bạo hành đó. Qua những
thiền quán chữa lành, chủ yếu là
lòng bi mẫn, Ngài đã tự chữa lành và sau đó
trở thành một vị Thầy, một
học giả vĩ đại. Ngày nay, tôi biết rằng chưa có một ai
vui vẻ,
an bình và
nhân từ hơn Ngài.
Khi tôi sống ở
Tây Tạng, việc chữa lành
thân thể bằng
thiền định và
thái độ đúng là một phần thông thường trong cuộc sống hàng ngày. Thế nên bây giờ có ai hỏi tôi cho những ví dụ về việc chữa lành
thân thể, tôi cũng không dễ
hình dung ra chuyện nào để kể. Đối với những người từ
Tây Tạng, họ
chấp nhận như một
sự kiện bình thường rằng tâm có thể chữa lành cho
thân thể. Tâm dẫn dắt những
năng lực của cơ thể đó là
lý do tại sao tâm có thể chữa lành. Có nhiều sự chữa lành, khi còn bé tôi không
để ý đến.
Tuy nhiên, tôi thực sự biết một ví dụ
gần đây, nhiều người cho đó là chuyện lạ, nhưng với
quan điểm của
đạo Phật cũng không đáng
ngạc nhiên lắm.
Hai năm trước, Ngài Dodrupchen Rinpoche, một vị Lama có
tâm linh cao, trong lúc đến vùng ngoại ô xa xôi của Bhutan, đã bị một cơn đau ruột thừa
nghiêm trọng. Một phó
thủ tướng đã sắp xếp một trực thăng để đưa Ngài đi bệnh viện. Những
bác sĩ sợ rằng ruột thừa của Ngài sẽ vỡ và sự
đau đớn rất là lớn. Ngược lại với
lời khuyên mạnh mẽ của các
bác sĩ, Ngài từ chối giải phẫu và tự chữa lành cho mình bằng
thiền định và những
chân ngôn (Mantra).
BẤT CỨ AI CŨNG ĐƯỢC LỢI LẠCKhả năng chữa lành những bệnh nặng nhờ
thiền định tùy thuộc vào mức độ
lòng tin và
kinh nghiệm tâm linh của người đó.
Dĩ nhiên, phần lớn
chúng ta sẽ rất vui được giải phẫu khi bị viêm ruột thừa sắp vỡ. Tôi kể
câu chuyện này để minh họa
sức mạnh của tâm, và vì người ta
quan tâm mạnh mẽ về việc
duy trì sức khỏe thân thể của họ. Một số
chúng ta là những
vị thầy tâm linh. Nhưng bất cứ ai cũng có thể được
lợi lạc từ
thiền định và từ
thái độ tích cực. Bắt đầu từ ngay bây giờ,
chúng ta có thể sống một
cuộc sống hạnh phúc và
mạnh khỏe hơn.
Mặc dầu bệnh tật
thân thể là một
chủ đề bạn sẽ đọc ở đây, quyển sách này như một sách giáo khoa, giúp
chúng ta ứng xử với những
phiền não hàng ngày. Đây là nơi bắt đầu tốt nhất cho phần lớn
chúng ta. Nếu
chúng ta có thể học cách đem sự bằng lòng lớn hơn vào bất cứ việc gì mình làm, những
ban phước khác sẽ
tự nhiên tuôn chảy.
Những
quan niệm và bài tập
thiền quán trong sách này được bắt nguồn từ những
giáo lý Nyingma của
đạo Phật, một phái
lâu đời nhất của
Tây Tạng, có từ thế kỷ thứ chín, một
học phái gồm đủ cả ba
truyền thống chính của
Phật giáo :
Tiểu thừa,
Đại thừa và
Kim Cương thừa.
Tuy nhiên, bạn không
cần phải là một
Phật tử để
sử dụng quyển sách này. Không may, nhiều người xem
Phật giáo như là một
tôn giáo được
truyền bá bởi một
đạo sư đặc biệt của
lịch sử,
đức Phật Thích Ca Mâu Ni,
tôn giáo đó chỉ làm
lợi lạc cho những người theo
truyền thống này.
Đạo Phật là một
con đường phổ quát chung khắp.
Mục tiêu của nó là
chứng ngộ chân lý phổ quát,
trạng thái toàn giác,
Phật tánh. Theo chính
đức Phật Thích Ca Mâu Ni, có
vô số những
chúng sanh chứng ngộ Phật tánh trước khi Ngài đản sanh. Đang có, đã có, và sẽ có
đạo Phật,
con đường và những vị Phật (những người đã
giác ngộ) trong
thế giới này cũng như trong nhiều
thế giới khác ở
quá khứ,
hiện tại và
vị lai. Có thật rằng cách đây hơn 2.500 năm,
đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền bá những
giáo lý được gọi là
Phật giáo.
Phật giáo được dạy bởi đức
Thích Ca Mâu Ni là một trong những
hình tướng biểu hiện của
đạo Phật, nhưng không phải là loại
đạo Phật độc nhất. Người nào với
tâm thức rộng mở sẽ
nghe được con đường thực sự, mà người
Phật tử gọi là Pháp, thậm chí ngay trong
thiên nhiên. Dharmasamgiti nói : “Người nào có
tâm thức tốt, ngay cả vào thời không có Phật, sẽ
nghe được Pháp từ bầu trời, tường vách và cây cỏ. Với những người tìm cầu mà
tâm thanh tịnh, những
giáo pháp và những
giáo huấn sẽ
hiển lộ theo những mong muốn của người đó.”
Đạo Phật nhận biết những khác biệt trong những
văn hóa và
thực hành của
mọi người trong
thế gian, và trong những nuôi nấng và nhân cách
cá nhân. Nhiều nền
văn hóa và
tôn giáo khác có những
truyền thống chữa lành, và đưa ra những
lời khuyên đặc biệt về
đau khổ. Ngay cả ở
Tây Tạng, có nhiều cách tiếp cận với
đạo Phật. Có nhiều sự khác biệt về cách tiếp cận là tốt, ngay cả nếu đôi lúc chúng có vẻ
mâu thuẫn với nhau, bởi vì
con người thì khác nhau.
Toàn bộ mục đích là làm cho
thích hợp với những nhu cầu của
cá nhân.
SỰ THIỀN ĐỊNH, TÂM THỨC, THÂN THỂChữa lành bằng
thiền định không giới hạn cho một
niềm tin tôn giáo nào. Ngày nay, nhiều thầy thuốc được đào luyện trong
truyền thống y khoa phương Tây đã
giới thiệu những phương thức
thiền định truyền thống như một cách
hồi phục và
duy trì sức khỏe tinh thần và cơ thể. Những
thực hành này hiếm khi biết đến
kinh nghiệm về cái mà
đạo Phật gọi là
Thật tánh hay sự rộng mở vĩ đại, mà chỉ
nhấn mạnh vào việc
quán tưởng, sự phát triển
thái độ và
năng lực tích cực. Bệnh cao huyết áp, trong nhiều
trường hợp được tạo ra và
tiến triển nặng hơn do những
căng thẳng tinh thần,
đặc biệt phù hợp với những
điều trị thay đổi
luân phiên như vậy (
thiền quán,
thái độ tích cực...). Một số thầy thuốc đã
giới thiệu việc
chú tâm vào một điểm trên cơ thể ở những vùng bị co cơ và sau đó chủ động buông lỏng những cơ đó, kết quả
đạt được sự bớt đau và thư giãn.
Phương pháp này theo cùng nguyên lý của
đạo Phật về cách
nhận biết một
vấn đề và sự nới lỏng bám chấp vào nó.
Sự chữa lành có
hiệu quả nhiều nhất nếu có bất kỳ
niềm tin tâm linh nào hay
kinh nghiệm thiền quán đi cùng.
Tiến Sĩ Herbert Benson, khoa y trường
Đại học Harvard, người khởi đầu Liệu
Pháp Thư Giãn đã viết như sau : “Nếu bạn thật sự
tin tưởng vào triết lý
cá nhân hay
niềm tin tôn giáo – nếu bạn gắn chặt
tâm hồn bạn với
thế giới quan của bạn – bạn có
thể đạt được những
kỳ diệu khác thường của tâm và thân mà thường
chúng ta chỉ
suy đoán về chúng.”
Tiến Sĩ Y Khoa Bernie Siegel, giáo sư và phẫu thuật gia của
Đại học Yale,
mô tả một số
lợi ích của
thiền định : “Thiền định làm
bình thường hay giảm áp huyết, nhịp tim, những mức độ nội tiết tố
căng thẳng trong máu, làm thay đổi những mẫu sóng não, cho thấy não ít bị
kích thích...
Thiền định cũng làm
nâng cao ngưỡng chịu đau và giảm sự già sinh học của
con người.
Tóm lại, nó làm giảm sự
hao mòn của thân, tâm, giúp
con người sống khỏe mạnh và lâu hơn.”
Nhiều nhà báo như Bill Moyers, đã
ghi nhận chi tiết về sự
liên hệ giữa thân, tâm với
sức khỏe. Ông đã nói trong phần
giới thiệu quyển sách Tâm và sự chữa lành trên một loạt các buổi phát hình
công cộng :
Tôi cho rằng mình luôn
quan tâm về mối
liên hệ giữa thân và tâm,
mặc dầu tôi đã lớn lên trong một nền
văn hóa phân chia tách biệt tâm và thân. Tuy vậy, hàng ngày trong
thế giới phân chia dứt khoát tâm và thân này,
ngôn ngữ chúng ta đã phản bội lại những
giới hạn của những
phạm trù của
chúng ta.
Bà quả phụ Brown đã chết vì một cơn vỡ tim – bà ta không bị bệnh tim trước khi chồng bà qua đời.
Cha mẹ tôi nói chuyện về người bạn bán tạp hóa của họ, người “hay tự lo rằng mình
bệnh hoạn.” Chú tôi, Carl tin rằng cái cười có thể làm dịu sự
đau khổ, trước
thời gian Norman Cousins xuất bản
câu chuyện của Ông về cách thế nào để
đối phó với những bệnh
hiểm nghèo bằng cách xem những phim Anh Em nhà Marx và những bộ phim video “Ống Kính Bộc Trực.”
Trong những năm
gần đây, Y học phương Tây đã bắt đầu có cách nhìn xác thực hơn về thân và tâm, khảo sát sự
liên hệ giữa
tâm trí, những
cảm xúc và
sức khỏe. Trong những năm 70, những nhà
nghiên cứu tìm ra bằng chứng ở não có những cái mà họ gọi là chất dẫn truyền
thần kinh, là những
sứ giả hóa chất đến và
từ bộ não. Một số chất này có tên là Endorphins và Enkaphalins với
chức năng làm hết đau. Một số khác dường như có
liên quan đến trạng thái cá biệt của
tâm trí như :
giận dữ, sự bằng lòng, hay bệnh
tâm thần.
Sự
nghiên cứu tiếp tục tìm thấy những
liên hệ sinh học giữa não bộ, hệ
thần kinh và hệ miễn nhiễm.
Mặc dầu y học phương Tây không phải là
chủ đề của quyển sách này, thì những phát minh trong
lãnh vực này rất đáng
quan tâm. Bằng chứng mới về tâm và thân luôn luôn được đón nhận và có thể
lợi ích cho nhiều người.
Tuy nhiên,
ý niệm căn bản đàng sau những cuộc
nghiên cứu này thật ra là rất xưa.
Đạo Phật tin vào sự quan trọng của tâm nhiều thế kỷ
đã lâu trước khi có những
học thuyết về sinh học phân tử
hiện đại.
ĐƯỜNG LỐI CỦA Y HỌC TÂY TẠNG TRONG VIỆC
CHỮA LÀNH TÂM LINHTrong
đạo Phật, tâm phát sinh những
năng lực chữa lành, trong lúc thân vốn là cứng đặc và
vững chắc, làm nền, quy tụ và làm mạnh cho chúng. Bản văn chính của y học
Tây Tạng là Bốn Tantra (Gyud Zhi), người
Tây Tạng coi là Terma hay là sự Mặc Khải huyền bí, được Ngài Trawa Ngonshey
tìm ra ở thế kỷ mười một. Theo những bản văn cổ này, gốc rễ mọi bệnh tật của thân và tâm là sự
chấp ngã. Những độc của
tâm thức khởi lên từ sự bám chấp này là tham, sân, si.
Những bệnh tật của thân phân làm ba loại chính. Sự mất hài hòa của khí hay
năng lượng, thông thường tập trung ở phần dưới cơ thể và có tính lạnh là do
tham dục gây ra. Mất hài hòa của mật, thường tập trung ở phần trên cơ thể và có tính nóng là do
sân hận gây ra. Mất hài hòa về thủy dịch, thường tập trung ở đầu, mang tính lạnh là do si (
vô minh) gây ra. Ba
phạm trù : tham, sân, si này cũng như nhiệt độ
phối hợp của chúng, ngày nay còn có thể rất
ích lợi trong việc xác định những bài tập
thiền quán nào có
hiệu quả nhất, theo những
tính chất và
trạng thái cảm xúc cá nhân.
Theo y học
Tây Tạng, sống trong an vui
tự tại với
phiền não và
buông xả ngã chấp là phương thuốc
tối hậu cho
sức khỏe tinh thần lẫn
vật chất.
Bản ngã là gì mà
chúng ta hay gặp trong sách này ?
Quan điểm của
đạo Phật đôi lúc khó hiểu cho những người không phải
đạo Phật. Dù bạn có thể
thiền định mà không cần biết
bản ngã là gì, một số
hiểu biết về
bản ngã sẽ làm dễ dàng hơn việc
thực tập những bài tập chữa lành được
giới thiệu ở phần sau.
Ngôn ngữ có thể lừa dối
chúng ta khi nói về
chân lý tối hậu. Trong
ý nghĩa hàng ngày, khi
chúng ta nói về “bản thân tôi” hay “bản thân bạn” là
hoàn toàn tự nhiên. Tôi nghĩ
chúng ta có thể
đồng ý rằng tự
hiểu biết là tốt, và tính
ích kỷ có thể làm
chúng ta không hạnh phúc. Nhưng hãy đi
xa hơn một chút và thử nghiệm
sự thật sâu hơn về
bản ngã như đạo Phật thấy nó.
TẠI SAO CHÚNG TA ĐAU KHỔTâm
chúng ta tạo ra
kinh nghiệm hạnh phúc lẫn
đau khổ và khả năng
tìm thấy an vui nằm trong
chúng ta. Trong
thật tánh của nó, tâm thì
an bình và
giác ngộ. Bất cứ ai hiểu được điều này là đã ở trên
con đường đến
trí huệ.
Đạo Phật đặt
trọng tâm trên nguyên lý
hai chân lý,
chân lý tuyệt đối và
chân lý tương đối. Cái
tuyệt đối là
thật tánh của
tâm thức chúng ta và của
vũ trụ thì
giác ngộ an bình, và
toàn thiện.
Thật tánh của tâm với
đạo Phật Nyingma nghĩa là sự hợp nhất giữa
tỉnh giác và rỗng rang, hay tánh giác và
tánh không.
Chân lý tương đối hay
quy ước là trong
toàn bộ đời sống bình thường – cuộc sống
trần tục vô thường qua đi của sanh, tử mà
đạo Phật gọi là
luân hồi (Samsara) –
thế giới được
kinh nghiệm như là nơi chốn của
đau khổ, của sự thay đổi không ngừng và
vọng tưởng, vì khuôn mặt của
thật tánh bị che mất do những
thói quen tâm thức và
phiền não mọc rễ trong sự
chấp ngã của
chúng ta.
Trong
tư tưởng phương Tây, “bản ngã” thường mang nghĩa
cá nhân hay
ý thức bản ngã về “tôi, là tôi và của tôi”,
đạo Phật bao gồm ý nghĩa bản ngã này mà cũng hiểu “bản ngã” là bất cứ
hiện tượng hay đối tượng nào – tất cả mọi sự – mà
chúng ta bám chấp như thể chúng là một
thực thể đang
hiện hữu thực sự. Nó có thể là
bản ngã của người khác,
bản ngã của cái bàn, của
đồng tiền hay
bản ngã của một
ý niệm.
Nếu
chúng ta bám chấp vào những sự vật đó,
chúng ta đang
kinh nghiệm chúng theo cách
nhị nguyên, như một chủ thể bám chấp một đối tượng. Bấy giờ
tâm trí bắt đầu
phân biệt, chia tách và dán nhãn sự vật
như ý niệm rằng “tôi” thích “cái này”, hay “tôi” không thích “cái này”.
Chúng ta nghĩ “cái này” đẹp, vậy là
trói buộc đến, hay “cái kia” không đẹp, thế là
đau khổ đến.
Chúng ta khao khát những gì mình không có hoặc
cảm thấy buồn rầu khi mất chúng. Khi
tâm thức chúng ta càng nắm siết hơn, càng
cảm thấy gia tăng kích thích hay
đau khổ và đây là chu trình
đau khổ.
Với tâm “tương đối” hay
tâm bình thường,
chúng ta chấp ngã như thể nó
vững chắc và có thực.
Tuy nhiên,
bản ngã là một
ảo giác, vì mọi
kinh nghiệm trong
luân hồi đều tạm thời, thay đổi và chết mất.
Tâm bình thường của
chúng ta nghĩ
bản ngã như là một cái gì đó thực sự
hiện hữu như một
thực thể độc lập. Nhưng trong
quan điểm đạo Phật,
bản ngã không thực sự
hiện hữu. Nó không cố định hoặc là một cái gì
bền vững, mà chỉ là một mệnh danh, dán nhãn bởi tâm.
Bản ngã cũng không là một
thực thể độc lập. Trong
quan điểm Phật giáo, mọi pháp
vận hành tùy thuộc lẫn nhau, bởi thế không có gì thực sự có một phẩm chất hay
bản tính độc lập.
Trong
đạo Phật,
luật nhân quả được gọi là nghiệp (karma). Mỗi một hành động đều có một
hậu quả tương ứng, mọi sự
tùy thuộc lẫn nhau. Hạt nẩy mầm thành cây, đơm hoa, kết trái rồi tạo ra hạt
trở lại. Đó là một ví dụ rất
đơn giản về
nguyên nhân. Nhờ nghiệp,
hành vi của
chúng ta đã định hình
thế giới mà
chúng ta sống. Ngài
Thế Thân (Vasubandhu), nhà viết luận thư vĩ đại của
Đại thừa đã nói : “Do nghiệp, những
thế giới khác nhau được tạo ra.”
Bám chấp tạo ra nghiệp
tiêu cực – những
thói quen và khuynh hướng
tiêu cực của
chúng ta. Nhưng không phải mọi nghiệp đều xấu, dù có một số người
suy nghĩ nhầm lẫn về nó.
Chúng ta cũng có thể tạo ra nghiệp
tích cực và đó gọi là sự chữa lành. Sự bám chắc
bản ngã tạo ra nghiệp
tiêu cực. Nghiệp
tích cực tháo gỡ sự bám chấp này, và khi buông lỏng sự
nắm chặt ấy,
chúng ta tìm thấy sự an vui trong mình và trở nên
hạnh phúc,
mạnh khỏe hơn.
TẤT CẢ CHÚNG TA ĐỀU LÀ PHẬTĐạo Phật tin rằng tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. Trong
thật tánh của mình, tất cả
chúng ta đều là chư Phật.
Tuy nhiên, khuôn mặt
Phật tánh của
chúng ta bị
che lấp bởi nghiệp và những tì vết của nó, mà gốc rễ là sự
chấp ngã giống như
mặt trời bị mây che phủ.
Tất cả
chúng sanh đều giống nhau và đều là
một sinh linh
toàn thiện trong
thật tánh của chúng.
Chúng ta biết, khi
tâm thức được
tự nhiên,
thoải mái và
tự tại trước những tình huống, những
áp lực tinh thần hoặc
cảm xúc làm
rối loạn,
chúng ta thể nghiệm được sự an vui. Điều này
hiển nhiên là tâm bản
nhiên không bị
nhiễm ô là
an bình và không
đau khổ. Dù rằng,
trí huệ,
thật tánh thường
an trú trong
chúng ta, bị che phủ bởi sự
nhiễm ô tinh thần, nó vẫn
hoàn thiện và
trong sáng. Tổ
Long Thọ (Nagarjuna), người đặt nền tảng của
học phái Trung Đạo của
Phật giáo Đại thừa, viết :
Nước trong trái đất không bị
biến thể.
Cũng vậy, trong
phiền não.
Trí huệ vẫn không
biến thể.
Tổ
Long Thọ nói về sự
an bình và
giải thoát như là “cõi giới tối hậu” của chính nó luôn luôn ở trong
chúng ta mọi lúc nếu
chúng ta nhận ra nó,
chứng ngộ nó :
Trong bụng bà mẹ mang thai
Dù có một đứa trẻ, ta không thể thấy.
Tương tựï, ta không thấy
tự tánh mình
Nó bị
che lấp bởi
phiền não của
chúng ta.
An bình là ở trong
chúng ta,
chúng ta không
cần phải tìm kiếm nó ở đâu khác. Bằng cách dùng cái mà
đạo Phật gọi là “phương tiện thiện xảo” gồm sự
thực hành thiền định,
chúng ta có thể mở bày ra điện thờ
thiêng liêng tối hậu này. Tổ
Long Thọ mô tả cõi giới tối hậu này – sự rỗng rang vĩ đại, sự hợp nhất giữa tâm và
pháp giới – theo cách sau :
Khi khuấy sữa, bơ
tinh chất sẽ
hiện ra,
Tịnh hóa
phiền não,
cõi giới tối hậu sẽ
hiển lộ toàn vẹnNhư đèn trong bình, ánh sáng không
xuất hiện.
Phật tánh bị che phủ trong cái bình của
phiền não khiến ta không thể thấy.
Nếu ta đục một lỗ trên bất cứ chỗ nào của bình
Từ chỗ đó ánh sáng chiếu ra mạnh mẽ
Khi cái bình của những
phiền nãoBị hủy diệt bởi định như
Kim CươngÁnh sáng chiếu soi vào
hư không vô tận.
Thích Ca Mâu Ni,
đức Phật lịch sử, nói trong Haivajra :
Chúng sanh là Phật trong
bản tánh chân thật của họ,
Nhưng
bản tánh của họ bị che ám bởi những
phiền não duyên sanhKhi những
phiền não được trừ sạch,
chúng sanh là
Chân Phật.
Phật tánh hay
giác ngộ là “vô ngã”. Nó là sự an vui, rỗng rang,
vô ngã,
nhất thể và niềm vui
toàn thể,
vĩnh viễn, toàn khắp. Với
đa số người,
viễn cảnh đạt đến toàn giác là rất
xa lạ và khó hiểu.
Mục đích của quyển sách này là không vượt khỏi
bản ngã, cũng không phải là
toàn giác, mà chỉ là
buông xả việc
chấp chặt bản ngã một ít để được
hạnh phúc và
mạnh khỏe hơn. Dù thế, nó giúp ta có được một
ý niệm về cái có nghĩa là sự rộng mở và
nhất thể toàn triệt.
Những
câu chuyện chúng ta được nghe về “những
kinh nghiệm cận tử” lúc hấp hối, hay
trở về từø cõi chết, có thể
cung cấp cho
chúng ta sự quán chiếu. Nhiều người đã
sống lại từ quá trình hấp hối đã
mô tả việc
di chuyển qua một đường hầm, gặp ánh sáng trắng xúc chạm cho họ một
cảm giác đại lạc,
đại an bình. Tuy vậy, ánh sáng không phải là một cái gì tách rời khỏi
kinh nghiệm này. Ánh sáng là sự
an bình. Và họ là ánh sáng. Họ
không kinh nghiệm và thấy ánh sáng theo lối
nhị nguyên thông thường, như chủ thể và đối tượng. Thay vào đó, ánh sáng, sự
an bình và
con người là một.
Trong một
câu chuyện lúc cận tử, một người đàn ông đã thấy lại
mọi việc xảy ra
trong đời sống mình, từ lúc mới sinh ra
cho đến khi chết, không chỉ là một
sự kiện này
tiếp theo một
sự kiện khác, mà
toàn bộ cuộc sống xảy ra
cùng lúc. Và ông ta không thấy bằng mắt hay nghe bằng tai, ngay cả biết bằng ý, ông ta có một
tỉnh giác sinh động và
thuần khiết về cái thấy, biết và cảm nhận mà không có sự
cách biệt giữa chúng. Trong
trường hợp như vậy, khi những
giới hạn và
hạn chế không còn, đó là cái một. Với cái một, không có
đau khổ hay
xung đột, vì
xung đột chỉ
hiện hữu khi nào ở đó có hơn một.
Với
Phật tử, những
kinh nghiệm như vậy được
đặc biệt quan tâm, vì chúng có thể là một
thoáng thấy “trung ấm
quang minh của
bản tánh tối hậu” là một giai đoạn chuyển tiếp
sau khi chết, cho người nào có một
nhận biết nào đó về
chân lý, vượt được khỏi
phạm vi không gian,
thời gian và những
ý niệm thông thường. Những chuyện như vậy không chỉ là về
kinh nghiệm chết, mà chúng còn có thể cho
chúng ta biết về sự
giác ngộ có thể
thực hiện được trong lúc ta còn sống.
Tâm giác ngộ thực sự không
xa lạ lắm đâu.
Tánh không hay sự rỗng rang, thì ở đây với
chúng ta, dù
chúng ta thường không
nhận ra nó,
chúng ta có thể thể nghiệm
toàn bộ về nó vào những thời điểm quan trọng trong cuộc sống, hay thậm chí là một cái
thoáng thấy giữa cuộc sống hàng ngày của ta.
Chúng ta không
cần phải đợi tới lúc cận tử. Dù cho những
câu chuyện cận tử có thể gây
cảm hứng và
thích thú,
giác ngộ không phải chỉ là một
câu chuyện này hay
câu chuyện khác. Nó không phải là
kinh nghiệm “này” hay cách nhìn “kia” hay
chúng sanh này
chúng sanh kia.
Toàn bộ tánh rỗng rang vượt khỏi những đối cực “hiện hữu” và “không hiện hữu”, cũng không vừa “hiện hữu” vừa “không hiện hữu” hay “không hiện hữu” vừa “không phải không hiện hữu”. Nói cách khác,
toàn thể tánh rỗng rang không thể ở trong
mô tả và
ý niệm.
CON ĐƯỜNG CHỮA LÀNHGiác ngộ là
nhất như (oneness) vượt lên sự
chấp ngã,
nhị nguyên,
hạnh phúc hay
phiền muộn, nghiệp xấu hay tốt.
Tuy nhiên, khi ta nói về sự chữa lành như trong sách này, không
cần thiết phải quá
quan tâm đến
giác ngộ.
Chứng ngộ thật tánh của tâm ta là sự chữa lành
tối hậu, nhưng với tâm thông thường cũng có những
năng lực chữa lành.
Chúng ta có thể dùng tâm
nhị nguyên, thông thường để tự giúp đỡ chính mình. Phần lớn những bài
thực hành trong sách này dùng những tiếp cận hàng ngày để trở nên
thong dong và
hạnh phúc hơn.
Vậy,
mục đích chúng ta đơn giản là đi từ
tiêu cực đến
tích cực, từ bệnh tật đến chữa lành. Nếu lúc này
chúng ta đã ở trong một
trạng thái tích cực,
chúng ta có thể học làm sao để
duy trì và hưởng thụ nó.
Tuy nhiên buông xả bám chấp nhiều đến đâu
chúng ta sẽ cảm nhận nhiều
tốt đẹp đến đó.
Trên một
hành trình dài,
chúng ta có thể luôn ghi nhớ đích đến
tối hậu, nhưng thật là tốt nếu mỗi ngày
chúng ta sống
trọn vẹn và nghỉ ngơi suốt dọc
con đường. Nếu muốn buông lỏng sự
chấp chặt bản ngã,
chúng ta không nên
quá cố gắng.
Tốt hơn nên có một lối tiếp cận nhẹ nhàng. Bất cứ những bước mà ta đi, dù là những
bước ngắn, điều quan trọng nhất là
thích thú với những bước nhỏ đó, và rồi chúng sẽ trở nên đầy
sức mạnh. Luôn luôn
chúng ta phải hân thưởng những gì mình có thể làm, và không nên
cảm thấy điều
chúng ta không làm được là xấu.
Hãy rộng mở,
tích cực,
buông xả hơn một tí. Đây là những
mục tiêu của quyển sách này. Nếu
chúng ta là người mới
thiền định và
tu hành tâm linh, điều quan trọng là
thực hành, dùng
kiến thức của ta để thấy
con đường đúng mà đi. Khi ta giữ một
thái độ rộng mở, những khơi gợi về những
thiền định đặc biệt chữa lành giúp
chúng ta tiến nhanh. Sự hướng dẫn tốt nhất của tất cả là
trí huệ trong
chúng ta.
Chúng ta không nên
hạn chế trong vài
phương pháp thiền định. Thay vào đó, tất
cả đời sống
suy nghĩ, cảm nhận, những
hoạt động và
kinh nghiệm hàng ngày – có thể là một
phương tiện của sự chữa lành.
2
SỨC MẠNH CHỮA LÀNH CỦA TÂMKhi tôi được sáu hay bảy tuổi, đôi lúc tôi chơi đùa với các bạn trên những đồng cỏ
mênh mông, nơi người
du mục Tây Tạng sinh sống. Đó là những ngày đầy nắng hạ trên cao nguyên phía Bắc
Tây Tạng. Mặt đất bao phủ cỏ xanh trông mút tầm mắt. Khắp nơi, ngập đầy mắt là khung cảnh
ngoạn mục của những bông hoa đầy màu sắc. Không khí tĩnh lặng, chim muông bay lượn, hót những điệu nhạc êm dịu, những con bướm nhảy múa dập dờn trong gió, những con ong bận rộn hút mật từ những bông hoa. Trên bầu trời xanh thẳm, đó đây có những
đám mây che bóng trên đất mẹ đầy
quyến rũ và
đẹp đẽ. Sự xúc chạm
dịu dàng của không khí và ánh sáng, không
cảm giác nào có thể
so sánh. Khung cảnh
hoàn toàn thanh tịnh và
an bình, không có một dấu vết nào của
nhiễm ô hay không hài hòa, chỉ có những
âm thanh ngọt ngào, những khúc nhạc êm dịu của
thiên nhiên.
Mọi việc xảy đến
tự nhiên, không có
thời hạn để
theo đuổi. Không có tiếng của đồng hồ
hạn chế chúng ta, chỉ có những chu kỳ
mặt trời,
mặt trăng làm nhịp điệu và định lượng cuộc sống
chúng ta.
Toàn thể cảnh vật
hoàn toàn tự do,
mở rộng và
an bình ngây ngất. Tôi không nghĩ đến
mùa đông lạnh giá
liên tục chờ đợi chụp xuống đầu
chúng tôi. Tôi lăn tròn trên đất mẹ đầy
khoan dung, luôn chào đón và chạy chân trần trên cánh đồng,
thưởng thức những nụ hôn của cỏ ướt.
Toàn bộ hiện hữu của tôi, cả thân và tâm
thể nhập toàn bộ vào một
kinh nghiệm duy nhất – niềm vui.
Đột nhiên, chân phải tôi đau nhói,
toàn thân tôi co cứng vì đau. Lúc này tất cả những gì tôi
cảm thấy đã chuyển
thành kinh nghiệm
đau đớn.
Thoạt tiên, tôi chưa có
ý niệm gì về việc xảy ra, sau đó một
âm thanh vù vù từ chân tôi, một con ong nghệ bị kẹt giữa hai ngón chân, nhưng tôi không thể mở ngón chân ra được. Con ong càng chích đau, chân tôi càng xiết chặt, cơn đau lại
gia tăng.
Cuối cùng, một người bạn chạy đến và mở những ngón chân tôi cho con ong bay ra. Chỉ có làm như vậy mới
chấm dứt cơn đau.
Nếu
chúng ta có thể thấy
rõ ràng tâm thức bám chấp đã tạo ra những rối rắm của
chúng ta như thế nào ! Khi
chúng ta bám chặt vào
bản ngã,
thân thể,
tâm thức và
tâm linh chỉ làm
gia tăng cơn đau. Trong sự lầm lộn của mình, chúng càng bám chặt hơn và tự
vận hành một chu kỳ
đau khổ là đặc trưng của
thế giới luân hồi sinh tử. Ngay khi
chúng ta hạnh phúc,
đau khổ có thể đến bất cứ lúc nào, và vì thế
chúng ta thường bám chặt vào cái mình có e rằng sợ mất.
Theo
triết học Phật giáo Đại thừa,
chúng ta lang thang trong
thế giới này vô
mục đích, không thấy được
sức mạnh nội tại có thể
giải thoát chúng ta. Tâm
chúng ta tạo tác
tham muốn và ghét bỏ và giống như người say,
chúng ta nhảy nhót lung tung vì bị điều khiển bởi
vô minh, bám chấp và thù hận.
Hạnh phúc thì thoáng qua, sự không
hài lòng lại săn lùng
chúng ta. Tất cả giống như một cơn
ác mộng.
Chừng nào còn tin vào giấc mơ là thật,
chúng ta còn là
nô lệ của nó.
Để
thức tỉnh dậy, phải xua tan những
đám mây khỏi
bản tánh chân thật của tâm ta. Nhiều thế kỷ trước, một hoàng tử là
Sĩ Đạt Đa Cồ Đàm (Sidharta Gautama) đã
từ bỏ quyền lợi hoàng tộc, và sau khi
thiền định lâu dài và
sâu xa, Ngài thấu biết
chân lý đời sống như nó thực sự là. Ngài đã được biết đến như là một vị Phật. Trong
Phạn ngữ, từ Phật có nghĩa là
thức tỉnh.
Chúng ta cũng có thể
thức tỉnh. Quá trình chữa lành là
thức tỉnh sức mạnh của tâm
chúng ta.
TÂM LÀ NHÂN TỐ CHÍNHGiống như người thầy thuốc,
chúng ta phải
chẩn đoán ra bệnh,
loại bỏ nguyên nhân gây bệnh và dùng thuốc để chữa lành bệnh. Ngài
Vô Trước (Asanga), người đặt nền tảng cho
học phái Duy Thức của
đạo Phật viết :
Cần phải chẩn đoán bệnh, để
loại bỏ nguyên nhân của nó,
Và dùng thuốc để
đạt được khỏe mạnh
Đau khổ phải được
nhận biết,
nguyên nhân phải được
loại bỏ,
Phương thuốc để
chấm dứt bệnh phải được
áp dụng, và sự
chấm dứt đạt được (
diệt đế).
Trong
đạo Phật, việc chẩn bệnh và phương thuốc được chứa trong Bốn
Chân Lý :
Chân lý rằng
chúng ta đang khổ đau,
chân lý về tại sao
chúng ta khổ đau,
chân lý rằng ta có thể
chấm dứt sự khổ đau của
chúng ta, và
chân lý về
con đường dẫn đến
giải thoát.
Chúng ta có thể chọn
đi theo con đường này. Ngay khi
đối phó với những khó khăn hàng ngày,
chúng ta có thể
cải thiện đời sống mình. Tâm là chìa khóa. Bằng sự hướng dẫn và
tu tâm thích hợp,
chúng ta có thể
kinh nghiệm được
sức mạnh chữa lành.
Kinh Pháp Cú (Dharmapada) nói :
Tâm dẫn dắt mọi
hiện tượng.
Tâm là nhân tố chính,
đi trước mọi
hành vi.
Nếu nói hay làm với một tâm
độc ác,
Khốn khổ sẽ
theo sau, giống như xe
theo sau do ngựa kéo.
Mọi
hiện tượng do tâm dẫn dắt.
Tâm là nhân tố chính,
đi trước mọi
hành vi.
Nếu nói hay làm với một
tâm thanh tịnh,
Hạnh phúc theo sau, như bóng theo hình.
Hạnh phúc thật sự và
trường cửu không đến từ môi
trường vật chất hay bên ngoài, mà qua sự bằng lòng và
sức mạnh của tâm. Ngài Dodrupchen viết :
Người có học
nhận ra rằng mọi
hạnh phúc và
đau khổ đều
tùy thuộc vào tâm, do vậy, phải tìm
hạnh phúc từ
chính tâm. Bởi vì họ hiểu rằng mọi
nguyên nhân của
hạnh phúc hoàn toàn ở trong
chúng ta, nên họ không
dựa vào những nguồn bên ngoài. Nếu
chúng ta thấu
biết điều này, thì dù
chúng ta có đối mặt với những
vấn đề khó khăn gây ra bởi người hoặc vật, chúng cũng không thể làm
thương tổn chúng ta. Hơn thế nữa, chính
sức mạnh của tâm này cũng sẽ ở với
chúng ta để
cung cấp cho
chúng ta an vui và
hạnh phúc vào lúc chết.
Thật tánh của tâm
chúng ta là
an bình. Học cách
buông bỏ những
lo nghĩ,
căng thẳng không
cần thiết,
chúng ta đã để cho
hạnh phúc có cơ hội tỏa sáng. Tất cả đều
tùy thuộc vào tâm ta.
Đạo Phật tin rằng
tâm thức có thể
chuyển hóa cảm xúc, và
hạnh phúc không chỉ có thể mà là thuộc quyền của
chúng ta.
Chúng ta không
cần phải để sự
lo nghĩ làm chủ.
Buông bỏ là một đường lối thông thường, nó không phải là một
thái độ lạ thường nằm riêng trong một
tôn giáo hay
triết học nào, như trong Kinh Thánh (Eccles 30:5) nói :
Không nên buông thả mình cho
buồn rầu,
và
tự hành hạ mình vì
lo nghĩ.
Sự
vui vẻ của lòng là
đời sống của
mọi người,
niềm vui là cái làm cho cuộc sống kéo dài.
Cẩn thận với sơ suất,
an ủi lòng mình,
xua tan
phiền muộn ;
Vì
phiền muộn là sự hủy hoại của nhiều người
và không
ích lợi gì cho ai.
Ghen tỵ và thù hận làm ngắn đi cuộc sống,
lo nghĩ chỉ đem lại già sớm.
Một trái tim
vui vẻ chan hòa giúp ăn nhiều,
cho những ai muốn thưỏng thức
bữa ăn ngon.
SỐNG NHƯ THẾ NÀO TRONG THẾ GIỚIMột số người nghĩ
đạo Phật là một
tôn giáo cho những ai muốn
đạt đến trạng thái an lạc, và rồi biến mất vào một loại không
hiện hữu nào đó đối với những người khác. Đây không phải là một
hình ảnh chính xác của
đạo Phật. Người
Phật tử tin vào sự nhập cuộc
hoàn toàn trong đời sống.
Con đường chữa lành không loại trừ những
vấn đề và khó khăn, mà nó ôm lấy chúng như là một
phương tiện để
chứng ngộ thật tánh của
chúng ta.
Chúng ta có thể dùng một tiếp cận
thực tế đối với những
vấn đề có vẻ
hoàn toàn tiêu cực. Nếu
chúng ta đang ở trong
hoàn cảnh căng thẳng,
chúng ta phải
nhận ra và tự làm hòa với nó, nghĩ rằng : “xấu đấy, nhưng cũng tốt thôi”. Nếu
chúng ta không trở nên
cuồng loạn nơi
hoàn cảnh, tự kéo dài một chuỗi
nhận thức tiêu cực, thì
ảnh hưởng của chúng sẽ tiêu dần đi, vì giống như mọi sự trong cuộc sống,
hoàn cảnh này là
vô thường, không sớm thì muộn sẽ thay đổi. Biết như vậy,
chúng ta có thể
an nhiên tiến đến bước
kế tiếp của sự chữa lành, với một cảm nhận tự tin rằng những
hoàn cảnh bên ngoài không
thể chế ngự
trí huệ nội tại của
chúng ta.
Trong
quan điểm Phật giáo,
rốt ráo những
cảm xúc không tốt cũng không xấu.
Chúng ta phải
chấp nhận và chào đón tất cả
cảm xúc của ta.
Đồng thời,
chúng ta cần không bị
chi phối bởi những
cảm xúc hoang dã hay
phá hoại. Nếu
chúng ta bị
tổn thương bởi
thèm muốn,
vướng mắc,
rối ren hay
sân hận,
tốt hơn nên nghĩ về “cái đúng để tôi làm” hơn là về “cái tôi muốn làm”. Khi ta
đi vào con đường chữa lành,
chúng ta nên làm mạnh mẽ những
ý định của mình.
Chúng ta phải
để tâm trí
chúng ta hướng dẫn mọi
cảm xúc.
Nếu
dựa vào bất cứ những gì bên ngoài
chúng ta như chúng là nguồn
thỏa mãn tối hậu,
chúng ta sẽ
cảm thấy như trên con thuyền chòng chành giữa sự
mãn nguyện và không
thỏa mãn. Sự bám chấp phó mặc
chúng ta cho sự
luân chuyển mãi của bánh xe
luân hồi,
một thế giới thoáng qua của
hoan lạc và
đau khổ. Khi
chúng ta buông bỏ bản ngã và
tìm thấy trung tâm an bình thật sự của
chúng ta, ta thấy rằng không
cần phải bám víu vào những
ý niệm tốt, xấu,
hạnh phúc, đau buồn, cái này hay cái kia, “tôi” và “họ”. Nhiều
tôn giáo và
triết học khuyên
chống lại sự
đồng hóa mạnh mẽ với
bản ngã. Bản văn
nổi tiếng của
Ấn Độ giáo,
Áo nghĩa thư (Upanishads) đã
so sánh sự tự
đồng hóa này với một cái bẫy : “nghĩ ‘đây là tôi’ và ‘đó là của tôi’, người ta đã tự
trói buộc với
bản ngã và hành động như con chim mắc bẫy.”
Chăm sóc những nhu
cầu thực sự của
chúng ta và người khác là
con đường tìm thấy an bình, và khi làm điều này
chúng ta đã
tham gia vào cuộc sống. Đấu tranh không phải là điều xấu.
Chúng ta có thể học để thấy sự đấu tranh với
đời sống là một thách thức
thích thú.
Tuy nhiên, phải
nhận ra rằng, trong việc
tìm kiếm bất kỳ một
mục đích nào
trần tục hay
tâm linh, việc bám chấp sẽ làm
mệt mỏi và
trói buộc chúng ta trong sự
ích kỷ. Khi
chúng ta biết cái mình thực sự cần để sống, việc khéo léo sống trong một cách thế
quân bình trở nên dễ dàng hơn.
ĐIỀU GÌ QUAN TRỌNG CHO CUỘC SỐNG CON NGƯỜIThực phẩm, quần áo, chỗ ở,
sức khỏe, sự chăm sóc và
giáo dục là
cần thiết để kéo dài cuộc sống quý giá của
con người. Là thành viên của
xã hội con người,
chúng ta cần
tôn trọng người khác,
tôn trọng những nhu cầu
căn bản, những
thể chế làm
lợi lạc cho người khác.
Ngoài ra, không có gì ở bên ngoài
đáng giá bằng
thời gian,
an bình,
năng lực và
trí huệ của
chúng ta – những tặng phẩm lớn của cuộc sống
chúng ta. Những
tiện nghi khác của
đời sống phần lớn là công cụ để
thỏa mãn tâm khát khao của
chúng ta,
tôn sùng và
đánh bóng bản ngã của
chúng ta, và siết chặt thêm sự bám chấp của
chúng ta. Khi
tích lũy những
lạc thú thế gian, sự
ham muốn chạy theo của
chúng ta càng lúc càng nặng hơn. Kinh Lalitavistara khuyên :
Hưởng thụ những
lạc thú của
tham dục,
Như uống nước muối, sẽ không bao giờ đem lại
thỏa mãn.
Giàu và nghèo đều
đau khổ như nhau, vì những
lo nghĩ bên ngoài
liên hệ với
tham dục. Thậm chí có hàng tỷ
đau khổ do
giận dữ,
thất vọng,
buồn chán. Họ có hưởng thụ một ít
an bình, nghỉ ngơi thật sự nhưng chỉ
lo lắng mất những gì họ có hoặc kiếm cho được những gì họ không có. Họ không thể hưởng thụ người mà họ đang là, mà chỉ sống cho cái mà họ bị
lôi cuốn và bị
nô lệ. Không phải
bản thân việc kiếm tiền gây ra
đau khổ, mà việc trao
cuộc đời mình cho sự bạo ngược của những
sở hữu bên ngoài là sự giết mất của an vui.
Trong một cách
tương tự, người nghèo mắc bẫy vào cuộc chiến đấu để sống còn. Họ không dám hưởng thụ một chút nào mà họ có, vì sợ mắc phải
đau khổ hơn. Khi Mẹ Teresa nhận giải Nobel hòa bình, Bà kể
câu chuyện này : “Một ngày, những Soeur
truyền giáo ở Calcutta đem về một đứa bé
mồ côi và họ đưa cho đứa bé một miếng bánh mì. Đứa bé chỉ ăn phân nửa. Khi hỏi tại sao đứa bé
trả lời : “Nếu con ăn hết, vậy đâu còn bánh mì nữa để con ăn.” Chỉ sau khi
chắc chắn sẽ có bánh mì, đứa bé mới chịu ăn hết phần bánh còn lại.
Mặc dù sự
tiến bộ và phát triển
vật chất của
văn minh hiện đại, nhiều người đã trật đường khỏi
ý nghĩa cuộc sống. Dù giàu hay nghèo, hoặc
thoải mái giữa giàu và nghèo
chúng ta phải
thận trọng, không nên quý chuộng những
lạc thú vật chất với cái giá mất đi
bản tánh chân thật của chính mình. Nếu
sử dụng năng lực của mình để chỉ nghĩ đến những việc
trần tục và làm sao để có được nhiều hơn –
thức ăn ngon hơn, nhiều tiền hơn,
nổi tiếng và được biết đến nhiều hơn, bất cứ thứ gì ở bên ngoài
chúng ta – thì
chúng ta sẽ mất đi cái
giá trị nhất.
Chúng ta tập trung chú ý đến tất cả mọi thứ cách xa
chúng ta – càng xa
con người chân thật của
chúng ta,
chúng ta càng cho là quan trọng.
Chúng ta định
giá trị những gì mình có và thân xác ở trên
tâm thức, vẻ
bề ngoài của ta lên trên
sức khỏe,
sự nghiệp đặt lên trên cuộc sống
gia đình.
Chúng ta đồng hóa với
thân thể và xem tâm chỉ là công cụ của thân, như một người nào đó đã
mô tả một cách hài hước “nấm trên bộ não.”
Chúng ta tự cắt mình ra khỏi nguồn
hạnh phúc thực sự,
tích lũy những
sở hữu cho nhà cửa mình mà không chăm sóc cho thân, tâm, mặc dù
điều kiện quan trọng nhất cho cuộc sống trong nhà là một tâm
hạnh phúc và một thân khỏe mạnh.
Khi tôi
trưởng thành ở
Tây Tạng, một người quen đã dùng rìu để đốn củi và chặt phải đôi giày mới. May thay, chân anh ta không
bị thương mà lại rách giày da, chiếc giày có một
giá trị với một xứ nghèo như
Tây Tạng. Anh ta
nói thật lòng : “Nếu tôi không mang giày, chân tôi
bị thương rồi sẽ lành. Tệ thật, đây là đôi giày mới và chúng không bao giờ lành.” Đây là cách nhìn rất buồn cười về sự vật. Nhưng nó cũng
phổ biến với những người đặt
vấn đề vật chất lên trên hết, rồi tới thân và
cuối cùng là tâm, sự việc đã
hoàn toàn bị
đảo ngược.
Mặc dù
chúng ta có thể nói : “Tôi muốn được
an bình và khỏe mạnh”,
chúng ta thực sự coi trọng
thành quả của sự năng nổ trong việc kiếm được những nhu cầu
vật chất hơn là làm thăng bằng hay
an bình để
nuôi dưỡng sức mạnh bên trong
chúng ta.
Chúng ta tiêu tốn nhiều
thời gian và
sinh lực cho
sự nghiệp hơn việc
xây dựng cuộc sống trong
gia đình, dù
chúng ta làm việc là để cho
gia đình hạnh phúc.
Chúng ta sống giống như những con ong, chúng bỏ
cả đời gom góp mật, nhưng
cuối cùng lại để cho kẻ khác hưởng
thành quả suốt đời lao động của chúng.
Chúng ta đặt
giá trị trên việc kiếm được nhiều tiền hơn và trên
cách sống khoa trương dùng tiền mua sắm hơn là làm việc có
mục đích và
để ý xem
việc làm ấy có
ích lợi cho mình và người khác hay không.
Chúng ta chấp nhận sự nguy hiểm cho cuộc sống quý giá của mình để kiếm tiền, giống như uống rượu để
xoa dịu sự
căng thẳng của công
việc làm mắc bệnh đau bao tử.
Đồng tiền trở nên người chủ,
ý nghĩa và
mục đích tối hậu cho quá nhiều người.
Nếu
chúng ta cố gắng làm việc trên tâm để
cải thiện những
thái độ, phẩm chất của mình,
xã hội hiện đại gán cho chúng ta là
ích kỷ, không
thực tế và lười biếng. Người sản xuất ra
vật chất được
đánh giá,
ca ngợi cao, mà không phải là người
tìm kiếm con đường tâm linh. Nếu
chúng ta ở nhà chăm sóc phần bên trong và cuộc sống
thiêng liêng, người ta đối xử
chúng ta như một kẻ bất tài, thất nghiệp và
vụng về. Căn nhà bị giảm xuống thành nhà trọ, một nơi để nghỉ qua đêm.
Chúng ta phải
từ bỏ những cái gì đó để được những cái khác. Làm sao
chúng ta có thể nghĩ đến việc đánh mất
trung tâm an bình quý giá và
cuộc đời vui tươi tự nhiên chiếu sáng từ đó, chỉ để có
kinh nghiệm một cuộc sống đầy những khó khăn ? Hiện nay, hình
như không chỉ người
bình thường mà thậm chí còn có những
vị thầy tâm linh cảm thấy bị thúc dục
theo đuổi nền
văn hóa vật chất hiện đại. Có một
câu chuyện cổ
châm biếm về
tình trạng này :
Ngày xưa ở
Ấn Độ, những nhà
tiên tri tiên đoán rằng trong bảy ngày nữa sẽ có một cơn mưa lớn, ai uống nước mưa sẽ bị điên. Khi mưa xuống, vị Vua đã trữ đầy nước sạch cho mình nên không bị điên. Dân chúng dùng hết nước sạch, phải dùng nước mưa nên bị điên. Sau đó, họ coi ông Vua là điên. Do đó, để hiểu và
cảm thông với dân, ông Vua phải uống nước mưa và bị điên giống thần dân của mình.
Tôi không đề nghị rằng
chúng ta có thể hay phải lờ đi
hệ thống của
đời sống hiện đại.
Chúng ta không thể
tồn tại nếu không có những nhu cầu cơ bản,
chúng ta cần
thực tế và
tôn trọng những
quan điểm chung. Nhưng
chúng ta cần đặt mọi sự vào
viễn cảnh tổng quan. Thiết yếu là hiểu được
chúng ta là ai,
chúng ta đứng ở đâu, cái gì là
giá trị thật sự và làm thế nào để sống trong
thế giới.
Nếu
chúng ta không
thận trọng và để cho tâm bám chấp
trở thành siết chặt và khô cứng, những
thói quen tiêu cực sẽ ăn mòn cảm thức
an bình của ta. Kinh Udanavarga nói :
Từ sắt, rỉ sét
xuất hiện, và
Rỉ sét ăn mòn sắt
Cũng vậy, những
hành vi không
thận trọng mà
chúng ta làm,
Do bởi nghiệp, dẫn ta xuống những cuộc sống
địa ngục.
Trong
thời gian đầu của cuộc sống tỵ nạn, một
biến cố đơn giản tạo một ấn tưởng mạnh trong tôi. Tôi đã đến Kalim-pong với vài người bạn, một thị trấn
dễ chịu nằm trên những ngọn đồi thuộc
dãy núi Hy Mã Lạp Sơn Ấn Độ. Trên đỉnh đồi,
chúng tôi dừng lại ở một nghĩa trang để uống trà vì mệt và đói, cũng không đủ tiền để ăn tại nhà hàng.
Tôi đi tìm một số cây và đá để tạo một cái bếp. Khi qua phía bên kia của ngọn đồi, tôi gặp một
nhà sư già có khuôn mặt lớn và đôi mắt nhỏ chiếu sáng khoảng dưới tám mươi tuổi. Tôi
nhận ra Ngài là một Lama từ
Mông Cổ đến vì khuôn mặt tròn và
lưỡng quyền cao. Ngài ngồi trong một căn phòng rất nhỏ đàng sau một căn nhà cũ, cửa sổ và cửa ra vào
mở rộng. Căn phòng mỗi bề rộng tám bộ (khoảng 2,43 m). Ngài
thiền định, đọc sách, nấu ăn, ngủ và nói chuyện với
mọi người,
ngồi xếp bằng trên cái giường suốt ngày trong một căn phòng nhỏ
tương tự. Ngài có một
bàn thờ nhỏ, với một ít tượng
tôn giáo và vài quyển kinh trên một cái kệ nhỏ trên tường. Cạnh giường là một bàn ăn rất bé và cũng là bàn làm việc, gần bàn là một bếp than nhỏ, trên đó Ngài đang nấu một ít
thức ăn cho mình.
Ngài nở một nụ cười
hoan hỷ và hỏi tôi : “Anh tìm gì ?” Tôi đáp : “Chúng tôi vừa tới đây và tôi đi tìm một ít củi nấu trà.” Ngài nói một cách êm dịu : “Không có nhiều
thức ăn, nhưng anh và tôi hãy chia
với nhau bữa cơm tôi đang sửa soạn nhé ?” Tôi cám ơn nhưng từ chối
lễ phép. Các bạn tôi đang đợi. Rồi Ngài bảo : “Đợi một chút, tôi sắp nấu xong và bạn có thể mượn cái lò. Cũng còn ít than cho bạn đủ để nấu trà.”
Những điều đã thấy làm tôi
sửng sốt. Ngài rất già, nhưng Ngài dường
như không có
thời gian để tự chăm sóc. Tuy vậy, cặp mắt nhỏ của Ngài đầy
nhân từ, nét mặt
trang nghiêm và
duyên dáng đầy niềm vui, tấm lòng Ngài rộng mở đầy nhiệt tình
chia xẻ, tâm ngài
an bình. Ngài nói chuyện với tôi như một người bạn cũ dù rằng mới gặp tôi lần đầu. Một
cảm giác an bình,
hoan hỷ, lạ lùng xuyên suốt thân tôi. Tôi
cảm thấy như vậy vì
tinh thần tự nhiên và
sức mạnh tâm linh của Ngài
tỏa ra như một người
giàu có và
hạnh phúc nhất trên
thế giới.
Tuy nhiên, theo cách nói của
thế giới duy vật, Ngài là kẻ không nhà, không
việc làm và không có
hy vọng. Ngài không có một sự giúp đỡ, không lợi tức thu nhập, không trợ giúp của
gia đình, không tín dụng
xã hội, không có sự giúp đỡ của chính quyền, không đất nước, không tương lai. Hơn hết, Ngài là một người tỵ nạn ở nước ngoài, thậm chí còn khó
giao thiệp được với dân địa phương. Ngay cả ngày nay, khi tôi nhớ đến Ngài, tôi không thể làm gì khác mà chỉ lắc đầu trong nỗi
kinh ngạc và tôn vinh Ngài trong tâm. Tôi cũng muốn nói thêm rằng, Ngài không phải là người
duy nhất có
tính chất ấy mà tôi đã gặp. Có nhiều người
đơn giản mà vĩ đại như vậy.
KHỞI ĐẦU CON ĐƯỜNG CHỮA LÀNHBuông lỏng
chấp ngã đem đến cho ta tâm
an bình, và với nó không gì có thể
tổn hại được
chúng ta. Ngay cả nếu có
đau khổ,
thái độ đúng sẽ giúp
chúng ta chịu đựng phiền não một cách nhẹ nhàng hơn. Để được
ích lợi từ những kỹ thuật
thiền quán nhằm làm mạnh tâm, ngay lúc khởi đầu, điều quan trọng là nghe những lời chỉ dạy mà không có những
định kiến hay
phán đoán. Nếu
chúng ta tìm điều gì đó có thể hiểu và có
ý nghĩa cho nhu cầu của mình,
chúng ta cần hướng mọi
ý định, cảm nghĩ vào việc đem kỹ thuật vào trong
thực hành, không
ngần ngại,
trông chờ hay
nghi ngờ.
Niềm tin là
tác nhân của
sức mạnh chữa lành.
Đơn giản bằng việc
mở rộng tâm,
chúng ta sẽ
ngạc nhiên bởi
sức mạnh bên trong của chính ta.
Rèn luyện tâm thức khiến phát triển sự nồng ấm của
tinh thần và có thể dẫn
chúng ta đến một
nhận biết rộng mở và
linh hoạt hơn. Mặc dù không phải mọi kỹ thuật tôi hướng dẫn ở đây đều nguyên dạng như trong
kinh điển, nhưng mọi đề nghị gợi ý đều đặt nền trên những nguyên lý và
trí huệ của
đạo Phật.
Mục đích nhằm đem lại
sức mạnh an bình nội tại bằng việc phát triển những phẩm tính như
nhận thức tích cực, sự khéo léo (
thiện xảo) chuyển mọi sự xảy đến cho
chúng ta thành sự hỗ trợ thay vì là một
chướng ngại.
Phẩm tính quan trọng khác nữa là sự
sùng tín, rất
cần thiết trong bất kỳ việc
thực hành tâm linh nào, tuy vậy không
cần thiết phải mang
ý nghĩa tôn giáo. Với những ai thích một tiếp cận
thế tục hơn, sự
sùng tín đơn giản có nghĩa là một sự trau dồi
trí huệ nội tại và một sự cảm kích
sâu xa về chính
chúng ta, về người khác và về
thế giới nói chung.
Cầu nguyện là cách mà một người
thực hành tâm linh làm để dẫn
năng lượng vào việc
biểu lộ sùng tín hơn là hao phí
năng lực đó trong những
chuyện phiếm vô
mục đích. Kiểu
cầu nguyện thế tục là sự
diễn đạt những
cảm giác hạnh phúc hay
hoan hỷ bằng
ngôn ngữ của chính
chúng ta, mà
chúng ta có thể
nói thầm hay lớn tiếng.
Với
Phật tử Đại thừa, những ai
quan tâm trong việc
chuyển hóa những khó khăn và làm tan biến tự ngã,
lòng bi mẫn được xem là công cụ chữa lành
đặc biệt. Khi
chúng ta đến với những người khác, sự chấp cứng
bản ngã bắt đầu mềm dần. Mặc dù
mục tiêu tối hậu của việc đào luyện
tâm linh là
thoát khỏi sự nương
dựa vào bất cứ cái gì ngoài tâm,
đạo Phật khuyên bảo rằng
tham gia vào
thế giới là một sự
thực hành tích cực trên
con đường chân thật. Điều này
bao gồm việc
phụng sự những người khác, tạo ra những cơ sở, những viện để giúp đỡ người khác,
che chở, biếu tặng,
cầu nguyện và
tôn trọng. Thậm chí những gặp gỡ
xã hội nhỏ nhặt của
đời sống cũng có một
lợi lạc mạnh mẽ khi
chúng ta biết
vui thích và
tôn trọng bất cứ ai mình gặp. Ngài Shantideva viết :
Khi bạn nói, hãy nói với sự
thanh thản,
trong sáng,
thích hợp và
thoải mái,
Không có
tham dục và thù hận,
Với ngữ điệu
dịu dàng và
ôn hòa vừa phải.
Khi bạn nhìn, hãy nhìn với đôi mắt
yêu thương và
trung thực, nghĩ rằng :
“Nhờ vào người này
Tôi sẽ
trở thành toàn giác.”
Bằng cách để cho
chúng ta lưu tâm chăm sóc,
bình an và
buông xả, thì những công việc và
hoạt động hàng ngày, ngay cả đến
hơi thở, cũng có thể
trở thành một phần của việc
thực hành chữa lành, và
chúng ta sẽ
đạt được sức mạnh một cách
tự nhiên. Nếu
chúng ta mở rộng với nó,
đời sống bình thường của
chúng ta sẽ chuyển thành
một đời sống chữa lành. Bấy giờ, dù không
chính thức ngồi thiền, cuộc sống
chúng ta sẽ là
sự thiền định trong hành động.
Phần lớn những bài tập trong cuốn sách này nhằm vào việc
chuyển hóa những xúc cảm bằng việc
nhận ra những
vấn đề và đi từ
tiêu cực đến
tích cực. Một tiếp cận khác đi đến
thiền định là vượt trên cả xấu lẫn tốt, bằng việc
mở rộng chúng ta với những cảm nhận và
kinh nghiệm tâm
chúng ta đúng “như nó là”. Thật ra,
thiền định nhằm vào sự
chuyển hóa những
vấn đề khó khăn được
hiệu quả nhất khi nó
bao gồm những cảm nghĩ tốt và sự rộng mở.
Trước tiên,
chúng ta tập trung, sau đó lúc
kết thúc thời khóa
công phu bằng
buông xả và làm một với bất kỳ cái gì
chúng ta đang
kinh nghiệm.
Sau khi học một số những
thiền định truyền thống và bài tập,
chúng ta có thể khéo léo
áp dụng những phương thuốc riêng của mình trong những
vấn đề hàng ngày. Cái
ý niệm “tôi” sẽ
mềm dẻo nhiều hơn ta nghĩ.
Chúng ta có thể thí nghiệm và học cách đùa bỡn hơn, ít
chú tâm vào
viễn cảnh tiền đồ của mình. Chẳng hạn, khi một
vấn đề có vẻ
nghiêm trọng,
chúng ta có thể
tìm thấy sự giảm nhẹ bằng việc
nhận ra một cái gì hài hước trong đó. Hoặc nếu dưới
áp lực của công việc,
chúng ta có thể
cảm thấy thư giãn và thông thoáng hơn. Vì
ngôn từ có
sức mạnh lớn,
chúng ta có thể tự nhủ “áp lực vẫn còn đó, nhưng tôi
cảm thấy hoàn toàn thoải mái.”
Chúng ta có thể
nhận biết hơi thở của mình trong cách thư giãn và chú ý cảm nhận khoảng trống và không khí quanh ta, và trong cách này
chúng ta thực sự ít bị
áp lực và được nhiều khoảng không hơn.
Khi
cảm thấy phiền não quá mạnh, một số người thấy
ích lợi khi
thực hành sự rộng mở hơn là
cố gắng chuyển hóa khó khăn. Hòa nhập vào sự rộng mở rỗng rang sẽ được
thảo luận ở chương
kế tiếp, nhưng nó sẽ không làm
ngạc nhiên bất cứ ai vì cái nguyên lý đàng sau sự tiếp cận này là
buông bỏ tự ngã.
Nếu có người rớt xuống biển mà không biết bơi, người đó sẽ
nắm chặt nước và sẽ chìm như một tảng đá. Một người bơi giỏi vì đã được
rèn luyện, biết cách buông lỏng và hòa nhập làm một với
đại dương bao la.
Tu hành giống
như học bơi và cần có một số hướng dẫn khi bắt đầu.
Tu tâm cũng cùng một cách như vậy, đó là phần còn lại của quyển sách này.
3
BƯỚC KHỞI ĐẦUTrải qua nhiều thế kỷ,
đạo Phật đã phát triển cả một kho
bao la kiến thức về tâm.
Đặc biệt khi
chúng ta bắt đầu học
thiền định, tất cả những đề nghị và
quan niệm có thể làm cho ta
cảm thấy tràn ngập. Tốt nhất là giữ cho sự
thực hành của
chúng ta đơn giản. Hãy đặt những
mục tiêu có
thể đạt đến và
nỗ lực với
năng lực tích cực. Đừng
lo âu về những khó khăn, mà nên
cảm thấy vui thích với bất cứ những
lợi lạc nào xảy đến. Ngay cả những
kinh nghiệm tiêu cực hay những cái gọi là khuyết điểm cũng
lợi lạc nếu
chúng ta nhìn chúng một cách
tích cực.
Khi
thiền định, nên
thoải mái và
buông xả, hơn là
xua đuổi những
lo nghĩ và ước muốn của mình.
Chúng ta thường ngồi để
thiền định, nhưng phần lớn những gì
chúng ta biết từ
thiền định phải được đem vào trong những
sinh hoạt thường ngày.
Ngôn từ là
cần thiết để
diễn tả thiền định như thế nào và đem
thái độ đúng vào cuộc sống của
chúng ta ra sao.
Tuy nhiên, điều quan trọng là
thực hành và cảm nhận, không có sự
quan tâm quá mức về những
ý niệm,
phạm trù hay
quy tắc. Hãy nhẫn nại, rộng mở và làm việc với những gì
đời sống của riêng bạn đem lại cho bạn.
CHỌN ĐỊA ĐIỂMChỗ tốt nhất để
thực hành rèn luyện tâm linh trong việc chữa lành là một nơi
an bình,
thoải mái và ít bị
xao lãng, là chỗ
tâm trí có thể tĩnh lặng và
thân thể dễ chịu, là chỗ ta
cảm thấy tỉnh giác, thông thoáng và
vui thích.
Những nhà
hiền triết thời xưa, đã
ca ngợi nhiều nơi,
tùy thuộc vào
tính cách của
hành giả, sự
thực hành và mùa. Được
ưa thích là những nơi cô tịch có tầm nhìn rộng
trong sáng, như đỉnh núi chọc trời hay giữa cánh đồng phì nhiêu. Một số
hành giả tìm niềm vui trong rừng, giữa cây cối,
động vật hoang dã và chim muông ca hát những khúc hát niềm vui không tuổi tác và chơi đùa không
sợ hãi. Những người khác lại thích
thực hành ở vùng biển với những cơn sóng nhảy múa
liên tục hay một con sông với dòng chảy
tự nhiên, mạnh mẽ. Một số lại chọn những hang động khô ráo trong những thung lũng trống mà
không gian ở đó
an tĩnh tuyệt vời.
Nếu không sống trong cảnh
thiên nhiên như vậy,
chúng ta nên tìm một chỗ
thoải mái trong nhà, sửa soạn thật tốt và
vui thích với nó.
Chọn một căn phòng hay một góc phòng yên tĩnh nhất, ít bị
quấy rối bởi điện thoại, trẻ em, người trong nhà, hay bạn bè. Bấy giờ hãy
cảm thấy tốt : tốt về nơi chốn,
thời gian và cơ hội có được nơi chốn và
thời gian đó. Hãy khởi lên lòng
hoan hỷ với
dịp may này co thể thấu
hiểu ý nghĩa tâm linh của
cuộc đời bạn.
Nói chung, với người mới bắt đầu nên
thực hành một mình, ở một nơi không có những
chướng ngại. Sau khi
đạt được sức mạnh trong
tu tập,
chúng ta có thể tìm những
hoàn cảnh khó khăn hơn, đòi hỏi sự
chịu đựng và kỷ luật nhiều hơn – với những
chướng ngại như người khác
quấy rối hay tiếng ồn của giao thông –
chúng ta sử dụng những gian khó này để làm mạnh mẽ mình.
Cuối cùng, khi sẵn sàng,
chúng ta có thể
thực hành khi ở trong những
hoàn cảnh tồi tệ nhất, với mọi loại
quyến rũ tinh thần và những
cảm xúc hỗn loạn.
Thực hành siêng năng theo cách này,
chúng ta có thể
đối diện và
chuyển hóa bất kỳ
hoàn cảnh nào thành một nguồn
sức mạnh mà không mất đi tâm
an bình của mình.
Chúng ta sống ở bất cứ nơi đâu, nơi đó
trở thành một lâu đài của
giác ngộ và sự
thanh tịnh. Mỗi một
sự kiện sẽ là một lời chỉ dạy. Sau đó, nơi chốn sẽ không còn là
vấn đề, chỉ cần
duy nhất một việc là chọn nơi để ta có thể
phụng sự người khác một cách tốt nhất.
CHỌN THỜI GIANMặc dù bất cứ nơi nào
tu tập cũng tốt, với người mới bắt đầu, sự
an bình và tĩnh lặng là có lợi. Sáng sớm thì tốt vì là ngày mới mẻ và
tâm trí trong sáng.
Tuy nhiên, có một số người
cảm thấy thư giãn và sẵn sàng
thiền định vào buổi chiều. Chọn
thời gian,
tuân thủ đều dặn và hãy
hạnh phúc với
thời gian đó.
Nếu có thể, chớ để cho việc gì làm
phiền nhiễu việc
thực hành đều đặn của bạn.
Bất kể
thiền định hay luyện tập chữa lành,
chúng ta phải
trọn vẹn với chúng.
Chúng ta không nên mơ tưởng đến tương lai và lập
chương trình trong đầu. Không
theo đuổi quá khứ, không bám níu vào
hiện tại. Nhiều loại
tư tưởng hay
kinh nghiệm tâm linh có thể khởi lên trong
thiền định, nhưng thay vì bám chấp, hãy để chúng đến và đi một cách
tự nhiên.
Hãy
thực hành hàng ngày. Thậm chí nếu
chúng ta thiền quán trong một
thời gian ngắn, tính
kiên định sẽ giữ
kinh nghiệm thiền định sống động và
vững chắc nơi
chúng ta trên
con đường chữa lành.
Chúng ta nên
thiền định bao lâu ?
Tâm thức bạn là người chữa lành, vậy câu
trả lời tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng của bạn. Có thể trong vài phút, hai mươi phút hay một giờ. Bạn có thể
thiền định trong nhiều giờ, với những khoảng
thời gian nghỉ,
trong suốt một
thời gian dài. Không nên
quan tâm thời gian quá đáng, mà nên
cảm thấy điều gì là đúng.
Khi
chúng ta hạnh phúc, khỏe mạnh và không có những
vấn đề bận tâm, đây là điều thật tốt cho sự
thực hành. Do vậy, khi đối mặt với
đau khổ,
chắc chắn sẽ xảy đến,
chúng ta sẽ có những
phương tiện thiện xảo sẵn sàng
sử dụng. Không may, nhiều người trong
chúng ta phải cần
trải qua đau khổ mới có thể
chuyển hóa tâm thức đến những
giải quyết tâm linh. Khi ở trong sự
bối rối và
đau khổ,
chúng ta có ít cơ hội,
năng lực và
sáng suốt để
tu tập. Ngài Dodrupchen khuyên :
Khi
chúng ta thực sự mặt đối mặt với những tình huống khó khăn thật rất khó cho ta
thực hành việc chữa lành. Do đó, thật quan trọng nếu có những
kinh nghiệm từ những
tu tập tâm linh, để khi những
hoàn cảnh bất lợi phát sinh,
chúng ta đã sẵn sàng. Có một sự khác biệt lớn nếu
chúng ta sử dụng một sự
tu tập mà mình đã có
kinh nghiệm trong đó.
TƯ THẾ
Mục tiêu thiết yếu của bất cứ loại tư thế
thiền định nào là để thư giãn những bắp thịt và khai mở những kinh mạch trong thân để cho
năng lực và
hơi thở trôi chảy tự nhiên qua chúng. Bất kỳ tư thế nào làm
thân thể được thẳng và
thoải mái, không gồng cứng, sẽ phát sinh sự
trôi chảy tự nhiên của
năng lực giúp
tâm trí tĩnh lặng và
sinh động.
Mục đích của những tư thế của thân được giản lược trong câu nói
phổ thông của
Tây Tạng :
Nếu thân bạn thẳng, những kinh mạch của bạn sẽ thẳng.
Nếu những kinh mạch của bạn thẳng, tâm bạn sẽ thẳng.
Một trong những tư thế
thiền định của
đạo Phật được nhiều người biết đến nhất là thế
Hoa Sen (
kiết già), người ta
ngồi xếp bằng, chân phải đặt lên đùi trái và chân trái đặt lên đùi phải.
Đa số người phương Tây thích ngồi bán già vì dễ hơn, với một mắt cá chân đặt lên nếp gấp của chân
đối diện (háng). Nếu ngồi trên một đệm nhỏ, nửa thân trên hơi vươn lên một chút để có sự rỗng rang và buông lỏng.
Hai bàn tay đặt trong lòng (dưới rốn một chút), lòng bàn tay ngửa lên, tay phải đặt trên tay
trái với hai đầu ngón cái chạm nhau. Hai khuỷu tay cách thân trong thế
tự nhiên giống như cái cánh, không gồng cứng hay ép vào thân, cằm hơi hạ xuống để cổ hơi cúi, giúp mắt có thể nhìn rõ phía trước khoảng một đến hai mét, ngay chóp mũi, đầu lưỡi chạm nhẹ lên vòm miệng.
Yếu tố quan trọng nhất là giữ xương sống thẳng.
Một số người có những
vấn đề ở lưng nên rất khó ngồi theo kiểu này. Bạn có thể ngồi trên ghế để
thiền định, nhưng phải chắc rằng giữ được xương sống thẳng thay vì khom xuống. Dù chọn bất cứ tư thế nào điều
cần thiết là
thoải mái.
Bản thân Đức Phật, sau nhiều năm
kinh nghiệm tu hành khổ hạnh đã
từ bỏ sự
hành xác. Bạn phải được đầy đủ
thoải mái để tâm trí có thể buông lỏng và dễ tập trung.
Tư thế ngồi để
thiền định là tốt nhất, nhưng tâm
chúng ta thật sự có khả năng chữa lành dù bất cứ đâu và ở bất kỳ
hoàn cảnh nào,
chừng nào mà chúng ta còn tỉnh biết.
SỰ BUÔNG LỎNG
Để
thoát khỏi những
gắng sức đấu tranh của
tâm thức – những
áp lực của
ý niệm và
cảm xúc bám chặt
chúng ta – khi
thiền định,
chúng ta phải buông lỏng các bắp thịt. Nếu sự
căng thẳng tập họp ở
đâu đó trong những bắp thịt hãy đưa
tỉnh giác đến vùng đó và cởi mở sự siết chặt. Sự buông lỏng đem lại một tâm trạng tĩnh lặng, trong đó ta có thể thắp lên ngọn nến của
năng lực chữa lành. Tuy vậy, sự buông lỏng không có nghĩa buông thả trong lười biếng,
vô ý,
nửa tỉnh nửa mê hay giấc ngủ. Có những lúc ta cần nghỉ và ngủ, nhưng
sự thiền định
hiệu quả nhất là với sự
tỉnh thức, linh mẫn và
trong sáng. Đây là cách để
tiếp xúc với
bản tánh an bình,
hoan hỷ của
chúng ta.
Hãy để cho bạn
buông xả trong sự chuyển dịch từ
thiền định trở lại với hàng ngày. Hãy
thức dậy chậm rãi và thư giãn tâm trong nhữnh
hoạt động của bạn. Theo cách này bạn đem một
tâm thức trống rộng vào cuộc sống của bạn.
TẠO KHOẢNG KHÔNG TÂM THỨCMột số trong
chúng ta hoàn toàn hiến mình cho điều
chúng ta làm.
Chúng ta đem những
vấn đề của công việc về nhà,
vì vậy không có cơ hội hưởng thụ cuộc sống
gia đình. Sau đó, lại đem những
vấn đề ở nhà đến nơi làm việc, nên không thể
tận tâm với công việc. Trong lúc
thiền định,
chúng ta để
hình ảnh và
cảm giác mơn trớn tinh thần khiến không có cơ hội để tập trung.
Rốt cuộc,
chúng ta không có
đời sống nào để sống vì ta luôn ở trong
quá khứ hoặc tương lai.
Nếu để đồ đạc trong nhà
bừa bãi và nhiều quá,
chúng ta không còn chỗ để sống. Nếu
tâm trí đầy những
chương trình, những bận tâm, những
tư tưởng, những
cảm xúc,
chúng ta không còn khoảng trống cho chính cái thật sự là
chúng ta.
Nhiều người
cảm thấy cuộc sống họ quá
hỗn độn để
thiền định, thậm chí khi họ có
thời gian ở nhà để tập thiền họ vẫn
cảm thấy bị
xao lãng. Để đem tất cả sự
chú tâm và
năng lực trong cuộc sống
gia đình và
thiền định,
chúng ta cần khoảng
không tâm thức.
Chúng ta có thể tạo ra khoảng không cho mình một cách có
ý thức.
Quyết định gạt bỏ những
lo nghĩ về công việc lại đàng sau.
Nếu có thể được, hãy
hình dung những
lo nghĩ đó dưới dạng giấy tờ hay trong máy vi tính được cất giữ
an toàn trong
văn phòng. Ngay cả việc
hình dung ra
ranh giới phân chia công việc và cuộc sống ở nhà. Hay
chúng ta có thể tạo ra một lều
bảo vệ bằng
năng lực hay ánh sáng trong tâm ta bao quanh
chúng ta trong nhà làm cho
chúng ta hoàn toàn riêng biệt với chuyện
chúng ta đang làm.
Thiền định có thể là một nơi chốn
ấm cúng và trống trải, nhưng
chúng ta có thể
cảm thấy sự cưỡng
chống lại thiền định hay nghĩ
thiền định là việc vặt hàng ngày. Một cách để tạo
cảm giác rộng mở và
thoải mái là
trở về không gian lúc ta còn bé.
Từ lúc còn trẻ thơ,
chúng ta đã
học hỏi và
kinh nghiệm một số việc lạ lùng trong
thế gian phong phú này. Tuy vậy cũng thật dễ nhiễm
thói quen sống
điên cuồng hiện nay.
Chúng ta giống như con tằm nhả tơ tự trói mình, tiến đến giai đoạn tự làm ngộp mình với những cách nhìn,
cảm giác,
thói quen và
phản ứng của riêng chúng ta.
Hồi tưởng lại lúc còn bé, một ngày kéo dài như một tháng của
chúng ta bây giờ, một năm kéo dài
như không có ngày cuối.
Dần dần tri giác của
chúng ta thay đổi, những
lo lắng bận rộn,
ý niệm, bám chấp của
chúng ta tăng dần ngày này qua ngày khác. Giờ đây, khoảng không rộng mở không còn trong
tâm trí ta nữa. Khi lớn lên, ta
cảm thấy thời gian trở nên ngắn hơn và ngắn hơn nữa, và một năm
trôi qua trong chớp mắt. Đó không phải là
thời gian ngắn đi, mà vì ta không có khoảng trống trong
tâm thức để cảm nhận sự rộng mở và
tự do.
Chúng ta thường chạy lòng vòng hết tốc độ và làm dầy đặc
tâm trí mình với những
tư tưởng,
ý niệm và
cảm xúc. Khi
tâm thức tĩnh lặng, ta
cảm thấy thời gian từng phút một, nhưng nếu
tâm trí theo đuổi bất cứ việc gì xảy quanh ta,
chúng ta cảm thấy ngày đã hết thậm chí trước khi nó thực sự bắt đầu.
Tiếp xúc với những hồi ức lúc còn bé có thể giúp ta rộng mở hơn. Khi
thiền định, hãy nhớ lại lúc còn bé và có ít
lo nghĩ,
đam mê hay
căng thẳng. Việc nhớ
chính xác không quan trọng bằng việc cảm nhận khoảng không và
tự do. Hơn là đứng ngoài sự nhớ lại mà chỉ
suy gẫm về nó, hãy để cảm nhận trải rộng và
thể nhập vào nó. Hãy
kinh nghiệm việc cảm nhận này và
an trú trong nó, không có những niệm tưởng khác. Hãy cảm nhận và hòa nhập vào chính bạn lúc còn bé.
Quá khứ và
hiện tại, đứa trẻ và “tôi”, tất cả là một trong sự hợp nhất trống trải. Hãy
tham thiền và nghỉ ngơi trong
cảm giác rộng mở này nhiều lần.
Cuối cùng, đem cảm nhận này vào khoảnh khắc
hiện tại của cuộc sống bạn.
Nếu có những
kinh nghiệm xấu lúc còn bé đến với bạn thay vì những
cảm giác an bình và trống trải, bấy giờ bạn có thể dùng cách tiếp cận được phác thảo ở sau trong những bài tập chữa lành để thanh lọc,
nuôi dưỡng và chữa lành những
hình ảnh bị thương tổn và
quán tưởng đứa bé bên trong của bạn trở nên
hạnh phúc,
mạnh khỏe và
hoan hỷ.
Chúng ta có
thể đạt được
cảm giác về khoảng không này bất cứ lúc nào : chẳng hạn, nếu
chúng ta có khó khăn,
chúng ta ngồi thiền, hoặc bất kỳ lúc nào
chúng ta muốn đem
cảm giác tự do hay
hoan hỷ vào cuộc sống. Để hòa nhập với đứa bé trong ta, có thể
thưởng thức những
hoạt động trẻ thơ như trò chơi nhảy bao, tung hứng... hoặc
thưởng ngoạn cây cối,
hoa quả, sông nước hay những vẻ đẹp của
thiên nhiên.
Chúng ta có thể ngắm sao trên bầu trời và
thưởng thức không khí ban đêm, đem
cảm giác này vào giây phút
hiện tại. Làm như vậy giúp ta quên đi những
lo nghĩ trong một lúc và hòa nhập vào trong
bào thai của tuổi bé thơ
một lần nữa.
Dùng
thời gian trong sự cô tịch với
thiên nhiên,
đặc biệt như đứng trên một đỉnh núi nhìn khoảng
không gian vô tận của bầu trời sẽ giúp việc tạo khoảng không trong
tâm thức. Nhưng cách
hiệu quả nhất để mở ra
không gian an bình trong
tâm trí là
thiền định. Thay vì nhồi nhét vào
tâm trí bằng những cảm nhận và
quan niệm tiêu cực, nếu
chúng ta có thể
trở về với
bản tánh như bầu trời của tâm,
an bình và
trí huệ bấy giờ có thể khởi hiện.
THỞ
Trong bất kỳ loại
thiền định nào, việc quan trọng là thở một cách
tự nhiên và
bình an. Nhìn ngắm
hơi thở, sự
tỉnh giác của
tâm thức về
hơi thở ra, vào, tự nó là nền tảng cho sự
nhận ra thật tánh. Nhiều thiền giả có
kinh nghiệm cao dùng
phương pháp này như là
phương tiện để
chứng ngộ vô ngã. Dù rằng trong bài tập chữa lành của ta không
quan tâm đến việc
vượt qua ý niệm về
bản ngã,
nhận biết hơi thở có thể rất
ích lợi cho những
mục đích khác. Ví dụ, nó là một cách tốt để
chúng ta tự
an bình, tập
trung tâm trí và
thiết lập dòng
năng lực chữa lành để
tiến bộ.
Vào
lúc đầu, có thể bạn thấy khó tập trung
hoàn toàn vào sự việc
đơn giản là
hơi thở ra, vào. Bạn có thể bị sốc khi thấy
tâm thức hoạt động quá nhanh. Chớ có
lo nghĩ về niệm tưởng hay
hình ảnh đến và đi. Đem
nhận thức của mình nhẹ nhàng
trở lại hơi thở và hãy
tỉnh giác hoàn toàn vào việc
nhận biết hơi thở. Chỉ bằng cách
để tâm thức
tiếp xúc và
kết hợp với quá trình thở
tự nhiên,
chúng ta có thể
thoát khỏi căng thẳng và
cảm thấy thư giãn hơn.
Vì sự quan trọng trong việc
thực hành thiền định cao hơn,
sự quán sát
hơi thở sẽ được
bàn luận nhiều
chi tiết hơn trong chương 12. Và bây giờ hãy xem việc dùng
sự quán sát
hơi thở như
bước đầu với bất cứ bài tập chữa lành nào.
Tỉnh giác về
hơi thở cũng là một
phương pháp rất mạnh để
thoát khỏi bất cứ
cảm xúc khó khăn nào giữ chặt
chúng ta như một tật xấu.
Chúng ta sẽ thấy trong những bài tập chữa lành, một kỹ thuật
đặc biệt hữu ích là tập trung vào những
hơi thở ra được buông lỏng. Trong cách này, việc bám chấp được
buông xả.
QUÁN TƯỞNGMột trong những công cụ tốt nhất của chữa lành là
quán tưởng, nó có thể
chuyển hóa những khuôn
khổ tâm thức của
chúng ta từ
tiêu cực thành tích cực. Một số người mới bắt đầu
thiền định cho rằng việc
quán tưởng là khó khăn hay nó là những
hoạt động tinh thần không
thông dụng. Thật ra, điều này
hoàn toàn tự nhiên vì
chúng ta suy nghĩ qua
hình ảnh mọi lúc. Khi nghĩ về bạn bè hay
gia đình hoặc
hình dung mình đang ở trên một bãi biển đẹp, một cái hồ trên núi,
chúng ta thấy những
hình ảnh này trong
tâm thức hoàn toàn sống động. Trong
thiền định,
chúng ta quán tưởng vì một
mục tiêu đặc biệt, nhưng quá trình
tâm thức bình thường cũng giống như vậy. Với
thực hành chúng ta sẽ
đạt được tốt đẹp hơn.
Mặc dù,
sự quán tưởng có một
thừa kế lâu dài trong
thực hành của
đạo Phật Tây Tạng, người không biết hay không
quan tâm đến
Phật giáo cũng
tìm ra kỹ thuật cực kỳ
ích lợi. Chẳng hạn, một số
vận động viên chuyên nghiệp
quán tưởng việc
cải thiện thành tích của họ, đã
nhận ra tiềm năng đầy đủ của họ.
Những
hình ảnh tích cực gây
cảm hứng cho
mọi người trong tất cả
các loại hoạt động. Tôi biết một cô giáo dạy nhạc ở Boston đã
vượt qua giai đoạn
sợ hãi bằng việc dùng
ứng biến của mình. Dù đã được
đào tạo và có một giọng ca
phong phú, cô vẫn sợ vì mình là người hát chính hàng tuần trong ca đoàn ở nhà thờ địa phương. Trước lễ Sabbath cô đã khóc
dữ dội, đến nỗi
đột nhiên cô
nhận ra sự
sợ hãi đã
phá hoại cô như thế nào.
Vì vậy, thay vì sợ cô chuẩn bị cho tâm
vui thích với chính cô. Để tự giúp mình làm điều đó, cô
ngồi yên lặng và tưởng tượng mình đang hướng dẫn buổi
cầu nguyện được
thành công, hát thật tốt, không
lo nghĩ quá đáng vào giai điệu vốn rất khó trong biểu diễn. Cô tưởng tượng mình rất tự tin vào khả năng hát. Trong
tâm thức cô nghe
âm thanh tuyệt vời của giọng hát mình, tạo nên sự
thích thú cho
chúng hội. Cô
hình dung toàn cảnh công việc,
cầu nguyện và
cảm thấy một cảm thức
thương yêu, lan tỏa của niềm vui
cảm hứng có thể
chia xẻ âm nhạc với
mọi người.
Bây giờ cô
hạnh phúc trong việc ca hát của mình và không còn
phiền toái nếu còn thấy một ít khích
động trước lúc biểu diễn. Trong lớp học, cô đề nghị học trò có thể dùng trí tưởng tượng của mình để biết cách làm thế nào được
thoải mái và đem niềm vui vào trong việc ca hát của họ.
Trong
thiền định, tốt nhất nên
mở mắt hay mở một phần, để có thể
tỉnh thức trong
thế gian này. Tuy vậy, với người mới bắt đầu,
thoạt tiên có thể nhắm mắt lại. Điểm quan trọng nhất trong
quán tưởng là gợi lên
hình ảnh tích cực với sự toàn tâm nhiệt tình. Hãy
chú tâm trọn vẹn vào đối tượng của
tâm thức, trở nên
hoàn toàn thể nhập vào nó. Hãy
để tâm và đối tượng hòa nhập làm một. Nếu
chúng ta thấy
hình ảnh trong tâm
lợi lạc hoặc bị
xao lãng, đó là sự tập trung của
chúng ta bị
hạn chế. Thế là
chúng ta chỉ nhìn đối tượng bằng mắt một cách trống không, thay vì bằng
toàn thể con người. Tsong Khapa, người
sáng lập phái Gelug của
đạo Phật Tây Tạng đã viết : “Đạo sư Yeshe De đã đúng khi phủ nhận cách
thiền định của một số người bằng cách nhìn bằng mắt
hình ảnh trước mặt họ mà với sự trống trơn. ‘An trú trong thiền’ phải phát triển trong tâm, không phải ở nơi những
giác quan như con mắt.”
Đặc biệt với người mới bắt đầu, điều
then chốt là
cảm thấy sự
hiện diện của cái mình đang
hình dung.
Sự quán tưởng của bạn không
cần phải mô tả tỉ mỉ từng
chi tiết, mà
vấn đề là sự
trong sáng và ổn định của
hình ảnh quán tưởng trong tâm.
SỰ TẬP TRUNGVới bất
cứ sự tu tập tâm linh hay
hoạt động tinh thần nào,
chúng ta cần phải tập trung. Biết cách tập trung làm
tâm thức chúng ta mạnh mẽ,
trong sáng và tĩnh lặng. Sự tập trung
bảo vệ trí huệ bên trong của
chúng ta, giống như ngọn lửa nến được chắn gió.
Với
đạo Phật, việc tập trung trên một đối tượng với
ý nghĩa tâm linh sẽ phát sinh
năng lực tích cực, những
ban phước và nghiệp thiện.
Tuy nhiên chúng ta có thể
tu tập tâm trí để tập trung bằng việc
thực hành một cách
đức hạnh trên bất cứ việc gì, hoặc là đối tượng thuộc
vật chất hay
hình ảnh tâm thức mà không kể nó có
ý nghĩa tâm linh hay không.
Tu tập Phật giáo để làm mạnh sự tập trung gồm hai
phương pháp : bên trong và bên ngoài.
Phương pháp bên trong là tập trung trên
thân thể mình, chẳng hạn nhìn thân mình dưới dạng bổn tôn hay một thân bằng xương thịt.
Chúng ta cũng có thể
chú tâm trên những
yếu tố của thân như
hơi thở, hay với một thân dưới dạng
thanh tịnh như ánh sáng hay
hỷ lạc.
Phương pháp bên ngoài là tập trung trên những
hình tượng, cõi “tịnh độ” của Phật, hay những
quán tưởng khác.
Nếu
chúng ta không tập
trung tâm trí, cho dù
thực hành nhiều năm cũng chỉ mang lại một ít
nội quán, dù cho có những
phước đức của
tinh tấn. Ngài Shantideva nhắc
chúng ta :
Đức Phật, Người đã thấu rõ
chân lý đã nói :
“Mọi
tụng niệm và
tu hành khổ hạnhDù con
thực hành trong một
thời gian dài,
Nếu con làm chúng với một tâm lang thang,
Sẽ mang lại ít kết quả.”
Bước đầu trong việc phát triển sự tập trung là đem tâm
lộn xộn không ngưng nghỉ
trở lại thực tế. Trong những bài tập chữa lành được
giới thiệu sau này,
chúng ta sẽ thấy một số kỹ thuật để tập
trung tâm thức phân tán hầu có thể
cải thiện khả năng
thiền định cũng như
quan điểm cảm tính của mình.
Một khi
chúng ta cảm thấy được đặt nền về mặt
tâm thức chúng ta có thể tập trung sâu hơn. Đôi khi những thiền giả có
kinh nghiệm thực hành mài dũa sự tập trung của họ bằng cách
quán tưởng một ống dài và hẹp rồi dùng trí tưởng tượng nhìn
xuyên qua nó. Có những bài tập
tâm thức khác
liên quan đến việc tập trung vào một điểm nhỏ thay vì một
hình ảnh lớn.
Nếu
chúng ta cần
tiếp tục tập trung,
đánh thức tâm hay làm cho sắc bén các
giác quan,
chúng ta phải
chú tâm vào việc phát triển kỷ luật
tâm thức.
Tuy nhiên, tâm ta thường quá
phân biệt và
nhạy cảm. Nếu
cảm thấy tâm trí bị đè nén hay
mắc kẹt, tốt
nhất không nên tự ép mình phải tập trung. Những người
cảm thấy bị
đè nặng bởi
căng thẳng và
lo nghĩ có thể thấy rất sự
dễ chịu bằng việc
mở rộng tỉnh giác của họ thay vì
chú tâm theo một kiểu tập trung.
SỰ RỘNG MỞMột cách phá tan
cảm giác dầy đặc của
cảm xúc là đến một vùng cao để có thể nhìn xa như trên đỉnh núi hay nóc nhà cao. Nếu bầu trời
trong sáng, bạn ngồi quay lưng về phía
mặt trời, tập trung vào chiều sâu của bầu trời rộng mở mà không
di động mắt.
Thở ra thật chậm và thể nghiệm sự rộng mở,
bao la và cái trống không.
Cảm nhận
toàn thể vũ trụ trở thành một trong sự rỗng rang
bao la. Hãy nghĩ rằng mọi
hiện tượng – cây cối, đồi núi, sông ngòi – hòa tan
tự nhiên vào bầu trời rộng mở. Thân và tâm ta cũng hòa tan vào đó. Tất cả đều tan biến giống như mây tan trong bầu trời. Thư giãn trong
cảm giác rộng mở,
thoát khỏi những
ranh giới và
hạn chế. Bài tập này không những
hiệu quả cho tâm được tĩnh lặng mà còn có thể phát sinh sự
chứng ngộ cao hơn.
Nếu bạn không thể đến một nơi như thế, hãy chọn bất kỳ nơi nào có thể nhìn lên bầu trời được tốt hoặc
tối thiểu có thể
quán tưởng được bầu trời
mở rộng.
HÒA NHẬP VÀO NHẤT THỂHòa nhập với
nhất thể nghĩa là
trở thành một với bất cứ những gì ta đang
kinh nghiệm. Đôi lúc nó giúp ích trong lúc bắt đầu bằng cách
mô tả bằng lời : chẳng hạn, giống như một người bơi lội hòa nhập làm một với
đại dương mênh mông. Nhưng thật ra,
từ ngữ không
cần thiết cho
kinh nghiệm về
nhất thể và rỗng rang.
Chúng ta chỉ
đơn giản buông bỏ những cuộc chiến đấu của
chúng ta và
buông bỏ nhu cầu đặt tên như “xấu” hay “tốt” trên
kinh nghiệm, và thay vào đó hãy để
chúng ta hiện diện với
cảm giác hay
đi vào trong nó. Bằng cách hòa nhập với những
kinh nghiệm hay
cảm giác,
tính chất của
kinh nghiệm có thể thay đổi. Bằng cách để cho
chúng ta hiện hữu như
chúng ta thực là trong khoảnh khắc
hiện tại, những bức tường
phân biệt và
cảm giác của
chúng ta sẽ mềm đi hay cùng nhau tan biến.
Tâm thức và trái tim ta rộng mở, và
năng lực của
chúng ta tuôn chảy. Đó là một sự chữa lành đầy
năng lực.
TỈNH THỨCHọc
cách sống trong khoảnh khắc
hiện tại là một
thiện xảo vĩ đại và mạnh mẽ giúp
chúng ta trong
mọi việc chúng ta làm. “Hiện hữu ở đây và bây giờ”,
buông xả trong bất cứ việc gì ta làm chính là sống và khỏe mạnh. Trong
đạo Phật,
tỉnh giác nhận biết cái đang xảy ra ngay lúc này, gọi là
chánh niệm tỉnh thức.
Trong đời sống hàng ngày,
tỉnh thức là một
tâm cảnh giác
nhận biết mọi khía cạnh đang
diễn tiến, cái gì cần làm mà không bị phân tán. Trong
thiền định, tâm
tỉnh thức là trao
trọn vẹn chính
chúng ta cho
hơi thở của mình, hay cho bất cứ bài tập nào.
Tỉnh thức là
chú tâm trọn vẹn vào
hiện tại, không
lo nghĩ về
quá khứ hay tương lai. Thường thì,
chúng ta mượn
phiền não từ tương lai bằng cách
suy nghĩ liên tục về những gì ngày mai sẽ xảy đến với
chúng ta, thay vì ứng xử với một ngày
trọn vẹn.
Trong
đạo Phật sự
nhấn mạnh là ở vào khoảnh khắc
hiện tiền này.
Chúng ta có thể hướng dẫn
tâm thức chúng ta sống trong
hiện tại. Để làm điều này,
chúng ta cần
xây dựng vững chắc một
thói quen chú tâm hoàn toàn vào những gì ta đang làm bây giờ. Với mỗi công việc,
chúng ta phải
quyết định một cách có
ý thức không để cho những
ý tưởng, cảm nghĩ, và
hoạt động khác
xen vào, và đặt
chúng ta vào cái mà ta đang làm.
Trở nên
tỉnh thức không có nghĩa là trở nên
căng thẳng xúc động hay khuấy động
vô số ý niệm để nhìn ngắm cái
chúng ta nghĩ hoặc làm.
Trái lại, tâm được
buông xả và bình lặng, và do đó
tâm thức nhận biết sắc bén mỗi một
sự kiện như nó là, không có sự
vật lộn của xúc cảm và
ý niệm.
Tuy nhiên, khi
chúng ta thấy
tâm trí mình đi rông, phải nhẹ nhàng và
vững chắc đem tâm về
hiện tại, về cái
chúng ta đang làm. Phần lớn
chúng ta, nhất là trong lúc bắt đầu, cần lập đi lập lại điều này. Như Ngài Shantideva đã nói :
Khảo sát trở đi
trở lạiMỗi khía cạnh những
hoạt động thân và tâm,
Tóm lại, đó thực sự là cách
tỉnh thức quan sát.
Dù
chúng ta đã được dạy về
thiền định hay
tu tâm,
chúng ta cũng cần
chánh niệm và tỉnh giác,
nếu không tâm chạy rông như thú hoang, không thể giữ sự
chú tâm hay an nghỉ thậm chí trong vài phút.
Lúc ấy chúng ta sẽ được gì từ việc chỉ có thể xác
tham gia thiền định ? Sự
tỉnh giác là sự sống nên Ngài Shantideva
yêu cầu :
Tôi
chắp tay cầu xinNhững ai muốn
bảo hộ tâm mình
Hãy
giữ gìn chánh niệm và tỉnh giácThậm chí bằng cả cái giá của cuộc sống mình.
Quả của sự
tỉnh thức là sự
bảo vệ, nó giúp đỡ ta trong mọi
rối loạn và khó khăn. Theo Ngài Shantideva :
Như vậy, tôi phải nắm giữ và
bảo vệTâm tôi một cách
thích hợpKhông có kỷ luật
bảo vệ tâm tôi
Vậy còn ích gì các
giới luật khác ?
Nếu tôi ở giữa một đám đông
rối loạn không
kiểm soátTôi phải
cảnh giác và
cẩn thận để khỏi bị đụng vào những vết thương của tôi.
Tương tự, trong lúc tôi sống giữa những người
không giới luật
Tôi phải
bảo vệ tâm mình khỏi bị đụng vào những vết thương của nó.
Với sự
chánh niệm và tỉnh giác,
chúng ta học
nhẫn nhục hay hành động khi
hoàn cảnh đòi hỏi.
Nhẫn nhục trở thành năng lượng chuyển hóa. Ngài Shantideva nói :
Khi bạn muốn
cử động hay nóiTrước tiên khảo
sát tâm mình
Sau đó, với sự an vững, hãy hành động theo cách
thích đáng.
Khi
cảm thấy tham dục,
sân hận trong tâm
Không nên nói hay làm, mà hãy ở yên như một khúc củi.
Sự
thực hành tỉnh giác không nên thành ra
căng thẳng. Nếu có, chỉ là dấu hiệu ta
quá cố gắng, rằng
chúng ta đang bám chấp vào chính sự
tỉnh thức, ta cần
buông xả một ít và ít tự
ý thức lại.
Thượng Tọa Rahula viết :
Chánh niệm hay
tỉnh giác không có nghĩa rằng bạn cần nghĩ hay
ý thức “Tôi đang làm cái này” hay “Tôi đang làm cái kia.” Không. Chính là ngược lại. Phút giây bạn nghĩ “Tôi đang làm cái này”, bạn
trở thành ý thức của tự ngã, và rồi bạn không sống trong hành động mà bạn sống trong
ý niệm “Tôi là” và kết quả là công việc của bạn bị ung thối. Bạn phải
hoàn toàn quên chính bạn và mất chính bạn trong cái bạn làm.
Bằng cách ở trong một cách thế buông lỏng và trống không,
chúng ta sống trong dòng
tự nhiên của
chánh niệm và tỉnh giác. Tâm ta
trở thành vững vàng hơn, thay vì bị đứt đoạn
liên tục thành những
tư tưởng phân tán và đuổi bắt
điên cuồng quá khứ hay tương lai. Sau một lúc, sự tập trung sẽ được
cải thiện và
chúng ta thấy dễ
thiền định hơn. Học cách làm thế nào để hưởng thụ và
hiện hữu trong khoảnh khắc
hiện tiền sẽ dẫn đến sự rỗng rang và
thời gian phi thời gian. Bằng sự
tỉnh thức,
chúng ta tìm thấy an vui trong chính mình.
THÁI ĐỘ GIÁC NGỘ (BỒ ĐỀ TÂM)Trong
Phật giáo Đại thừa,
thực hành tâm linh được
hoàn thiện qua
tâm bi.
Chúng ta phải phát triển
thái độ “Tôi làm việc
tu tập tâm linh này cho sự
phục vụ,
hạnh phúc,
lợi lạc và
giác ngộ của tất cả chúng sanh” hoặc “Tôi
tu hành để tạo mình
thành công cụ
phục vụ cho
lợi ích, nhu cầu của tất cả
chúng sanh.” Trong
kinh điển, điều này gọi là
thái độ giác ngộ hay
Bồ đề tâm.
Ý định hiến dâng sự
tu tập của
chúng ta cho những người khác là một việc đầy
năng lực để
mở rộng tâm hạn hẹp, đóng kín của ta. Nó tạo ra một
năng lực tâm linh mạnh mẽ – một sự
ban phước – và gieo
hạt giống giác ngộ trong
chúng ta. Nếu
chúng ta phát triển và
duy trì “tâm giác ngộ” này, bất cứ
chúng ta làm gì
tự nhiên sẽ
trở thành sự
tu tập tâm linh, thành
phương tiện tạo
lợi ích cho tất cả. Ngay cả những ai không
tôn giáo, sẽ rất
ích lợi để
suy nghĩ về
liên hệ với
gia đình, bạn bè,
cộng đồng của họ và tất cả
mọi người ở
mọi nơi, thay vì chỉ
theo đuổi việc
tu tập chỉ vì
mục tiêu ích kỷ cá nhân mình.
Trải rộng
tâm bi có thể khó khăn, và
chúng ta có thể bị
lệ thuộc vào những
thái độ và
cảm xúc tiêu cực.
Tuy nhiên,
quyết tâm tự nó là điều quan trọng. Bằng sự phát triển
tâm bi, dòng
công đức sẽ
trôi chảy cả ngày lẫn đêm, dẫn dắt
chúng ta đến chỗ
hoàn toàn chứng ngộ thật tánh của mình. Ngài Shantideva nói :
Ngay từ lúc
Phát triển
trọn vẹn một
thái độ như vậy,
Cho dù bạn ngủ hay
không chú tâmSức mạnh của
công đức sẽ
gia tăng không ngừng.
Khi một tâm như thế đã phát triển trong
chúng ta, ta phải
nhận ra và xiển dương để làm
gia tăng sức mạnh và
năng lực của nó lên cực đại. Ngài Shantideva
công bố :
Hôm nay, cuộc sống tôi kết trái,
Và đã
hoàn thành tốt cái của
đời người.
Hôm nay, tôi được sinh trong
gia đình chư Phật,
Và giờ đây, tôi là một trong những cháu con của Chư Phật.
4
PHÁT TRIỂN NIỀM TINNiềm tin là đồng minh tốt nhất của
chúng ta, giúp ta biết cách
tu tâm và khai mở những
sức mạnh của
chúng ta.
Chúng ta cần tin vào chính mình và
con đường mình
theo đuổi. Nếu
chúng ta không có
lòng tin, thì thậm
chí tâm nửa vời của ta cũng chẳng làm nổi một cái bánh nướng
dở dang.
Một số
chúng ta thiếu tự tin.
Chúng ta cảm thấy không
hy vọng và không đầy đủ – quá
yếu đuối để phấn đấu cho
mục đích cao hơn. Thiếu tự tin có thể là kết quả của
đặc tính tinh thần hay
sự giáo dục. Nếu là do
đặc tính tinh thần, điều này khó thay đổi, nhưng nếu do sự dạy dỗ, làm chậm việc phát triển của
chúng ta, thì nó không khó để thay đổi và
tăng trưởng.
Chướng ngại chung cho những
lợi lạc của những chỉ dạy là
thái độ tội lỗi. Nền
văn minh hiện đại đã đem lại cho
chúng ta những
thuận lợi nổi bật, nhưng hình như nhiều người,
đặc biệt trong
xã hội cạnh tranh, có
cảm giác phạm tội và không
giá trị. Một số trong
chúng ta có thể nói : “Tôi không xứng đáng được
hạnh phúc, cái ấy phải để cho người khác, những người
may mắn hơn” hoặc “Công việc này dành cho người khác, không phải cho tôi” hay “Thật không tốt khi tôi trải nghiệm
an bình trong khi nhiều người khác phải đấu tranh.”
Nếu
chúng ta thành thật lo nghĩ về sự
ích kỷ,
chúng ta đáng được khen vì
thái độ tuyệt vời này. Nếu
chúng ta tôn trọng và chăm sóc người khác hơn
bản thân mình, đó là
cốt lõi của việc
thực hành đạo Phật, và một
thái độ như vậy
tự nhiên giúp
chúng ta nhiều
sức mạnh và rộng mở. Nhưng phần lớn những
cảm giác tội lỗi ấy chỉ
che đậy cho sự không
an toàn của mình, một dạng khác của sự
chấp ngã, một sự bào chữa cho việc không
cố gắng cải thiện cuộc sống của
chúng ta.
Cảm thấy không
giá trị và
chống lại hạnh phúc và
an bình thì
phi lý như nói, “Vì tôi đói, tôi không muốn ăn.”
Một
lý do khiến
chúng ta thiếu tự tin là không khí
cạnh tranh chung quanh mình. Bắt đầu ở
mẫu giáo, nhiều đứa bé
xây dựng thói quen cảm thấy chúng không đủ tốt, vì trong lớp có bạn nào
tốt hơn thì được cho phần thưởng. Trở nên tốt nhất là hàng hóa
giá trị cao trong
thế giới hiện đại.
Trẻ em bị người lớn
la mắng với sự
buộc tội và khiển trách, chúng
cảm thấy bị
áp lực lớn về
tâm lý và
tội lỗi. Một số
cha mẹ khiển trách con cái vì không làm được việc, và thậm chí khi họ khuyến khích, vẫn chỉ là một dạng
áp lực nếu không cho chúng một
tình thương vô
điều kiện.
Bất cứ những
nguyên nhân nào gây ra
cảm giác vô giá trị, phương
thuốc mạnh mẽ là ở trong sự thấu biết rằng
chúng ta toàn thiện trong
thật tánh của mình. Nếu hiểu điều này, sự tự tin và
sung mãn sẽ
phát khởi tự nhiên trong
chúng ta. Cốt yếu cần
nhận ra sự quan trọng của việc
hiểu biết này,
tối thiểu trên mức độ khái niệm. Sau đó, nếu
chúng ta có bất cứ phẩm tính tốt nào trong cuộc sống, cho dù nhỏ,
chúng ta phải tự
tu tập để
nhận ra và
cảm thấy tốt đẹp về nó. Đây là cách
thiết lập thói quen của một
tâm tích cực. Khi
chúng ta kinh nghiệm và
tiếp nhận năng lượng tích cực, dù nó nảy sinh từ một
kinh nghiệm đơn giản thôi, nó sẽ mang lại
cảm giác thỏa mãn cho phép chúng ta khai triển
hạnh phúc và
sung mãn lớn lao hơn.
Nhiều thế kỷ trước, nạn đói
nghiêm trọng quét qua một thung lũng ở
Tây Tạng. Một người cha thấy rằng mình và đứa con không thể sống lâu hơn được vì
thực phẩm đã cạn, và ông ta nhét đầy tro vào các túi, buộc lại và treo lên trần rồi bảo với những đứa con còn bé : “Chúng ta có nhiều tsampa trong những túi này, nhưng phải
để dành cho những ngày sau” (tsampa là bột mì nướng, một
thực phẩm chủ yếu của
Tây Tạng). Sau cùng người cha chết vì đói, nhưng những đứa bé vẫn
sống sót cho đến khi có người đến cứu. Mặc dù chúng yếu hơn người cha nhưng vẫn còn sống được vì chúng tin rằng còn
thức ăn, còn cha chúng chết vì mất
hy vọng.
Dĩ nhiên,
luân lý của
câu chuyện là sự tự tin giúp
sức mạnh cho thân và tâm.
Tuy nhiên,
chân lý như nó
liên hệ với cuộc sống
chúng ta thì khơi gợi nhiều hơn sự
cá biệt của
câu chuyện. Không giống như những túi tsampa,
bản tính thanh tịnh của
chúng ta không chỉ là sự tưởng tượng nhằm vào việc
xây dựng tự tín mà nó đặt nền trên
chân lý rốt ráo nhất.
Không dễ dàng phát triển
niềm tin vào chính
chúng ta và những bài tập chữa bệnh, vì
chúng ta bị chất đầy những nỗi
nghi ngờ,
sợ hãi vô tận. Nhưng nếu phá vỡ được những
thói quen hàng ngày và
đi vào tu tập, thậm chí trong
thời gian ngắn,
chúng ta có thể
kinh nghiệm một số
lợi ích thật sự.
Không
an trú trong
cảm giác tội lỗi,
chúng ta phải tự hiến mình để
cải thiện những khéo léo của
chúng ta, phát triển
tâm bi và rộng mở. Sau khi
thực hành được một lúc,
chúng ta sẽ
tìm thấy bình thản và
thái độ tích cực sẽ
tăng trưởng.
NHÌN VÀO SỰ TIẾN TRIỂN CỦA MÌNHNhận ra tiến triển của mình,
chúng ta cảm thấy sự tự tin
tự nhiên trong khả năng
chúng ta. Vậy, tự hiến mình cho một cơ hội mà không
sợ hãi và
nghi ngờ là cách tốt nhất có được tự tin.
Sau khi
thực hành được một
thời gian, nếu
cảm thấy chán hay mỏi mệt, vì
cảm thấy chúng ta sao còn quá xa với
mục đích của cuộc
hành trình tâm linh,
chúng ta phải nhìn lại cuộc sống trước ngày bắt đầu
tu tập và tán thưởng bất cứ
tiến triển nào
đạt được. Thậm chí khi có
cảm giác thụt lùi so với sự
tiến bộ của mình, điều này vẫn cần được tán thưởng. Bước tụt hậu hay đi đường vòng, thử nghiệm hay lầm lỗi, là tất cả thu góp phần vào quá trình phát triển.
Đau khổ tăng trưởng có thể có vẻ như
tiêu cực, nhưng
chúng ta có thể thấy chúng
tích cực bằng cách tự nhủ : “Tôi đã lùi một bước, và đây là một phần của
hành trình về phía trước.”
Suy nghĩ tích cực là
thực hành tâm linh lành mạnh, và nó cũng tạo ra
lương tri. Khi
chúng ta xây một căn nhà, nếu ta chỉ nghĩ về công việc to lớn chưa được
hoàn tất thì
chúng ta thấy nản lòng,
mệt mỏi,
thất vọng. Nhưng nếu ta nghĩ nhiều hơn về những gì ta đã
hoàn tất hơn là những gì còn phải làm thì
chúng ta cảm thấy hạnh phúc và điều đó cũng cho ta
năng lực,
cảm hứng để làm nhiều việc hơn.
Trên một
hành trình dài, nếu
chúng ta cứ nhìn hướng đến
mục đích xa xôi của mình,
chúng ta có thể
cảm thấy chán nản vì
con đường có vẻ
vô tận. Nhưng nếu ta ngồi xuống, nhìn vào
con đường chúng ta đã đi được, cái nhìn có thể đầy
thỏa mãn và khuyến khích.
PHÓNG LỚN NGAY CẢ
TIẾN BỘ ĐƠN GIẢNTrong bất kỳ việc
tu tập nào, sự khuyến khích
rộng lượng có thể phóng lớn kết quả và đưa
chúng ta đi
xa hơn. Khả năng của ta được phóng lớn vượt khỏi
cố gắng lúc đầu, giống như tiền vốn phát triển và tăng lên nhiều lần trong một cuộc đầu tư tốt, ngược lại với
đồng tiền không được đầu tư gì cả.
Cho dù
tiến bộ của ta bé nhỏ, nếu
chúng ta tán thưởng nó như là cái gì có
ý nghĩa và có
giá trị, nó trở nên một
thành tựu đầy
năng lực. Vậy, hãy
nhận ra những phẩm cách tốt của mình và những bước nhỏ mình đã đi. Hãy tự nhủ, “Tuyệt thay ! Tôi đã tạo ra
tiến bộ này !” Sau đó, một cách tự phát, sự
tiến triển sẽ được phóng lớn và những
chướng ngại sẽ bị
giảm thiểu.
Việc phóng lớn
tiến bộ và
vui thích làm mạnh mẽ sự
an bình và
thỏa mãn và trang bị cho
chúng ta làm bình lặng với những khó khăn.
Giả sử, chẳng hạn có một tiếng ồn từ cửa sổ kế bên, và
chúng ta nhiều giờ không ngủ được, nhưng sau một lúc,
âm thanh ồn giảm dần. Nếu
chúng ta nhận ra và
vui thích với sự giảm
âm thanh thay vì
lo nghĩ về tiếng ồn vẫn
tiếp tục, nó sẽ làm cho
chúng ta thoải mái và
chúng ta ngủ dễ dàng, vì đó là
năng lực của sự hân thưởng.
Sự hân thưởng và bằng lòng, khả năng
sung sướng trong
mọi việc dù lớn hay nhỏ, là sự
tu tập chính yếu của
đạo Phật.
Kinh Pháp Cú (Dharmapada) dạy :
Sức khỏe tốt là
thành tựu tuyệt hảo nhất.
Bằng lòng là
giàu có tuyệt hảo nhất.
Bạn
hòa hợp là bạn
tuyệt hảo nhất.
Niết Bàn là
hạnh phúc tuyệt vời nhất.
TRI GIÁC THANH TỊNHThói quen nhìn sự vật là xấu hay tốt, được tạo ra trong tâm ta. Chuỗi
cảm xúc trong tâm ta – thích và không thích,
thèm muốn và
sân hận – tạo ra thêm
đau khổ hay
thèm khát. Cách
chuyển hóa những
phản ứng thói quen của ta là đem một
thái độ tích cực vào mỗi tình huống và cảm nhận
sâu xa năng lượng tích cực.
Tri giác trong sạch có nghĩa là thấy tất cả mọi sự đều
thanh tịnh,
toàn thiện,
hỷ lạc và
giác ngộ.
Trong đời sống hàng ngày của
chúng ta, có vẻ
chúng ta bị
phiền não đè nặng.
Tuy nhiên,
quan điểm đạo Phật cho rằng những
phiền não, trong
bản tánh tối hậu của chúng, cũng giống như những ngọn sóng trên bề mặt
đại dương. Một cơn bão có thể thổi những ngọn sóng trên bề mặt, nhưng
đại dương bên dưới vẫn tĩnh lặng.
Chúng ta có thể
tìm thấy an bình trong một
kinh nghiệm khó khăn và thấy việc gì đó
tích cực ngay cả nếu nó
dữ dội trong sự
biểu lộ bề mặt của nó. Nếu
chúng ta thấy điều gì đó là
an bình, cho dù nó có vẻ như rất
tiêu cực,
chúng ta phải
nhận biết cảm giác an bình trong tâm một cách có
ý thức và
an trú trong
kinh nghiệm đó.
Tiêu cực hay
tích cực,
tri giác này
tùy thuộc vào tâm ta. Nếu
chúng ta thấy vật gì đó
tích cực, thậm chí nếu chỉ là một tách trà nó cũng có thể
trở thành đối tượng của niềm vui nhờ
tri giác của
chúng ta. Nếu
chúng ta thấy cũng cùng tách trà đó một cách
tiêu cực, thì nó là khó chịu.
Thay vì luôn áp đặt
quan điểm theo
thói quen của ta lên sự vật, nó có thể giúp ta tự nhắc nhở làm thế nào để mở ra
một thế giới thay vì
giải thích nó. Chẳng hạn, nhìn một cái cây, một
bác sĩ có thể thấy là vị thuốc hay chất độc. Một nhà buôn tính toán
giá trị tiền bạc của nó, và người thợ mộc đo lường khả năng
xây dựng của nó. Một nhà khoa học phân tích xung lực hóa học và điện năng của nó. Người say rượu thấy cái cây như một bánh xe quay trên đầu anh ta. Nhà thơ có thể đắm mình trong vẻ đẹp của nó. Một người Công giáo có thể thốt ra lời
cầu nguyện ca ngợi sự
sáng tạo của
Thượng Đế. Một
Phật tử thấy cây như là một biểu hiện của
duyên sinh hay một biểu hiện của
an bình tối hậu.
Mở rộng cái nhìn của
chúng ta có thể nới lỏng sự
chấp ngã của
chúng ta và
cho phép chúng ta nhận những tạo tác
của riêng tâm thức chúng ta và những
thói quen che tối
bản tánh an bình của
chúng ta như thế nào. Ngài Tsultrim Lodroš viết :
Do
đạt đến giải thoát khỏi những
thói quen của ba
che chướng –
Của thân, tâm, và những đối tượng –
Chúng
xuất hiện như những thân Phật,
trí huệ,
và những
cõi Phật.
Ở đây
chúng ta phải nhớ rằng
mục đích tu tập của
đạo Phật không phải là rời bỏ
thế gian này để đến
một thế giới
tốt hơn hay ở
cõi trời.
Chúng ta có thể
tìm thấy an bình trong chính
thế giới này, nhưng bởi vì
bản tính an bình bên trong
chúng ta thường bị
che lấp,
chúng ta choáng váng giống như người
bị thương phải
đối phó với những trận chiến của
cuộc đời.
Tri giác thanh tịnh có thể chữa lành
chúng ta. Nếu
chúng ta tu tập tâm mình
chấp nhận những khó khăn là
tích cực, thì ngay cả những
vấn đề rất khó khăn cũng có thể
trở thành nguồn
hạnh phúc thay vì
đau khổ.
Đau khổ có thể là vị Thầy lớn. Sự
thất vọng, chán nản có thể
đánh thức chúng ta dậy. Nếu
đời sống quá dễ dàng,
chúng ta có
thể không bao giờ
nhận ra an bình đích thực. Nhưng nếu chẳng hạn
chúng ta bị mất tiền, nó có thể gây cho ta
tìm thấy sự thật (
chân lý). Có thể
chúng ta biết cách không
quan tâm quá nhiều về tiền bạc, và sẽ biết
an bình,
sức mạnh là gì. Một số người rất nghèo nhưng rất
vui vẻ. Điều này nói lên
đau khổ là
tương đối biết bao và tâm có thể
tìm thấy hạnh phúc ở bất kỳ
hoàn cảnh bên ngoài như thế nào.
Chúng ta phải nhớ rằng dưới những cơn bão
lo nghĩ trên bề mặt là sự
an bình.
Chúng ta có thể chữa lành
đau khổ của mình bằng cách ứng xử khéo léo với những khó khăn của
đời sống.
Mọi việc đều
vô thường và thay đổi. Thay vì xem thay đổi là
tiêu cực, hãy thấy nó là
tích cực và rút ra
lợi lạc từ nó. Việc nó là
vô thường, vì
tính chất thay đổi của nó,
cho phép chúng ta cải thiện cuộc sống mình, nếu
chúng ta chọn lựa như thế.
Ngay cả những
vấn đề khó khăn nhất, như bệnh tật
nghiêm trọng, thân xác lão hóa, có thể được nhìn một cách
tích cực.
Chúng ta có khuynh hướng xem “bản ngã” là thường, nhưng thật ra
bản ngã, với mọi
tham dục và bám níu, là không
bền vững. Khi
đau đớn xảy đến, tất cả
ảo tưởng của ta sụp đổ và bị cuốn đi như lâu đài bằng cát bị cơn sóng lớn đầu tiên cuốn xuống biển.
Gia đình, nhà cửa,
đồng nghiệp, mọi cái yêu thích của
đời sống sẽ biến mất.
Nhưng
chúng ta có thể thấy ngay cả những khoảnh khắc cùng cực, khi cơ thể
chịu đựng bệnh tật tàn phá hoặc cái chết tiến gần, là những cơ hội
vui vẻ và
tích cực. Chính lúc bấy giờ
chúng ta có thể thấy
chân lý về sự
buông bỏ bản ngã.
Jigme Gyalwe Nyugu thuật lại một cuộc
hành hương lúc còn thanh niên với người Thầy và là
sư huynh của mình, Rinpoche Dodrupchen Thứ Nhất, đi qua một vùng đất không người vùng Yadrog trung
Tây Tạng. Vị Thầy của ngài trở bệnh nặng nhưng vẫn rất
vui vẻ, Ngài Jigme Gyalwe Nyugu viết :
Khi
chúng tôi, thầy và trò
đi xuống phía thung lũng Yadrog, Đức Lama Dodrupchen trở bệnh
trầm trọng vì không khí
ẩm thấp và bệnh thấp khớp. Ngài bị
đau đớn, nhức nhối
liên tục và trở nên yếu đi hầu như
gần chết.
Chúng tôi không còn gì nhiều để ăn ngoại trừ một mẩu thịt mỡ đã nát và một bình dầu.
Chúng tôi không có đến một muỗng tsampa.
Chúng tôi uống trà đen.
Sau khi Ngài ngồi xuống nghỉ, để giúp Ngài
đứng dậy tôi dùng hai tay đem
hết sức mạnh đỡ Ngài.
Mặc dầu thân xác đang trong một
tình trạng nguy kịch, thay vì
buồn chán, Ngài lại nói : “À, hôm nay tôi có dịp
mang theo một ít
khổ hạnh trong
thực hành pháp bằng cách
áp chế thân xác
hoang dã phải chết và tâm
tham lam, gây
thương tổn của tôi. Tôi đang
đạt đến cái
tinh túy của
đời sống con người quý giá. Không còn
nghi ngờ rằng những
kinh nghiệm khó khăn này tôi đang
trải qua là kết quả
may mắn được tạo ra bởi
sự tích lũy
công đức và là sự tịnh hóa những che chướng ở nhiều kiếp trong
quá khứ.” Đó là
đại hỷ lạc trong tâm Ngài.
Tôi cũng
vui vẻ theo, nghĩ rằng : “Tuyệt vời thay ngài Lama đang đưa vào
thực hành lời Phật dạy :
‘Hãy
giữ gìn mãi mãi Pháp,
Cho dù phải trả giá bằng việc
Vượt qua tường lửa hay đi trên cánh đồng đầy lưỡi dao’.”
Đôi khi vị Lama không nhìn thấy, tôi khóc và nghĩ : “Vị
thánh nhân này đang hấp hối ở một nơi mà
nhân loại không được thấy hay nghe về Ngài.”
Chúng ta có thể học
buông xả bám chấp qua
thiền định và qua
tu tập. Sau đó một khi những khó khăn thân xác
quấy rối,
chúng ta sẽ
cảm thấy ít
nghiêm trọng, hay thậm chí biến mất
hoàn toàn. Tất cả
chúng ta biết rằng có một số người lại dễ dàng chịu
đau đớn hành hạ hơn những người khác. Một số người không cần thuốc giảm đau (Novocaine) khi nha sĩ nhổ răng họ, trong lúc những người khác bắt đầu
cảm thấy đau trước khi đến nha sĩ.
Chúng ta không nói đến thói bạo dâm ở đây,
tìm kiếm đau đớn chỉ vì thích
đau đớn.
Trái lại,
mục tiêu của
chúng ta là phát triển một
thái độ có thể
chuyển đổi tác động và
tri giác về
đau khổ và
đau đớn. Nếu
chúng ta bị đau răng khiến tim
hồi hộp và chưa thể gặp nha sĩ ngay được,
chúng ta cố gắng buông xả tri giác về sự
hồi hộp như là việc
tiêu cực. Bằng cách
không chú tâm nhiều quá hay
lo nghĩ về nó,
chúng ta tiếp nhận cơn đau ít
nghiêm trọng hơn.
Tri giác thanh tịnh về
đau khổ và
đau đớn có nghĩa rằng
chúng ta thực sự chào đón
đau đớn như một cơ hội
tích cực và
cảm hứng để
thực hành buông xả bản ngã. Ở một mức độ
thiện xảo rất cao, có
thể không những hiểu được
đau khổ như một việc
tích cực mà còn trực tiếp cảm nhận tất cả mọi sự việc đều là
hỷ lạc –
bao gồm phạm vi những
kinh nghiệm từ những
vui thích hàng ngày
cho đến cái mà
đa số người ta xếp loại là
tiêu cực như cơn đau của thể xác.
Một
người đã thành tựu sự
hoàn thiện của mỗi một
kinh nghiệm như là
phúc lạc, ngay cả nếu họ có vẻ
yếu đuối về thể xác,
bị thương tổn, hay hư nát,
vẫn có tâm thức an bình. Ngài Tsele Natshog Rangtrol nói về vị Đại Lama Zhang Rinpoche, một
Đại Đạo Sư của phái Kagyu :
Vì Ngài Zhang Rinpoche đã
hoàn thiện sự
chứng ngộ và
kinh nghiệm về “con đường của
phương tiện thiện xảo”, tất cả mọi
kinh nghiệm, như chân đau do gai đâm và đầu
bị thương vì đụng phải đá, đều phát sinh trong Ngài sự hợp
nhất tự nhiên
sanh khởi của lạc và
tánh không (sự rỗng rang).
Với phần lớn
chúng ta, việc
thực hành tri giác thanh tịnh phải có
thời gian và nhẫn nại. Nhưng ngay cả nếu
chúng ta không
thành tựu được sự
thực hành ở mức độ cao nhất, một
thái độ tích cực sẽ
cải thiện cuộc sống
chúng ta và cho
chúng ta đối phó nhẹ nhàng và
hiệu quả hơn với mọi loại khó khăn.
Tuy nhiên,
cần phải mở rộng tâm
chúng ta với những
lợi ích của việc
thực hành này trước khi
chúng ta thật sự làm
chín muồi chúng. Nhiều người trong
chúng ta không
thừa nhận tính
thực tế của nó để nhìn
mọi việc trong cuộc sống mình là
tích cực.
Chúng ta nói : “Nó không
đáng tin,
đời sống không phải như vậy” hay “Tôi không đủ mạnh hay không đủ tốt để cảm nhận theo cách này” hoặc “Một số
hoàn cảnh thật quá khủng khiếp.”
Có vài điểm để ghi nhớ trong
tâm trí. Thứ nhất, nhớ rằng
vấn đề lớn là sự khăng khăng áp đặt những
ý niệm của mình trên những
kinh nghiệm mà trong
bản tánh thật sự là rỗng rang. Ngày và đêm không xấu cũng không tốt, nhưng nếu
chúng ta quyết định chỉ thích ban ngày và ghét ban đêm, bấy giờ ban đêm
trở thành đáng ghét.
Thứ hai,
chúng ta không nên tự
đồng hóa mình với những
phiền não và những
kinh nghiệm xấu của
chúng ta trong một cách thức bám chấp.
Chúng ta vốn thực sự
an bình và
toàn thiện từ bên trong, cho dù có những
đám mây che lấp thật tánh mình.
Chúng ta phải
cảm thấy tốt về mình và người khác, và hãy
hạnh phúc với chính mình như mình đang là.
Cuối cùng,
chúng ta phải biết rằng, thực sự có thể
cải thiện cuộc sống và
quan điểm của
chúng ta, để
tìm ra hạnh phúc và
an bình, đi từ
tiêu cực đến
tích cực.
Chúng ta có nhiều cách để làm điều này – mặt
trí huệ, mặt tình cảm và mặt
tâm linh. Mỗi một việc
chúng ta kinh nghiệm đều có thể giúp
chúng ta trên
con đường chữa lành.
Trong
Phật giáo,
Bồ tát là một người
giác ngộ, sống và giúp đỡ những người khác trong
thế giới này với tất cả nỗi
vui buồn của nó. Ngài
Đại Bồ tát Văn Thù (Manjushri) có lần chỉ dạy một
đệ tử khác, trước sự
hiện diện của
đức Phật, rằng bất kỳ
hoàn cảnh nào cũng có thể khơi nguồn
năng lực chữa lành trong tâm mình. Đây là lời của Ngài
Văn Thù nói trong Kinh Avatamsaka (
Kinh Hoa Nghiêm) :
Khi một
Bồ tát thấy
chúng sanh có nhiều
tình thương, Ngài nên nghĩ : “Mong cho tất cả
chúng sanh có nhiều
tình thương và sùng mộ pháp.” Khi một
Bồ tát thấy
chúng sanh có nhiều sự không thích, Ngài phải nghĩ : “Mong sao tất cả
chúng sanh có
cảm giác không thích đối với mọi
hiện tượng quy định bởi
nhân duyên để họ sẽ
nỗ lực cho
giải thoát.” Khi một
Bồ tát thấy
chúng sanh hạnh phúc, Ngài phải nghĩ : “Cầu cho tất cả
chúng sanh được
hạnh phúc tột cùng bằng việc
đạt được sự
giàu có của đại
hoan hỷ của
Phật tánh.” Khi một
Bồ tát thấy
chúng sanh đau khổ, Ngài phải nghĩ : “Mong rằng sự
đau khổ của tất cả
chúng sanh được bình lặng bằng sự gieo trồng gốc
trí huệ trong họ.”
KIÊN ĐỊNH VÀ
TINH TẤNTrong lúc đối mặt với khó khăn,
chúng ta vội vã chạy tìm những
giải pháp. Nhưng lúc những khó khăn đó dịu đi,
chúng ta lơ là kỷ luật
cần thiết để làm mạnh mẽ và
bảo tồn những
năng lượng chữa lành của ta. Khi những khó khăn lại nổi lên,
chúng ta trách móc sự
thực hành : “Tôi đã
tu tập nhiều năm, nhưng vẫn còn những khó khăn như vậy.”
Lỗi lầm không nằm ở sự
thực hành, mà là ở
con người đã rời xa những
phương pháp chữa bệnh và những
ích lợi của chúng.
Một khi bạn huấn luyện một chú chó con không được nhảy lên bàn, bạn phải
kiên định không cho nó lên bàn.
Nếu không nó sẽ
xao lãng và
thói quen kỷ luật bị quên đi. Vậy
chúng ta phải
duy trì mọi
thói quen tốt nào mà mình
đạt được trong bất
cứ sự tu tập nào, giống như hàng tháng
chúng ta trả bảo hiểm hạng nhất để
bảo đảm an toàn cho bệnh tật và
tuổi già.
Việc chữa bệnh sẽ đến chỉ do chính
chúng ta nỗ lực và
kiên định hướng
năng lực đời mình vào
thực hành. Dù nếu
chúng ta thực hành ở nơi cô tịch nhiều năm, nếu
chúng ta phá vỡ sự
liên tục tu tập trong vài tháng,
chúng ta có thể thụt lùi và thấy mình như lúc mới bắt đầu.
Một khi
chúng ta thực sự
đạt được một sự đột phá, nếu
chúng ta tiếp tục kiên trì thực hành thậm chí vài phút trong một ngày – sự
kiên cố của tâm sẽ không mất mà sẽ
tiếp tục được mạnh hơn.
Ngay cả nếu
chúng ta không là học trò
sáng ý hay là thiền giả
thông tuệ, nếu
kiên trì thực hành,
chúng ta có thể
tiến bộ nhanh hơn những người tự xưng là
học giả và những người
thuyết pháp. Trích dẫn lời Ngài Jigme Lingpa, người
sáng lập truyền thống Longchen Nyingthig của
Phật giáo Tây Tạng, Ngài Paltrušl Rinpoche viết :
Với một người không
chuyên cần,
Thì
thông minh,
năng lực,
tài sản và cả
sức mạnh không giúp gì nó được.
Nó giống như thuyền trưởng một con thuyền không có buồm.
Một
tục ngữ của
Tây Tạng nói :
Những
học giả kết thúc với hai bàn tay trắng trong nách mình.
Trong lúc người tận tụy đập tan cả những thách thức lớn như
núi Tu Di thành bụi.
Nếu
chúng ta chuyên cần, thậm chí là một người có tâm
đơn giản,
chúng ta có
thể đạt được
mục đích của mình. Cũng giống như một
câu chuyện về Ngài Lamchungpa
trở thành một trong những nhà
hiền triết danh tiếng của
đạo Phật được biết như trong mười
sáu vị A La Hán.
Đơn giản chỉ rửa sạch những đôi giày của những vị sư khác, Ngài đã có thể hiểu được lời dạy
đức Phật. Đức Dalai Lama Thứ Nhất kể lại
câu chuyện này :
Tâm trí Ngài Lamchungpa rất chậm lụt, nhiều
đệ tử của
đức Phật cố gắng dạy Ngài nhưng rồi phải bỏ cuộc. Sau đó
đức Phật hướng dẫn Ngài rửa những đôi giày của các
tăng chúng và lập lại hai câu, “Bụi bặm đã được rửa sạch, nhơ bẩn đã được rửa sạch”, Ngài cố nhớ hai câu ấy với sự khó khăn
vô cùng. Sau khi làm công việc ấy một
thời gian lâu dài, rồi một ngày nọ, một
tư tưởng xuất hiện trong
tâm trí Ngài : “Ồ
đức Phật nói ‘lau sạch bụi’ và ‘rửa sạch dơ bẩn’ là cái gì ? Có phải bụi và
dơ bẩn bên trong (tâm) hay của đồ vật bên ngoài (giày) ?” Ngay lúc đó ba câu thơ kệ đến trong tâm Ngài :
Đây không phải là bụi của đất, mà là của
tham dục.
Bụi là tên của
tham dục, không phải tên của bụi đất.
Ai học được cách lau sạch bụi
Đạt được tỉnh giác trong
giáo lý của
Như Lai.
Đây không phải là bụi của đất, mà là của
sân hận.
Bụi là tên của
sân hận, không phải tên của bụi đất.
Ai học được cách lau sạch bụi
Đạt được tỉnh giác trong
giáo lý của
Như Lai.
Đây không phải là bụi của đất, mà là của
vô minh (si)
Bụi là tên của
vô minh, và không phải là tên của bụi đất.
Ai học được cách lau sạch bụi
Đạt đến tỉnh giác trong
giáo lý của
Như Lai.
Bấy giờ Ngài
chuyên cần thiền định về
ý nghĩa của những vần kệ trên và chẳng bao lâu
đạt được quả vị A La Hán, một
trạng thái loại trừ toàn triệt những
đau khổ tình cảm và
tâm trí.
SỰ QUÂN BÌNHSự cân bằng
cần thiết cho cả
thiền định và
đời sống hàng ngày. Quá
ép buộc và thúc bách chỉ tạo ra
căng thẳng, cứng rắn, hoang tưởng và
đau khổ. Quá
buông lung hay lười biếng thành ra thiếu tập trung, thiếu
sức mạnh,
ảo giác, mơ tưởng
hão huyền. Để biết cách
thiền định như thế nào, Ngài Patrušl Rinpoche khuyên
chúng ta hãy
lưu ý đến câu chuyện trong kinh như sau :
A Nan, một
đệ tử chính của
đức Phật, dạy Shravana làm sao để
thiền định.
Tuy nhiên, Shravana không thể
thiền định được tốt vì đôi khi
tâm trí quá kềm chặt và lúc khác lại buông lỏng. Khi
trường hợp này được trình lên
đức Phật, Ngài hỏi Shravana : “Này ông, khi còn ở nhà, ông đánh đàn rất hay phải không ?”
Shravana
trả lời : “Vâng, con đánh hay.”
Đức Phật hỏi : “Âm thanh hay của đàn do lên dây chặt hay lỏng ?”
Shravana
trả lời : “Bạch Phật, không phải cả hai thứ đó,
âm thanh hay là do sự cân bằng của dây đàn.”
Bấy giờ,
đức Phật bảo : “Vậy tâm của ông cũng
cần phải như vậy.”
Sau này, bằng
sự thiền định trong một cách thức cân bằng, Shravana đã
đạt được thành quả của việc
tu tập.
Trong
thiền định,
chúng ta hoàn toàn chú tâm và đem hết
năng lực để
thiền định, và trong cách này là
gắng sức. Nhưng
chúng ta không
cảm thấy căng thẳng và trong cách này
thiền định là sự không
cố gắng. Giống như dây đàn,
chúng ta vừa chặt vừa lỏng. Nói khác đi,
tỉnh táo mà không
căng thẳng. Nếu lười biếng, tâm ta không
vững chắc và tĩnh lặng. Nếu cưỡng ép,
chúng ta đốt hết
năng lực và
kết thúc trong bám chấp. Trích dẫn Ngài Machig Labdron, một nữ
đạo sư nổi tiếng của
Tây Tạng, Ngài Patrušl Rinpoche viết :
Điểm thiết yếu của
quan điểm thiền địnhNằm trong
thắt chặt và buông lỏng.
(Đầu tiên làm chặt được ở mức chặt
Sau đó nới lỏng ra ở mức lỏng
Như vậy
tinh hoa của sự thấy ở đó.)
Sự
linh hoạt là chìa khóa
duy trì sự thăng bằng của tâm
chúng ta trong những tình huống hàng ngày. Ngài Atisha, một trong những
Đại Sư Phật giáo Ấn Độ ở thế kỷ thứ mười viết :
Bất cứ khi nào tâm bạn quá cao,
Cần thiết đánh tan
kiêu mạn đó
Bằng cách nhớ lại những
lời dạy của Thầy.
Bất cứ lúc nào tâm bạn quá thấp,
Cần phải có nguồn
cảm hứng.
Bất cứ lúc nào đối mặt với đối tượng
thèm muốn hay
sân hận,
Hãy thấy chúng như những
ảo giác hay những
xuất hiện huyễn hóa.
Bất cứ lúc nào nghe điều không
hấp dẫn,
Hãy xem chúng như những
tiếng vang.
Bất cứ khi nào
thân thể bị
tổn thương,
Hãy nhận lấy như
kết quả của nghiệp.
Giống như một chuỗi động tác của người trượt băng, vẫn thăng bằng trong lúc quay tròn và làm những kỳ công đáng
ngạc nhiên trên băng,
chúng ta cần
nhận biết trung tâm của mình. Nếu
chúng ta đi vào những
cực đoan,
chúng ta sẽ mất
trung tâm bình an và trở nên
mất thăng bằng. Chẳng hạn, trong mối
liên hệ giữa
chúng ta và người khác,
chúng ta cần
tình bạn và trợ giúp, và
chúng ta cũng cần
độc lập.
Người ta rơi vào
cực đoan trong
liên hệ giữa họ và người khác. Một số
cha mẹ làm ngộp con cái mình trong những
liên hệ quá
phụ thuộc lẫn nhau. Những bậc
cha mẹ khác lại sợ tình cảm
thân mật và không cho con cái họ sự trợ giúp đầy đủ. Đúng là mỗi một người đều có thể tự đứng trên hai chân mình. Nhưng nhìn chung, sự
thân mật nuôi dưỡng và
cho phép con cái – và
cha mẹ – lớn mạnh về mặt tình cảm.
Cha mẹ phải nói chuyện và
tham gia vào những trò chơi trong cuộc sống của con mình và bày tỏ
tình thương nồng ấm với chúng. Họ cũng phải để cho con mình thành một người
độc lập không
phụ thuộc. Đây là sự thăng bằng mà
chúng ta cần.
Nhiều đứa trẻ
trưởng thành trách móc
cha mẹ về những
vấn đề thuộc tình cảm, hay
nổi loạn chống lại bất cứ ai
áp dụng quyền lực trên chúng.
Chúng ta cần phải hiểu
quá khứ của mình, nhưng trách móc không mang lại
tự do. Nếu
chúng ta vướng mắc vào
bực tức và
giận dữ,
chúng ta có thể tạo ra những chất độc bên trong ta và bám vào chúng để bị
tổn hại. Sự chữa lành là câu
trả lời. Hãy nhìn
quá khứ xem là cái gì, rồi
tha thứ và quên đi. Đây là cách để
tìm thấy an bình.
Tự tin
thái quá, sợ phải
dựa vào người khác làm cằn cỗi sự
tăng trưởng tình cảm và
tâm linh của
chúng ta. Một số người
bác bỏ ý tưởng dựa vào ai khác ngoại trừ chính họ. Nhưng bằng sự quá
kiêu mạn hay quá
sợ hãi, họ chối bỏ
lợi ích của chính họ về sự đào luyện
tâm linh. Họ
nghi ngờ vị thầy hay
giáo lý có thể giúp họ, và những
nghi ngờ này khiến họ cách xa sự chữa lành.
Hoàn toàn tự do không
phụ thuộc vào những người khác là có thể được, nhưng với phần đông
chúng ta sự cố gắng được
hoàn toàn độc lập khi
chúng ta học làm sao đối xử với những khó khăn là một
sai lầm.
Chúng ta cần người khác giúp đỡ để
đời sống bớt là một cuộc chiến đấu. Sự trợ giúp của
gia đình, bạn bè, và
cộng đồng là rất tốt.
Đồng thời, trong
sự cố gắng phát triển
tâm linh và tình cảm,
chúng ta phải đi trên chính bước chân và những khả năng của mình, không theo lịch trình của người nào khác. Trong mỗi
hoàn cảnh,
cuối cùng nếu
chúng ta có thể tĩnh lặng và buông lỏng, thì
chúng ta sẽ
tìm thấy cân bằng.
CẢM NHẬNKhi
chúng ta nghe kể một
câu chuyện gây hứng thú, không phải việc nghe nó, mà chính việc cảm nhận chúng mang lại
cảm hứng. Cách
hiệu quả của việc nối kết với bất cứ nguồn chữa bệnh nào không phải chỉ là nhìn hay
tri giác một đối tượng để chữa bệnh, mà cảm nhận nó với
toàn bộ con người của
chúng ta.
Cách
thực hành những bài tập chữa bệnh là tập trung vào lòng bạn – vào những cảm nhận
tích cực của bạn. Không chỉ là nghĩ, mà cũng cảm nhận nó. Quả thực là giai đoạn cao nhất của
chứng đắc tâm linh thì vượt khỏi những
tri giác và cảm nhận
hạn chế và
nhị nguyên – vượt khỏi chủ thể và đối tượng, vượt khỏi
tích cực (tốt) và
tiêu cực (xấu), vượt khỏi một cái “tôi”
quán tưởng một
hình ảnh.
Tuy nhiên, với những người như
chúng ta đang
vật lộn với
đau khổ và kích động, thì
mục tiêu tức thời,
thích hợp là
cố gắng chuyển những
quan điểm tiêu cực thành tích cực, để chữa lành những cảm nhận
đau khổ và cảm nhận sự niềm vui
dịu dàng từ những chiều sâu của trái tim
chúng ta.
THẤY HAY CẢM NHẬN VỚI TOÀN THỂ THÂN VÀ TÂM CHÚNG TAKhi
chúng ta tu tập,
đặc biệt trong
lúc đầu,
tự nhiên ta sẽ tập trung
năng lực bằng cách nhìn
hình tượng quán tưởng với mắt của
chúng ta, hay nghĩ về một đối tượng với đầu óc hay cảm nhận điều gì đó bằng tấm lòng của
chúng ta.
Đối với một số
thực hành,
phương pháp này là có ích.
Tuy nhiên, đôi khi nó gây ra khó khăn nếu
thực hành với quá nhiều
rán sức hay
căng thẳng theo cách khu trú
năng lực chỉ ở trong một phần của cơ thể.
Ví dụ, có thể
chúng ta tập trung quá nhiều
năng lực ở cặp mắt khi
quán tưởng, hay tập trung cảm nhận quá mạnh ở vùng tim. Ở
Tây Tạng, điều này được
diễn giải trong một
thuật ngữ “Khí” hay
năng lực, chảy đến bất cứ đâu trong
thân thể khi tâm tập trung vào. Quá nhiều
năng lực trong một vùng có thể gây ra
căng thẳng và ngay cả bệnh tật.
Giải pháp đơn giản là thả lỏng và
hoàn toàn chú tâm vào sự tập trung bằng cả
con người của
chúng ta, mà không
gắng sức. Theo cách này,
chúng ta thấy và cảm nhận bằng cả
con người, và
năng lực được phóng lớn hơn là khu trú cục bộ.
Trong đời sống hàng ngày, nếu bạn nhìn chăm chú vào màn hình vi tính, bạn có thể nhức đầu, trừ khi bạn nhìn bằng một cách buông lỏng hơn.
Tương tự,
ca sĩ có thể làm
căng thẳng dây thanh âm trừ khi họ biết cách đem
âm thanh lên từ
hơi thở vùng dưới bụng. Nếu
thiền định là một sự
gắng sức, đó là dấu hiệu cần được nới lỏng và
để tâm và thân
thiền định theo cách buông lỏng trong một lúc.
NĂNG LỰC CỦA SỰ BÍ MẬTThường sự
rèn luyện tâm linh trở nên
hiệu quả hơn khi được trao cho như một
giáo huấn bí mật được giữ như một kho tàng
bí mật, và
thực hành trong
bí mật không thố lộ cho bất cứ ai ngoài vị thầy của mình.
Mục tiêu tối hậu của
giáo lý là
mở rộng cho
chúng ta,
không giới hạn hay tự tách biệt mình trong
ẩn dật. Nhưng
đặc biệt, trong lúc bắt đầu,
chúng ta cần phải tập gom tụ
năng lực và sự tập trung của mình. Sự
bí mật giúp ta làm điều đó.
Nếu
chúng ta sử dụng cái
chúng ta đã học để
nói huyên thuyên ở bàn ăn hay như là một nhà buôn hàng hóa, một công cụ cho những
mục đích tầm thường,
chúng ta có nguy cơ phân tán
năng lực và nguồn
cảm hứng của mình. Khi ta giữ việc
thực hành được
bí mật,
năng lực được tập trung phát triển
hiệu quả hơn, giống như một bộ máy khai thác
năng lực để phóng một hỏa tiễn ra khỏi sức hút của trái đất bởi vì nhiên liệu được đốt cháy này được giữ dưới áp suất lớn lao hơn là để thoát ra một cách
ngẫu nhiên.
BIẾT ĐƯỢC NHỮNG SỰ MẠNH MẼ
VÀ YẾU ĐUỐI CỦA CHÚNG TATất cả
chúng ta đều khác nhau, với những khí chất
cá nhân và phẩm
tính tâm thức riêng biệt, nhưng tất cả
chúng ta đều có thể
tìm thấy an bình. Ngài Shantideva nói :
Khi nhìn thấy máu mình, một số người trở nên
can đảm và mạnh mẽ hơn.
Một số người khi thấy máu người khác,
Lại lả đi hay ngất xỉu.
Những
phản ứng này là do
sức mạnhHay sự
yếu đuối của tâm.
Vậy bằng cách chẳng
để ý đến những khó khăn
Hãy
để tâm mình trở nên bất bại với những khổ đau.
Tất cả
chúng ta đều
toàn thiện trong
bản tánh chân thật của mình, và đó là
sức mạnh vĩ đại của
chúng ta. Sau khi hiểu được điều này,
chúng ta phải
xây dựng sức mạnh và chữa lành mọi
yếu đuối của mình.
Đôi khi, việc
nhận ra những
yếu đuối của mình rất khó khăn. Một số
chúng ta vô cảm và
kiêu ngạo. Một số hay
nổi giận và
tiêu cực về tất cả mọi thứ. Một số say sưa với tiền bạc,
quyền lực và nuông chiều mình
thường trực trong sự tự mãn và những
ý niệm hoang dã. Nếu có bất cứ những
phiền não này đến với mình,
chúng ta cần phải làm dịu đi
bản ngã thô lỗ,
ngoan cố và tự
tìm thấy thăng bằng. Những
thiền quán trên những
nỗi buồn, mất mát và những khó khăn của
thế giới này có thể
mở rộng tâm
chúng ta.
Không may, nếu
chúng ta kiêu mạn và
ngoan cố, thì
chúng ta tự
biến thành kẻ thù tệ hại nhất của chính mình, vì sẽ khó khăn để
nhận ra những
vấn đề của mình. Vậy
nhận ra những
lỗi lầm của mình là bước khởi đầu quan trọng.
Và rồi có một số trong
chúng ta bị
buồn chán,
yếu đuối, hoang mang và ngay cả tự tử. Nếu
chúng ta không
tin tưởng vào bất cứ cái gì,
tốt hơn hết là
tham thiền về những
tu tập gây
cảm hứng như sùng mộ,
thái độ tích cực,
tri giác thanh tịnh,
tâm bi và
tâm từ.
Chúng ta phải xua đi những
lo nghĩ và
nghi ngờ, phải tự tin vào chính mình và
sức mạnh của những
giáo lý.
Để
biết mình, rất có
ích lợi là nhận lời
dạy bảo của một vị thầy hay người
cố vấn khéo léo.
Chúng ta không cần đi
một mình,
chúng ta có thể
chấp nhận sự giúp đỡ khuyến khích của bạn bè và người khác.
Đồng thời, sự chữa lành
tối hậu nằm trong
chúng ta. Trong cái thật sự là
chúng ta,
chúng ta có thể
tìm thấy những câu
trả lời chúng ta cần. Những lời dạy của những
thời đại cung cấp cho ta những bảng
chỉ đường.
Chúng ta cần phải đem lòng nhiệt tình và sự
sáng tạo vào cách thức mà
chúng ta theo những dấu hiệu
chỉ đường đó.
5
ĐỐI XỬ VỚI NHỮNG VẤN ĐỀ KHÓ KHĂN
NHƯ THẾ NÀOChúng ta đã
nhận thấy sự
chấp ngã tạo ra những khó khăn như thế nào, và
chúng ta có thể làm dịu những khó khăn bằng việc phát triển những
thái độ và những khéo léo để
buông bỏ sự
chấp ngã này. Bây giờ
chúng ta hãy tập trung kỹ lưỡng hơn nữa về một số kỹ thuật
thực hành trong việc ứng xử với những
vấn đề khó khăn.
SỰ TRÁNH NÉThông thường
chúng ta đối mặt với khó khăn để chữa lành chúng, nhưng không phải là luôn luôn. Đôi khi sự
giải quyết tốt nhất là tránh né. Chẳng hạn, nếu khó khăn của bạn nhẹ nhàng hay tạm thời – không phải là
thói quen có gốc rễ sâu hay một
cảm giác đau
trầm trọng – bỏ qua (lờ đi) chúng sẽ là
giải pháp thích hợp và
đúng đắn. Không
cần thiết hay
đáng giá để phải tận lực làm mất nhiều
năng lực với những
vấn đề như vậy. Nếu
chúng ta không
để ý tới chúng, những
vấn đề đó sẽ
bỏ ra đi.
Vào những thời điểm khác, phải né tránh những khó khăn nếu
chúng ta không sẵn sàng
đối diện với chúng, giống như một người lính tạm thời về
hậu phương hay nghỉ ngơi trước khi giao tranh. Nếu khó khăn mạnh mẽ,
gay gắt và mới mẻ trong
tâm trí, bạn không
đủ sức mạnh để
đối diện hay
áp dụng bất
cứ sự luyện tập nào trực tiếp
xoa dịu chúng. Đối mặt với chúng quá sớm có thể làm kích động mạnh
đau đớn và làm cho
vấn đề khó khăn hơn là chính
bản thân nó. Trong
trường hợp này,
tối thiểu vào lúc đó, cách
thích hợp để làm việc với chúng là tránh nghĩ về chúng. Sau đó, khi bạn
lấy lại bình tĩnh và
sức mạnh tinh thần, bạn phải
cố gắng giải quyết khó khăn hay
giải phóng nó qua
thiền định.
Tuy nhiên, với một số người trong
chúng ta có
tâm thức mạnh mẽ và
hoang dã, sẽ có
ích lợi khi không chỉ nhìn thấy khó khăn của mình mà còn cảm nhận và
kinh nghiệm đau khổ một cách sâu sắc. Nếu
chúng ta thuộc loại người
cảm thấy rằng mình luôn luôn đúng và người khác sai, sự
kiêu mạn làm
chúng ta mù quáng không thấy những
vấn đề của mình. Vậy việc
đối diện tức khắc với
đau khổ hơn là lẫn tránh nó, có thể xúc chạm đến cái
cốt lõi của
đời sống của bạn, đem bạn
trở lại với những
nhận thức xác thực của mình và tập trung sự
chú tâm của bạn theo hướng đúng.
Đôi lúc, sự tránh né là cách
giải quyết tốt nhất cho những
thương tổn ở
quá khứ. Thậm chí nếu bạn còn tàn dư của một sự
đau đớn,
hiệu quả sẽ
giảm bớt nếu cái
kinh nghiệm tiêu cực được một
kinh nghiệm tích cực mạnh mẽ
theo sau nó. Trong
trường hợp đó, khó khăn có thể phần nào
trung hòa. Sau đó, thay vì tái tạo lại khó khăn, điều tốt nhất là chỉ
tiếp tục với những
kinh nghiệm tích cực.
SỰ CÔNG NHẬN VÀ SỰ NHẬN LẤYĐôi khi chỉ nhìn vào một
vấn đề,
chúng ta có thể gạt bỏ nó trong một cái nhìn thoáng qua như một việc không quan trọng và
tiếp tục với cuộc sống mình. Nhưng những
vấn đề khác
cần phải hoàn toàn đối mặt để chữa lành. Những bài tập chữa lành nhằm
mục đích này. Nhưng trước khi chữa lành,
bước đầu tiên là sự
công nhận và nhận lấy.
Nhiều người cố thử xua đi hay
kềm chế những
vấn đề lớn hay đè nén chúng.
Chúng ta biết rằng bám chấp làm cho
vấn đề tồi tệ hơn, và sự đè nén cũng vậy. Nó là một dạng khác của
chấp ngã, vì
chúng ta đang gán tên
vấn đề như là một cái gì đó phải tránh bằng mọi giá.
Chừng nào còn bám vào
quan điểm tiêu cực này,
chúng ta tự bó hẹp
thật tánh mình bằng sự xua đi cái ta không muốn.
Cố gắng vứt bỏ đi những
vấn đề cần được chữa lành, có thể
ngó lơ chúng trong một lúc, nhưng chúng thường tái
xuất hiện dưới một dạng mạnh mẽ và
độc hại hơn với sự
lơ là của
chúng ta.
Nếu
chúng ta không
nhận ra vấn đề mà
cố gắng che đậy chúng, đó cũng giống như
thực hiện một cuộc phẫu thuật mà lại nhắm mắt. Để
tìm thấy phương thuốc,
chúng ta cần nhìn thấy và
chấp nhận vấn đề rõ ràng nó là gì.
Cùng lúc, không
cần phải làm
rắc rối thêm
vấn đề của mình, ngay cả khi chúng có vẻ
nghiêm trọng, bằng cách phóng đại những khó khăn trong
tâm trí mình. Thậm chí nếu
phiền não làm
đảo lộn chúng ta, có thể
sử dụng trí năng để tự nhủ rằng
chúng ta có thể đối xử với khó khăn, có thể tự nhắc mình rằng nhiều người khác đã ứng xử
thành công với những khó khăn giống như
chúng ta. Thậm chí việc nhớ lại rằng
chúng ta có
trí huệ,
sức mạnh, khả năng
hồi phục bên trong lớn lao đã có thể giúp ích nhiều hơn, dù
chúng ta không luôn luôn
cảm thấy hay biết được điều này vì những
phiền não trên bề mặt ngoài của ta. Nếu
chúng ta nhạy cảm và xúc cảm
quá mức về những
vấn đề của mình, bánh xe
đau khổ chỉ chạy nhanh hơn. Ngài Shantideva viết :
Nóng, lạnh, mưa, gió và bệnh tật
Băng bó, đánh đập và v.v...
Với chúng, bạn không nên quá
nhạy cảmCòn nếu bạn như vậy, những khó khăn do chúng tạo ra
sẽ
gia tăng.
Sau khi
nhận ra một
vấn đề,
chúng ta cần phải sẵn sàng làm bất cứ điều gì
cần thiết để bốc thuốc cho nó.
Chúng ta phải thiết tha và tự tin có thể
cải thiện được cuộc sống mình. Một số người
vô ý thức, hay thậm chí
ý thức, bám chấp vào những
vấn đề của họ. Một số người nói : “Tôi thích sự
rối loạn, nó thêm gia vị cho cuộc sống.” Nhưng có lẽ, cái thực sự họ nói có nghĩa họ chịu
đau khổ nhiều hơn.
Mục đích của
chúng ta là phải chữa lành sự
đau khổ của mình.
Nếu
chúng ta quyết tâm chữa bệnh, mỗi một
vấn đề sẽ trở nên dễ dàng hơn để đối xử và để
dung thứ, và có thể những cái khác mà
chúng ta nghĩ rằng thường còn và
không giải quyết được sẽ biến mất không dấu vết. Trước khi đối mặt với những khó khăn lớn,
chúng ta cần phải khéo léo và hết mình, và khi đó là lúc
chúng ta có thể tự giúp mình bằng cách bắt đầu
ngay lập tức. Như Ngài Shantideva nói :
Nếu bạn đã
tu tập,
Không có cái gì không trở nên dễ dàng.
Trước hết, tập chịu những
vấn đề nhỏ
Về sau bạn có thể chịu những
vấn đề lớn lao.
TÌM THẤY NGUỒNKhi gốc rễ của mọi
đau khổ là
chấp ngã,
chúng ta sẽ muốn
tìm ra nguồn gốc
đặc biệt của
vấn đề trong tầm tay. Như một sự trợ giúp để
nhận ra một
vấn đề, bài tập này có
ích lợi. Hãy ngồi ở một nơi
tiện lợi, ít bị
xao lãng. Thả lỏng thân và tâm. Hít vài
hơi thở sâu và
hình dung mọi
lo nghĩ thoát ra khỏi cùng với
hơi thở.
Cảm thấy an bình,
trong sáng và trống trải. Hãy buông lỏng trong
trạng thái an bình này trong một lúc. Rồi,
chầm chậm nhìn vào
vấn đề bạn đang đối mặt. Hãy thấy và cảm nhận nó. Hãy
nhận biết sự
hiện diện của nó.
Hãy nhớ lại
vấn đề này bắt đầu phát xuất ở đâu, khi nào, như thế nào. Trong
tâm thức bạn, chậm chậm
đi lui lại
thời gian ban đầu có thể được, nơi chốn và ngọn nguồn của
đau khổ. Hãy thấy hình dạng, màu sắc, nhiệt độ và định vị
vấn đề tới mức có thể.
Việc
trở lại nguồn gốc khởi thủy của những
vấn đề có một số
lợi ích. Trước hết, chỉ bằng
tham thiền về những
nguyên nhân và cảm nhận chúng,
chúng ta đã chữa lành. Thứ hai, việc
trở lại quá khứ phát sinh một cảm thức và khoảng không lớn hơn sự
nhận biết hiện giờ của
chúng ta, và bằng sự
mở rộng khoảng không nhiều hơn và
viễn cảnh rộng lớn hơn
chúng ta sẽ
cảm thấy ít
lo lắng về những
vấn đề đặc biệt này.
Cuối cùng, bằng việc đi đến tận gốc rễ,
chúng ta có thể nắm vững
vấn đề trần trụi tại nguồn gốc của nó và nhổ gốc nó như nhổ cỏ, nhờ những bài tập chữa lành.
Chúng ta không phải
bị ám ảnh bởi sự
tìm thấy và
hoàn toàn hiểu rõ được gốc rễ của mỗi
vấn đề ; hơn nữa
chúng ta phải làm việc với
nguyên nhân như nó tự
bộc lộ vào lúc đó.
Bên cạnh đó,
chúng ta phải
thực hành tâm bi hướng về chính
chúng ta và những người khác trong quá trình này. Ví dụ, nếu
chúng ta thấy
cha mẹ tạo ra những lầm lỗi làm
tổn hại đến
chúng ta thì
chúng ta phải thấy
rõ ràng điều này.
Đồng thời chúng ta cũng phải nhớ rằng họ cũng
nô lệ cho tham, sân, si như
mọi người khác, trong đó có
chúng ta.
Chúng ta phải
cảm thấy thiện cảm đối với họ, và cũng
vui thích có cơ hội để phá vỡ xiềng xích
vô minh nó đã làm hại những
cha mẹ và con cái trong
gia đình chúng ta trong nhiều
thế hệ.
Phản ứng của
chúng ta là : “Thật
tuyệt vời khi tôi thấy được điều này bây giờ và có thể chữa lành được
độc tố đã làm hại đến
gia đình chúng ta cả một
thời gian dài !”
GIẢI THOÁT NHỮNG VẤN ĐỀ QUA CẢM NHẬNKhi quan hệ giữa những
vấn đề và nguồn gốc của chúng,
chúng ta phải thấy chúng một cách khách quan – chúng là gì và
xuất hiện thế nào – mà không phải
chúng ta gán tên cho chúng một cách
tiêu cực.
Nếu không thì sự
tu tập của
chúng ta có thể phát động một chu kỳ
phiền não và
đau khổ khác.
Đây là một ví dụ
đơn giản : Nếu bạn bị đau đầu, bạn cần biết cái gì là sai và
nguyên nhân là cái gì.
Tương tự, nếu bạn có một
vấn đề với một người bạn, cần biết và
hiểu rõ vấn đề sẽ tốt để bạn có thể bắt đầu đối xử với nó. Nhưng bạn thấy và
cảm giác vấn đề một cách
ý niệm và tình cảm như là “xấu”, “khủng khiếp” và “không thể chịu được” v.v... bấy giờ một khó khăn
tương đối nhỏ sẽ phát triển thành đám cháy rừng. Cách để đối xử với những
vấn đề tình cảm là nói “Tôi nhức đầu, nhưng tốt thôi” hay
tối thiểu là “Tôi nhức đầu, nhưng tôi
kiểm soát được nó”, hoặc “Nó khá đau, nhưng bất cứ ai cũng có thể bị, không lúc này thì lúc khác.”
Trong việc chữa bệnh, không có
cảm xúc nào hay những nhu cầu
căn bản nào là
sai lầm hoặc
cần phải từ bỏ.
Chúng ta phải
chấp nhận sự
hiện hữu của
cảm giác của
chúng ta,
tiếp đón và đem chúng lên bề mặt để chúng có thể
giải thoát. Nếu việc luyện tập khuấy dậy
đau đớn phiền não, hãy nhìn nó là
tích cực, vì sự
đau khổ ám chỉ rằng sự
tu tập có một
tác động và quá trình làm lay động này đang xảy ra. Việc
cảm thấy buồn về những
vấn đề khó
giải quyết là tốt. Hãy
cho phép bạn tự cảm nhận và
diễn tả nỗi buồn theo cách
tiếp xúc được với gốc rễ của
vấn đề, để nhổ bật gốc rễ của
đau khổ khỏi
hệ thống của bạn. Nếu nước mắt chảy, hãy để cho mình khóc. Khóc
giải thoát cho
căng thẳng tinh thần,
áp lực thân xác và những chất độc tạo ra khi
chúng ta kềm giữ
đau khổ bên trong.
Kể lại những
vấn đề của mình cho người biết lắng nghe cũng giúp cho
đau khổ giảm nhẹ. Nếu
chúng ta diễn tả tư tưởng của mình
tự nhiên và thật thà mà không bám chặt,
che dấu hay phòng
thủ trước sự
đau khổ thì việc chữa lành sẽ
tốt hơn cho
chúng ta. Nếu
chúng ta giải phóng áp lực bằng việc thở sâu và khóc, đó cũng là một phần của việc chữa lành.
Chúng ta phải
cảm thấy những
phiền não khi chúng khuấy động, nhưng không được
vướng mắc vào
đau khổ hay để
vấn đề gây
tác động mạnh hơn mức
cần thiết lên
chúng ta, làm cho những gốc rễ mọc sâu hơn vào
tâm thức và làm mạnh mẽ những
thái độ tiêu cực và có lẽ thậm chí những biểu hiện trên
thân thể. Vậy
ý tưởng là phải xóa đi
đau khổ, không nên đào quá sâu đến độ
chúng ta tự làm
tổn thương mình.
Lo nghĩ về những
bối rối của mình chỉ làm những
vấn đề thêm
tồi tệ chứ không
tốt hơn. Như Ngài Dodrupchen nói :
Nếu
chúng ta không
cảm thấy lo lắng về những
vấn đề,
sức mạnh của tâm có thể giúp
chúng ta chịu đựng ngay cả những
đau khổ to lớn một cách dễ dàng.
Chúng ta sẽ có thể cảm nhận chúng là ánh sáng và không
thể chất như bông vải. Nhưng nếu
chúng ta chất chứa lo lắng, nó sẽ tạo ra dù những
đau khổ nhỏ nhưng khó
chịu đựng. Ví dụ, khi ta nghĩ về vẻ đẹp của một cô gái, dù nếu
chúng ta cố gắng thoát khỏi tham dục, ta cũng bị đốt cháy.
Tương tự, nếu
chúng ta tập trung trên những
đặc tính của
đau khổ,
chúng ta sẽ không thể phát triển sự
chịu đựng với chúng.
Khi
đau khổ,
chúng ta cần phải rộng mở và chớ
cố gắng đẩy
cảm giác ta vào một số dạng ước ao khô cứng. Một số
vấn đề được chữa lành trong chốc lát, một số khác có thể mất một
thời gian dài. Ví dụ,
buồn phiền có thể là một
cảm xúc rất lớn,
chúng ta phải để cho
nỗi buồn có khoảng không
tự nhiên của nó để lành và không phải tự đặt thời khóa biểu cho mình.
Cố gắng hối hả làm giảm
nỗi buồn cũng giống như ta mong muốn dòng sông ngừng chảy theo ý mình. Dòng sông phải chảy và
cuối cùng theo hướng của nó. Nếu
chúng ta đòi hỏi
thu xếp nhanh chóng hay
loại bỏ nỗi buồn gấp gáp, nó có thể trở nên chìm lặn xuống khiến
chúng ta tổn thương trong nhiều năm.
ĐỐI MẶT VỚI NHỮNG VẤN ĐỀ MỘT CÁCH BÌNH ANChúng ta cần thăng bằng trong việc đối xử với những
vấn đề,
đặc biệt nếu có người khác
liên quan vào
vấn đề đó. Nếu
chúng ta đang ở dưới một
áp lực lớn của
xúc động, tốt nhất đừng nên nói hay làm bất cứ điều gì. Nếu bạn
cảm thấy giận dữ, kích động hoặc
hạnh phúc tột cùng, hãy đợi một lúc. Nếu khác đi, cái mà bạn nói có
thể không đúng hay chỉ đúng một phần, và giống như gây
tổn thương. Khi bạn
cảm thấy bình an hơn, hãy nghĩ về những
lựa chọn của mình, cái nào
thực tế, cái nào không.
Thời gian để nói hết sự việc hoặc có những
quyết định là khi nào
chúng ta bình an.
Trong
liên hệ với những
vấn đề,
nhận ra vấn đề là điều quan trọng. Nhưng chính trong
viễn cảnh rộng hơn mà mỗi người
nhận ra những khuyết điểm và
lỗi lầm của mình. Thay vì châm ngòi cho cơn bão xúc cảm, hãy đợi
cho đến khi
bình an và
rõ ràng, khi bạn có thể
suy nghĩ hợp lý : “Cái gì gây ra
vấn đề cho mình ?” Khi bạn bắt đầu thấy nó, thậm chí nếu
vấn đề xem ra khó khăn, bạn phải
nhận ra nó theo cách thư giãn, nghĩ rằng : “Vâng, nó đây. Nhờ trời, tôi đã sát gần được với
nguyên nhân của
vấn đề rồi !” Không mất đi sự
tương tục an bình của tâm,
chấp nhận và đối mặt
vấn đề với
quyết định chữa lành nó, nghĩ rằng : “Tôi không được, vợ hay chồng tôi không được, quan hệ giữa
chúng ta không được, nhưng tất cả đều được.
Chúng ta sẽ làm việc về nó.
Chúng ta có thể chữa lành nó.”
Ở giai đoạn này, nếu bạn không thể tránh sự
lo lắng nổi lên trong lòng, chớ
lo nghĩ về mối
lo lắng. Nếu bạn không
lo nghĩ về những mối
lo lắng, những
lo lắng tự chúng sẽ hết day dứt, thay vào đó là sự gom tụ được
sức mạnh.
NHÌN NHỮNG VẤN ĐỀ LÀ TÍCH CỰCNếu
chúng ta bám vào và
vật lộn theo
thói quen với khía cạnh
tiêu cực của
hoàn cảnh,
toàn thể tinh thần,
tri giác và
kinh nghiệm của ta sẽ
trở thành tiêu cực đầy
đau khổ không cách gì
chuyển đổi. Nhìn
vấn đề theo cách
tiêu cực, thường
suy nghĩ và nói về nỗi
đáng sợ hay
đau khổ của nó, ngay cả những
vấn đề nhỏ cũng khó
vượt qua giống như quả núi
vững chắc và to lớn, bén nhọn như lưỡi dao và
tối tăm như ban đêm. Ngài Dodrupchen viết :
Bất cứ khi nào những
vấn đề xảy đến với
chúng ta từ
con người hay vật thể
vô tri, nếu tâm
chúng ta làm quen với việc chỉ
tri giác đau khổ hay những khía cạnh
tiêu cực của chúng, bấy giờ ngay cả từ một việc
tiêu cực nhỏ sẽ tạo ra nỗi
đau đớn tinh thần lớn lao. Vì đó là
tính chất của việc
buông lung trong bất cứ loại
ý niệm nào, dù là
đau khổ hay
hạnh phúc, cái
kinh nghiệm này do đó sẽ
gia tăng cường độ. Cái
kinh nghiệm tiêu cực này
dần dần trở nên mạnh hơn, sẽ đến một lúc khi hầu hết những gì
xuất hiện trước
chúng ta sẽ
trở thành nguyên nhân đem lại
bất hạnh, và
hạnh phúc sẽ không còn cơ hội khởi lộ. Nếu
chúng ta không thấu hiểu rằng
lỗi lầm nằm trong cách sở đắc
kinh nghiệm của
tâm thức của
chúng ta, và nếu
chúng ta trách móc
đổ lỗi mọi
vấn đề cho chỉ những
điều kiện bên ngoài, bấy giờ ngọn lửa không ngừng của những
hành vi tiêu cực thói quen như
sân hận và
đau khổ sẽ
gia tăng trong
chúng ta. Điều đó được gọi là : “Mọi
hình tướng khởi sanh trong
hình thức những
kẻ thù.”
Bất cứ
hoàn cảnh nào,
chúng ta phải
cố gắng nhìn thấy mặt
tích cực của nó, ngay cả khi nó có vẻ là
tiêu cực.
Tuy nhiên, nếu
chúng ta có một
suy nghĩ hay cảm nhận
tiêu cực, điều quan trọng là hãy nhẹ nhàng với mình. Đừng tạo
cảm giác tiêu cực thêm bằng cách nói rằng : “Ôi, tôi lại lặp lại rồi”, hay “Sao tôi ngu thế này.” Nếu
chúng ta làm thế, bánh xe của sự
tiêu cực bắt đầu chuyển động không ngừng. Thay
vì vậy,
chúng ta cần tỉnh biết những
tư tưởng và
cảm giác của
chúng ta, nói rằng, “Ôi tốt”, và chuyển sự chú ý của
chúng ta vào những bài tập chữa bệnh,
nếu có thể,
chúng ta chuyển hướng tâm ta hay làm một cái gì khác
từ chu kỳ
tiêu cực đến
con đường đúng. Ngài Dodrupchen
nhấn mạnh :
Chúng ta không những làm cho
tâm trí không thể
thẩm thấu với
bất hạnh và
đau khổ, mà còn đem
an lạc vào
tâm trí chúng ta từ chính những
thăng trầm. Để cho điều này xảy ra,
chúng ta phải
ngăn ngừa sự khởi lên của những lực lượng xấu đối nghịch và những lời không
hòa hợp.
Chúng ta phải quen phát sinh chỉ
cảm giác yêu thích sự
an lạc. Để làm điều này,
chúng ta phải
chấm dứt việc nhìn
hoàn cảnh gây
tổn hại là
tiêu cực, và phải
cố gắng rèn luyện để nhìn thấy chúng là có
giá trị. Sự việc có làm
hài lòng ta hay không,
hoàn toàn tùy thuộc vào cách
tâm thức chúng ta tri giác chúng.
Năng lực tích cực mạnh mẽ có thể ngăn chận hay làm dịu bớt
đau khổ. Nhưng kết quả
ý nghĩa nhất của một
thái độ tích cực không
nhất thiết giữ gìn cho
đau khổ khỏi xảy ra, mà để giữ chúng không
trở thành một lực lượng
tiêu cực và
đau khổ khi nó xảy đến. Ngài Dodrupchen viết :
Như vậy, để không
bị khuất phục bởi những
chướng ngại như
kẻ thù, bệnh tật và những lực lượng gây
tổn hại như là kết quả của việc
rèn luyện tâm linh, không có nghĩa rằng
chúng ta xua đuổi chúng hay chúng sẽ không
tái diễn. Mà hơn thế nữa có nghĩa rằng : chúng không thể khởi lên như là những
chướng ngại cho việc
theo đuổi con đường hạnh phúc và
giác ngộ.
Chúng ta có thể làm bạn với những
vấn đề của mình. Khi
phiền não gay go xảy ra,
chúng ta có thể hỏi chúng cần gì. Bằng cách trở nên
thân thiện hơn với những
vấn đề của mình,
chúng ta có thể
tìm ra cái mình cần làm.
Chúng ta cần phải buông lỏng và thôi bám chấp, để tự chăm sóc mình và những nhu cầu thật sự của mình, hoặc thay đổi
cách cư xử theo một cách
đặc biệt một cách
tốt hơn.
Vấn đề tự nó nắm giữ chìa khóa cho việc chữa lành của chính nó nếu
chúng ta đem
tỉnh giác của
chúng ta đến với nó, hơn là
xua đuổi hay
bám víu mù quáng vào nó. Bằng việc
cho phép đủ khoảng không cho một
vấn đề lớn,
chúng ta đã sẵn sàng cho việc chữa lành của mình.
Mục tiêu chính yếu của
thực hành tâm linh là làm
trong sáng khoảng
không tâm thức của mớ rác rưởi
tri thức cảm xúc mà
chúng ta đã gom góp từ khi còn bé, và
cung cấp khoảng không cho cái
kinh nghiệm của sự
buông xả thật sự và
hoan hỷ.
Chúng ta phải
nhận ra rằng
tư tưởng hay nguồn
cảm hứng tích cực trở thành sự
nuôi dưỡng cho tâm, giống như
thực phẩm lành mạnh. Những
quan điểm và
đam mê tiêu cực giống như những
cặn bã vô dụng đều có những
hiệu quả gây độc.
Vậy
chúng ta phải tự thấy mình và những
vấn đề của mình một cách
rõ ràng, mà không tự lôi kéo mình dấn sâu vào
đau khổ. Nếu
chúng ta gấp gáp
giải quyết vấn đề,
chúng ta có thể làm kích động chúng. Đôi khi
cần phải kiên nhẫn để cho những
vấn đề bộc lộ và
giải phóng khi chúng đã sẵn sàng.
Thăng bằng và
tích cực không luôn luôn dễ dàng. Thế nên rất quan trọng cần tạo ra một
cố gắng quyết tâm không
để tâm trí ta bám vào những
vấn đề như chúng là
tiêu cực,
giải pháp là để cho
tâm trí được bận rộn với một điều gì khác như đọc sách, làm vườn, vẽ hay vẻ đẹp của
thiên nhiên, của nghệ thuật hoặc
âm nhạc.
Tâm chập chờn của ta cần được
thực hành trong
thái độ tích cực, và điều này xảy đến trong cách ta đối xử với những
chi tiết của
đời sống hàng ngày như thế nào. Nếu trời mưa,
chúng ta có thể
thưởng ngoạn cơn mưa. Những ngày nắng
tốt đẹp như thế nào thì những ngày mưa cũng đẹp như thế đó. Nếu cơn mưa có vẻ như làm phiền mình, hãy mặc
áo mưa và mang dù, không nên chìm trong
tiêu cực.
Chúng ta nhìn cơn mưa như nó là nó và
tiếp tục với cuộc sống mình.
Khi
chúng ta tạo ra một
hoàn cảnh tốt nhất,
tâm thức ta trở nên mạnh hơn. Khi
chúng ta biết cười về mình và những
vấn đề của mình,
chúng ta chữa lành. Khi
chúng ta biết
hoan hỷ với chính mình và
kềm chế nhìn
vấn đề theo lối
tiêu cực,
chúng ta trở nên
tích cực hơn với mọi sự.
Suy nghĩ tích cực là
thói quen tuyệt vời cần phát triển, vì nó chữa lành
chúng ta và làm
chúng ta hạnh phúc trong cuộc sống mình. Ngài Dodrup-chen
giải thích :
Bằng việc
thực hành loại
tu tập này, tâm ta trở nên
nhân từ dịu dàng.
Thái độ chúng ta sẽ rộng mở
chúng ta trở nên dễ dàng sống với mọi sự.
Chúng ta sẽ có một
tâm can đảm. Việc
rèn luyện tâm linh của
chúng ta sẽ
thoát khỏi những
chướng ngại. Mọi
hoàn cảnh xấu sẽ
phát lộ một cách
rạng rỡ và nhiều
tốt lành.
Tâm thức ta sẽ luôn luôn được
hài lòng bởi
hạnh phúc của sự
an bình. Để
tu hành con đường giác ngộ trong
thời đại nhiều loại
cặn bã này,
chúng ta phải có lớp vỏ bọc của sự
tu tập để chuyển
hạnh phúc và
đau khổ trở thành con đường giác ngộ. Khi
chúng ta không bị
phiền não bởi khổ đau của nỗi
lo lắng, những khổ đau
tinh thần và tình cảm không chỉ biến mất giống như những vũ khí rơi khỏi tay những người lính, mà trong hầu hết những
trường hợp, ngay cả những lực
tiêu cực thực sự như bệnh tật, cũng sẽ tự động biến mất.
Những vị thánh thời
quá khứ đã nói : “Bằng sự không
cảm thấy bất cứ ghét bỏ hay không bằng lòng nào về bất
cứ sự gì, tâm ta sẽ ở yên không
rối loạn. Khi
tâm thức ta không
rối loạn,
năng lực sẽ không
rối loạn và do đó những
yếu tố khác của
thân thể cũng không
rối loạn. Vì sự
an bình và hài hòa này, tâm ta sẽ không bị
rối loạn, như thế bánh xe của niềm vui sẽ chạy đều.” Các vị cũng nói : “Chim muông dễ làm
tổn thương ngựa và lừa vì những vết thương trên lưng chúng, những lực lượng
tiêu cực sẽ dễ dàng
tìm thấy cơ hội để gây hại cho những người có tính
sợ hãi với những
lo lắng tiêu cực. Nhưng sẽ khó làm
tổn hại những người mà
bản chất họ mạnh mẽ với
thái độ tích cực.”
Khi
chúng ta không
quan tâm về việc
bảo vệ hay
bám víu vào
bản ngã,
đau khổ trở thành một
phương tiện để chứng thực
an bình và
hạnh phúc. Với
thái độ tích cực,
đau khổ có thể trở nên giống như kẹo ngọt. Trong
đạo Phật, sự
tương tự được ví với ladu, loại bánh kẹo ngọt nhưng rất nóng từ
Ấn Độ. Ngài Dodrupchen chỉ cho
chúng ta lợi ích to lớn của việc phát triển một sự nhẫn chịu dễ dàng :
Chúng ta phải nghĩ, “Những
đau khổ mà tôi
trải qua trong
quá khứ đã giúp tôi rất nhiều để
đạt được hạnh phúc ngày nay dưới nhiều dạng
phi thường... rất khó
đạt được. Cũng vậy,
đau khổ mà tôi
trải qua sẽ
tiếp tục giúp tôi
đạt đến những kết quả
kỳ diệu tương tự. Vậy ngay cả nếu
đau khổ của tôi
trầm trọng, nó cũng là sự
dễ chịu cực kỳ.” Như có nói :
Như ladu bằng mật mía
Trộn với bạch đậu khấu và hạt tiêu.
Hãy
suy nghĩ lập đi lập lại về điều này và
nuôi dưỡng kinh nghiệm hỷ lạc và
an bình của tâm. Qua sự
rèn luyện theo cách này, sẽ khởi lên một
tính chất tràn ngập hay sự
dồi dào hoan lạc tinh thần nó làm cho những khổ đau của các thức
giác quan nhẹ nhàng
như không có. Như vậy, có một
tâm không thể bị
tổn thương bởi
đau khổ là
đặc tính của những ai
vượt qua được sự đau yếu bằng nhẫn chịu.
“Đảo ngược
tư tưởng ghét đau khổ” là nền tảng của “việc chuyển
đau khổ thành
con đường (
giác ngộ).” Vì trong lúc
tâm trí ta bị
rối loạn, và sự
can đảm,
hoan hỷ bị dập tắt bởi
lo lắng,
chúng ta không thể
chuyển đổi đau khổ thành
con đường giác ngộ.
Dĩ nhiên, nhiều người trong
chúng ta chỉ thích
vùi đầu trong cát khi
đau khổ xảy đến. Nếu
chúng ta không có nhiều
kinh nghiệm trong
thái độ tích cực,
chúng ta có thể tự hỏi có người nào có thể
hoàn toàn chấp nhận cuộc sống,
tiêu cực cùng với
tích cực. Nó giống như người chơi môn thể thao nhào lộn trong bầu trời biết cách
trôi nổi trong bầu trời
bao la. Khi
chúng ta thấy người nào hào hứng biểu diễn trong lúc rơi trong không trung,
chúng ta tự hỏi làm thế nào có thể được như vậy.
Bí quyết là thư giãn buông thả. Sau một lúc,
chúng ta có thể trở nên rộng mở hơn với
đời sống.
Chúng ta có thể bắt đầu bằng việc
mở rộng viễn cảnh những
kinh nghiệm tiêu cực của mình. Ví dụ,
chúng ta thường nghĩ
nỗi buồn là
tiêu cực.
Tuy nhiên, khi
buồn phiền đúng đắn, nó không thực sự là
tiêu cực, vì
chúng ta đang chữa lành một vết thương. Trong một số
trường hợp,
nỗi buồn có thể thực sự
xuất hiện hoàn toàn đẹp đẽ. Chẳng hạn, nhiều người tin rằng những bản nhạc buồn trong nhạc opera hay nhạc
phổ thông là đẹp. Vậy xúc cảm buồn không
nhất thiết “xấu”, trừ khi ta thấy nó như vậy.
Vượt lên
tiêu cực và
tích cực,
rốt ráo mọi
hiện tượng là rỗng rang. Thế nên vì
hiện tượng là rỗng rang,
chúng ta có thể chọn lựa một cách nhìn
tích cực và không
cảm thấy lo lắng ngay cả khi một
hoàn cảnh xem ra xấu. Nó cũng có thể giúp nhìn và
cảm thấy vấn đề theo cách
hoàn toàn rộng mở rỗng rang.
Chúng ta có thể
thiền định trong sự rộng mở, rỗng rang.
NHÌN THẤY SỰ RỘNG MỞ RỖNG RANG CỦA NHỮNG
VẤN ĐỀ CỦA BẠNKhi
chúng ta cảm thấy tràn ngập bởi những
vấn đề như
buồn phiền hay
cô đơn,
chúng ta có thể hòa nhập vào sự rộng rang của
nỗi buồn. Hãy để
hơi thở trở nên thoải mái. Thay vì
cố gắng xua đuổi nỗi buồn, hay gán tên cho chúng như một điều xấu, hãy
an trú tâm thức bạn ở chỗ rỗng rang mà tĩnh lặng. Hãy để cho ngọn gió của
nỗi buồn lướt đến, giống như bạn chào đón nó với hai tay
mở rộng. Hãy cảm nhận nó mà không
bám víu hay phán xét, mà chỉ như nó là nó. Hãy
thoải mái càng nhiều càng tốt nếu bạn có thể. Hãy chậm chậm trải nghiệm và nếm hương vị của chính
nỗi buồn.
Buông lỏng và hòa nhập với cảm nhận, tự tan biến mình trong nó,
hư không nhập vào
hư không. Hãy thấy và
chấp nhận nó,
trở thành một với nó. Bạn phải
vượt qua những
ý niệm về
buồn phiền, và bạn sống với
thật tánh của
nỗi buồn, chính là cái
an bình tối hậu. Sau một lúc, bạn có thể
tìm thấy dễ dàng hơn khi ở cùng với
nỗi buồn. Có lẽ nó bắt đầu hòa tan vào một
cảm giác an bình. Buông lỏng trong
cảm giác an bình này càng lâu
nếu có thể được.
Chúng ta có thể ứng xử với
đau khổ thân xác trong cùng cách như vậy.
Lẽ dĩ nhiên,
chúng ta phải
sử dụng cảm thức thông thường về sự đau, và với cơn đau bất
thường hay nghiêm trọng điều
hợp lý là phải đi khám
bác sĩ nếu có thể được. Những cách tiếp cận với
đau đớn và
đau khổ bằng
thiền định không gạt bỏ những
điều trị và
biện pháp khác vì những
phương pháp này có
lợi ích.
Trong việc đối xử với cơn đau, đôi khi nó
đột nhiên giảm bớt nếu
chúng ta không chú ý tới nó quá nhiều hay nghĩ
tiêu cực về nó. Vào những lúc khác,
cần thiết phải
hoàn toàn đối diện với nó. Những người với cơn đau mãn tính (
kinh niên), có thể thấy cơn đau có phần
giảm bớt nếu họ
thực hành thiền định trên nó. Hãy hòa nhập với cơn đau. Tự cho mình cơ hội để nhìn thấy cơn đau mà không có sự gán tên của sự ghét bỏ thông thường. Trong một cách thư giãn
chầm chậm, tiếp cận với cái
cảm giác của
thân thể mà bạn đang cảm nhận và
đơn giản chỉ ở với nó. Khi bạn
duy trì hơi thở buông lỏng, hãy
kinh nghiệm cảm giác của
thân thể. Ở với
cảm giác trong cách
an bình này trong một
thời gian lâu, dù phải
thời gian dài bạn mới
cảm thấy thoải mái khi làm thế.
Cuối cùng từ từ đem
tỉnh giác của mình
trở về sự yên nghỉ của cơ thể và môi trường quanh bạn.
Bạn có thể thấy rằng cái
kinh nghiệm cảm giác thân thể trong cách này không
phiền toái như
thông lệ, và bạn có thể đem
kinh nghiệm này vào những khía cạnh khác của cuộc sống mình. Nó có thể giúp bạn
tiêu dùng một số
thời gian với cơn đau mỗi ngày trong cách
an bình và nhẹ nhàng này.
Sự tiếp cận rỗng rang với những
vấn đề khó khăn là một trong những cách
thực hành cao nhất của
đạo Phật, mà bất cứ ai cũng có thể
sử dụng trong đời sống hàng ngày, cùng với việc trau dồi
quan điểm tích cực.
ĐỐI XỬ VỚI SỢ HÃINhiều người
xáo trộn vì
sợ hãi và
lo lắng, và họ muốn
giải thoát khỏi mình khỏi những
cảm xúc bức bách cuộc sống của họ. Phương thuốc cho
sợ hãi, cũng như nhiều
vấn đề khác nằm trong
chúng ta.
Tùy theo hoàn cảnh và khí chất, có nhiều cách tiếp cận. Ở đây có thể
ích lợi khi
thảo luận một số cách tiếp cận nào đó như là một cách
xem lại một số
phương tiện khéo léo về
thực hành được
giới thiệu trong sách này.
Có lẽ một trong những
nhận thức trước tiên là
sợ hãi có thể là một người bạn và một người giúp đỡ. Trong lúc nguy hiểm,
sợ hãi có thể giúp
sức mạnh cho đôi chân
chúng ta,
cho phép chạy nhanh hơn ta từng nghĩ.
Chúng ta cũng có thể
đánh giá cao hơn khuôn mặt rất tầm thường của
sợ hãi trong đời sống hàng ngày. Ví dụ, nếu
chúng ta sợ bị thi trượt,
chúng ta phải
cảm thấy động cơ để học siêng năng đủ để thi đậu.
Nếu
sợ hãi hoặc
lo âu là
triệu chứng của một
vấn đề sâu hơn,
chúng ta không được
che dấu chúng. Bằng việc
chú tâm đến
lo âu có vẻ như
bức bách và
gay gắt,
chúng ta có thể
tìm thấy chìa khóa cho
vấn đề khiến
chúng ta có thể đi đến việc chữa lành.
Thường
chúng ta có thể
đối diện đơn giản với
sợ hãi và nó có thể tan đi. Sau cùng,
sợ hãi và
lo lắng là những cái gì được tạo ra trong
tâm thức chúng ta. Biết được rằng những
cảm xúc đó là những tạo
tác giả tạo có thể
cho phép chúng ta xua tan chúng. Khi
lo lắng trở thành một
thói quen, một khuôn mẫu
tiêu cực của
tư tưởng,
chúng ta phải tự nhớ lại rằng nó không thực và không
bền vững.
Chúng ta nghĩ
lo lắng là thực vì
chúng ta nắm bắt nó, nhưng nếu
buông xả nắm bắt này,
chúng ta có thể
ngạc nhiên thấy rằng
sợ hãi cuối cùng là con cọp giấy.
Vậy
chúng ta có thể
đối diện với
sợ hãi và
tìm thấy chìa khóa chữa lành trong nó. Hoặc
chúng ta thoát khỏi vô minh hay giải tan
sợ hãi. Hay
chúng ta có thể tránh né
sợ hãi khi nó quá lớn để xử lý tại chỗ, và sau đó
trở lại chữa lành nó khi
chúng ta đã sẵn sàng.
Đôi lúc,
chúng ta không thể tránh né
sợ hãi, vì dường như những
hoàn cảnh áp đặt lên
chúng ta. Bấy giờ,
chúng ta có thể
cố gắng để hiểu được
sợ hãi trong thực tánh của nó như là
năng lực thanh tịnh mà không có sự dán nhãn
tiêu cực. Những
diễn viên giỏi và
diễn giả trước
công chúng biết rằng sự
sợ hãi sàn diễn có thể làm họ
lanh lợi, mẫn cảm sẵn sàng cho việc biểu diễn đầy
cảm hứng. Những quân nhân được nhiều huy chương vì
lòng can đảm trong trận chiến kể lại rằng họ
cảm thấy sợ hãi, nhưng
sợ hãi được
chuyển hóa thành
lòng can đảm. Nếu
chúng ta thể hòa nhập vào
kinh nghiệm thì sự
sợ hãi lớn lao có thể làm cho
chúng ta cảm thấy đầy
sống động, mặc dù
chúng ta chỉ còn một vài phút phải rời bỏ
cõi trần. Bất cứ
hoàn cảnh nào, chìa khóa là không bám lấy
sợ hãi.
GIẢI PHÓNG NHỮNG SỢ HÃI MẠNH MẼNgười ta phát triển đủ loạïi
ám ảnh, giống như sự lo sợ không
bình thường khi ở một nơi bị đóng kín hay nỗi sợ đi máy bay. Trong những
trường hợp này,
vấn đề là lo sợ nỗi
sợ hãi, sự siết chặt của
tâm thức phóng đại và nhân lên nỗi sợ
ban đầu cho đến khi miệng khô, cổ họng
thắt chặt và
thân thể run rẩy. Cách
thực hành để
đối phó với những nỗi sợ kịch liệt này cho
chúng ta những bài
học rộng hơn về cách
chúng ta có thể tự
rèn luyện như thế nào để
đối phó với bất kỳ khó khăn.
Chúng ta hãy nhìn vào một ví dụ, chứùng sợ khoảng rộng, có nghĩa “sợ hãi nơi chợ búa” và được
kinh nghiệm như chứng sợ khoảng không và những nơi
công cộng. Nỗi sợ có vẻ
như thật đến
độ người ta đôi lúc
trở thành tù nhân trong chính căn nhà của họ.
Trước hết,
giải pháp là thấy trên cấp độ
ý niệm, rằng lo sợ về sự
sợ hãi là một bóng ma
ảo ảnh mà
chúng ta có thể nhẹ nhàng
rèn luyện để chiến thắng.
Thiền định và
quán tưởng tích cực là cách có ích.
Chúng ta cũng có thể dùng
kinh nghiệm của cuộc sống hàng ngày để
rèn luyện thân, tâm
thoát khỏi chứng
sợ hãi không căn cứ. Sự
rèn luyện phải
thực hiện trong những bước nhỏ đủ để dễ dàng xử lý.
Thoạt tiên, đi ra ngoài cách một quãng ngắn, đủ xa trước khi
sợ hãi đến. Hãy chào đón nỗi sợ. Buông lỏng
hơi thở và
thân thể và
cho phép nỗi sợ khởi lên. Hãy
kinh nghiệm nỗi sợ ;
cố gắng rỗng rang với nó. Hãy tự nhắc mình : “Đây chỉ là cái ngã
sợ hãi của ta. Ta có thể
buông bỏ cái sợ này.” Nếu thân bạn run, đừng cố ép ngưng lại. Cứ để mình run,
buông bỏ mong muốn xua nó đi,
cùng lúc duy trì thân thể và
hơi thở buông lỏng. Hãy để nỗi sợ đi
xuyên qua bạn, đây là cách để
giải phóng nó. Hãy để cho
sợ hãi làm công việc
tồi tệ nhất của nó, biết bạn sẽ còn sống và rằng nó không thể gây
tổn hại bạn cho dù nó có vẻ cứng chắc và
đau đớn.
Khi bạn sống qua được nỗi
sợ hãi của bạn, hãy
đánh dấu điều này, dù bạn còn rất sợ và
tiếp tục sợ đi đến những chỗ ấy. Hãy
vui mừng vì bất cứ
tiến bộ nào
đạt được. Mỗi ngày tiến
xa hơn một chút, nhưng đôi khi cũng phải nghỉ luyện tập. Khi bạn bước bước lùi vì
sợ hãi, hãy
chấp nhận những bước lùi như là một phần của quãng
hành trình đi về phía trước. Tự động viên mình
đều đặn, và một ngày nào đó bạn sẽ có thể đi
trọn vẹn trên
con đường đến nơi nào mà bạn đã
lựa chọn làm một
mục đích. Hãy tự thưởng mình, có lẽ bằng việc tự thiết đãi hay
vui mừng ở tại đó. Sau chiến thắng lớn lao này, hãy giữ sự
thực hành với sự khéo léo mới. Hãy
củng cố sức mạnh của mình
cho đến khi bạn
hoàn toàn thoát khỏi sợ hãi.
Giải pháp này được
sử dụng trong khoa
tâm lý học
cư xử hiện đại, như là phương thuốc cho bệnh
sợ hãi không căn cứ (phobias) và nó cũng
phù hợp với sự
tu hành tâm linh của
đạo Phật. Một số
chúng ta đủ
may mắn không bị bệnh
sợ hãi dạng
đặc biệt này (phobia) sẽ
nhận ra tính phổ quát của kỹ thuật và sự
liên quan của nó với cuộc sống và sự
thực hành tâm linh của
chúng ta.
Chúng ta cần phải đi từng bước nhỏ, tự động viên mình, và
thực hành kiên định.
Chúng ta là
con người và cần sự giúp đỡ khi
phiền não. Nguồn giúp đỡ lớn nhất và
sức mạnh là tâm ta.
Chúng ta có thể khơi dậy
năng lực chữa bệnh nằm trong
chúng ta. Đây là
mục đích của những bài tập chữa bệnh, nó sẽ giúp
chúng ta đối phó với
sợ hãi và những
vấn đề khác.
6
ĐỐI XỬ VỚI NHỮNG ĐAU ỐM THÂN XÁC
NHƯ THẾ NÀOVới nhiều người trong
chúng ta, bệnh tật của
thân thể giống như một cục nam châm thu hút những
lo lắng. Đôi khi
chúng ta cảm thấy cơn đau nhắc nhở
con người chúng ta mong manh và
giới hạn biết bao. Điều này không
nhất thiết phải xấu vì mùi của sự
tử vong có thể cho
chúng ta một
đánh giá tốt hơn cho cái tại đây và bây giờ. Thậm chí những bệnh nhẹ như cảm lạnh có thể giúp
chúng ta thực hành việc
buông bỏ bản ngã, và trong khi làm như vậy nó cho
chúng ta sự
tự do để
thực hiện mọi mặt cuộc sống của
chúng ta.
Mặc dù những bệnh tật
thân thể có thể khó chữa lành hơn những
vấn đề cảm xúc bằng những
sức mạnh của tâm,
tuy nhiên tâm thức giữ một
vai trò lớn trong sự chữa lành bệnh tật
thân thể. Trong một vài
trường hợp, với một tâm
đơn thuần có thể chữa khỏi những bệnh tật
thân thể, thậm chí với những bệnh mà thuốc men thông thường đã thất bại.
Đạo Phật tạo rất ít
phân biệt giữa thân và tâm. Thật vậy, Bốn Tantra,
quy tắc của y học
cổ truyền Tây Tạng công bố rằng tất cả bệnh tật là kết quả của sự
chấp ngã. Shedgyud, một trong những Tantra này nói :
Nguyên nhân chung của bệnh tật,
Nguyên nhân duy nhất của mọi bệnh tật,
Là
vô minh do không
nhận ra bản tánh thật sự của
vô ngã.
Chẳng hạn, con chim sẽ không bao giờ tách rời khỏi bóng mình
Ngay cả nếu nó bay trong bầu trời (và bóng không thể thấy) ;
Cũng như vậy,
người không giác ngộ sẽ không bao giờ
thoát khỏi bệnh tật,
Thậm chí dù họ vẫn đang hưởng thụ
hạnh phúc.
Những
nguyên nhân đặc biệt của bệnh tật là sự không
sáng suốt tạo ra
Tham dục,
sân hận, và
vô minh,
Và nó tạo ra bệnh đường mật, khí, và đờm dãi như là kết quả.
Ngài Zurkharpa Lodroš Gyalshen
bình luận về những bản văn y học cổ, đã viết :
Y học
đồng nghĩa với chữa lành.
Nó chữa lành những
rắc rối của khí (
năng lượng), mật,
thủy dịch của thân,
Nó là sự chữa lành những
phiền não của tham, sân, si của tâm.
Nếu tâm bạn khỏe mạnh, thân bạn cũng sẽ mạnh.
Tuy nhiên, thậm chí có người
tâm linh sâu thẳm cũng bị bệnh.
Chúng ta giải thích điều này như thế nào ?
Đức Phật đã
chứng đắc toàn giác, vượt khỏi
đau khổ và
luật nhân quả được biết là
nghiệp báo. Nhưng
đức Phật cũng vẫn là một
con người, giống như tất cả
chúng ta, Ngài cũng có một thân
lệ thuộc vào sự hư hoại và cái chếát. Tuy vậy, một người đã
giác ngộ,
thoát khỏi chấp ngã và như thế
không kinh nghiệm bệnh tật như
đau khổ. Nó là
thái độ của
tâm thức có
giá trị nhất.
Ngay cả với
chúng ta, về những người chưa
chứng ngộ, thì
chúng ta càng
buông xả, bệnh tật của
chúng ta càng bớt
nghiêm trọng. Đây là bài học
thực tiễn tất cả
chúng ta có thể hiểu được và nhớ trong tâm. Với
quan điểm tích cực, bạn sẽ không
cảm thấy tồi tệ và
thân thể có thể tự chữa lành chính nó
tốt hơn.
Có vẻ rất kỳ lạ, nhưng
thực tế chúng ta có thể chào đón bệnh tật khi nó đến.
Đạo Phật xem bệnh tật như một cái chổi quét đi những tích tập của những
thái độ và
phiền não tiêu cực. Ngài Jigme Lingpa viết :
Không có một nhiên liệu nào
tốt hơn bệnh tật để đốt tiêu nghiệp xấu.
Không nên
chấp nhận một tâm
buồn phiền hoặc
quan điểm tiêu cực lên bệnh tật,
Mà hãy xem chúng như những dấu hiệu tiêu hao nghiệp xấu của mình và
hoan hỷ với chúng.
Với những người không phải
Phật giáo và
tương tự Phật giáo, sự đau yếu có thể
cung cấp một cơ hội làm
giảm bớt,
buông xả và hưởng thụ cuộc sống thậm chí đang ở giữa
đau khổ.
Đôi lúc, khi
thân thể bạn bắt đầu
cảm thấy mất thăng bằng, bạn có thể
thoát khỏi bệnh tật trước khi nó bám rễ
vững chắc vào thân, tâm của bạn. Nhưng dù bạn xuống cấp vì lạnh hay cúm, đừng
để ý quá nhiều vào nó. Hãy
cố gắng đừng
cảm thấy mình là nạn nhân, như thể bệnh cúm chọn riêng bạn.
Đa số người đều bị bệnh và bằng cách nhớ lại điều này bạn có thể đặt
đau khổ vào trong
viễn cảnh tổng quan và phát triển
tâm bi cho
gia đình nhân loại mà bạn thuộc vào.
Mọi sự đều
vô thường,
bao gồm cả bệnh tật, thậm chí có lúc bạn
cảm thấy nó xấu
vĩnh viễn. Hãy nhớ rằng
cảm giác xấu
cuối cùng rồi cũng tan biến đi.
Khi bạn bệnh, hãy cố
tìm cách cảm thấy một cái gì tốt trong đó. Hãy
thiền định trong lúc nằm trên giường, hoặc đọc một cuốn sách
thích thú. Hoặc nếu lúc đó bạn thấy khó chịu, với sự
đơn giản và
thưởng thức, bạn có thể nhìn ra cửa sổ xem những dải ánh sáng trong phòng, hay lắng nghe những
âm thanh sinh hoạt bên ngoài. Nếu bạn
cảm thấy khổ sở vì những
triệu chứng như buồn nôn, đừng tiên
liệu trước trong
thời gian tới sẽ
đau đớn hay khổ sở hơn.
An trú một cách tĩnh lặng bên trong
thân thể bạn và
đơn giản cảm thấy thư giãn đến mức có thể. Nếu bạn phải ở trong phòng bệnh, có thể đem vào một vài thứ tạo
cảm hứng như
bức tranh hay
hoa tươi bên cạnh bạn để tạo niềm
an ủi.
Bạn phải tự chăm sóc tốt cho chính bạn và
sức khỏe của bạn.
Lời khuyên này
hoàn toàn hiển nhiên ; tại sao một số người trong
chúng ta không biết nó ? Ngay cả một việc
đơn giản là đi tắm khi ta mệt nhọc có thể làm phấn chấn và
thoải mái. Một số người thiếu
thận trọng với
sức khỏe của họ. Một số khác lại
tin tưởng lầm lẫn rằng tự chăm sóc
sức khỏe bằng cách nào đó là
ích kỷ. Nhưng
thái độ này là bám chấp vào
bản ngã mà lại gọi là
quên mình, không
ích kỷ.
Thái độ đúng đắn là biết
thương yêu mình, không bám chấp.
Trước tiên chúng ta phải biết tự thương mình thực sự là gì ? Nói cách khác là làm sao
chúng ta có thể
thương yêu người khác
nếu không thương mình ?
Khi người ta mắc bệnh nặng,
tinh thần họ có thể
chìm đắm. Họ có thể
cảm thấy vô vọng. Họ tự trách mình vì những
nguyên nhân gây ra đau yếu hay bị
thuyết phục bởi những người khác bảo rằng đó là lỗi của chính họ.
Trách móc không có chỗ trong sự chữa lành bệnh. Nếu bạn có thể
tìm thấy điều gì đó trong
cách sống của mình trực tiếp gây ra bệnh tật, điều đó là tốt. Sau đó,
thái độ của bạn sẽ là : “Tôi bị
tổn hại do
lối sống, nhưng giờ đây tôi có động cơ để thay đổi.”
Tuy nhiên, trong lúc
chấp ngã là
nguyên nhân tối hậu của
đau khổ và bệnh tật, thì
luật nhân quả bảo
chúng ta rằng có thể có
vô số nguyên nhân cho bất
cứ sự kiện
đơn giản nào – và
chúng ta không thể
nhận ra toàn bộ chúng. Chỉ cần biết
đơn giản rằng
chúng ta là người, và bây giờ
chúng ta bệnh.
Thái độ đúng là
tiếp tục chữa bệnh.
Nếu có thể, chớ quá
nghiêm trọng hóa bệnh tật, dù những bệnh
trầm trọng. Khi
định mệnh và bóng tối giáng xuống, đó có thể là khoảnh khắc cực kỳ để đùa vui. Nếu bạn có thể khôi hài khi mắc bệnh nặng,
lòng can đảm sẽ gây hứng khởi cho bạn và
mọi người khác. Tôi có một người bạn
Tây Tạng ở
Ấn Độ, anh ta luôn
mang đến cho những người bạn của mình những tràng cười
vui vẻ khi anh nói và làm bất cứ về điều gì. Một ngày nọ anh ta bị
tai nạn xe hơi ở Darjeeling. Khi bạn bè vội vã vào bệnh viện, anh ta trong
tình trạng không thể đùa giỡn. Mặc dù rất thích gặp bạn bè, anh ta
giả vờ bị
rối loạn và quay mặt.
Đột nhiên, một tràng cười lớn đầy cả căn phòng và bạn bè
nhận ra anh trêu chọc họ và một không khí
sống động và
thoải mái tràn ngập.
Hãy chọn phương thức khôn ngoan và
hợp lý để
quyết định cách
điều trị tốt nhất và
mở rộng với bất cứ phương thức nào có thể giúp ích. Điều này
chắc chắn bao gồm nền y học
quy ước thông thường. Đôi khi một số người
thích thú trong việc chọn
thiền định để chữa bệnh, họ nghĩ từ chối thuốc men hay những tiện ích của khoa học
hiện đại, với
ấn tượng sai lầm rằng họ phải dựa
duy nhất vào
tâm thức hơn là bất cứ cái gì bên ngoài. Nhưng ngay cả
đa số những thầy thuốc y khoa giỏi của
Phật giáo Tây Tạng cũng cho toa bằng “chất liệu” bên ngoài. Không có gì sai khi dùng thuốc nếu chúng có thể giúp
chúng ta.
Sự thăng bằng đến trong tầm tay khi
chúng ta bệnh. Nếu muốn nghỉ ngơi, cứ lên giường. Mặt khác, ngay cả đối với bệnh nặng, đừng quá xem là
nghiêm trọng những
giới hạn về
sức khỏe do người khác hay chính mình tự đặt ra. Thậm chí có thể lấy làm
ngạc nhiên khi ta bắt đầu đi đi lại lại sớm sau khi mổ. Một
tâm thức tích cực tốt và sẽ
phục hồi nhanh chóng dù bị bất cứ bệnh nào. Tâm có thể giống như một vị tướng với
thái độ không
sợ hãi chuyển đội quân thất bại quay lại và dẫn dắt họ chiến thắng.
Nếu bạn thấy
cô đơn bởi bệnh tật, hãy đi ra ngoài.
Cố gắng liên hệ với bạn bè,
gia đình, hay bất cứ người nào chung quanh bạn. Hãy đứng lên và hội nhập với thếá gian. Điều này là phương thuốc
tuyệt vời, thậm chí nếu bạn không thể
đứng dậy hoặc đang trong cơn đau, hãy gọi điện thoại nói chuyện với bạn bè, người thân, thầy tu hay những người làm việc
xã hội (
từ thiện).
Nếu có thể, hãy đọc sách để gây
cảm hứng, lắng nghe
âm nhạc vui tươi, ngắm xem vẻ đẹp của những bông hoa hay tranh ảnh, hoặc ánh sáng
đẹp đẽ chiếu qua cửa sổ. Nếu bạn không thể thấy bất cứ gì tạo
cảm hứng, hãy nghĩ về điều gì hay người nào mà bạn
yêu thương và hưởng thụ chúng. Nếu tâm bạn
vui vẻ, bạn đang trên
con đường chữa lành. Cũng vậy, bạn có thể nghĩ về những người bị bệnh khác. Hãy
hình dung rằng sự
đau khổ của bạn làm những
đau khổ của họ có thể
chịu đựng được, rằng bằng cách nào đó bạn có thể cất đi những
lo nghĩ của họ và ôm chúng vào trong sự
đau khổ của mình. Điều này là
sự thiền định về tâm
đại bi của
đạo Phật mà bất cứ ai cũng có thể
sử dụng. Nó có thể làm nhẹ
gánh nặng cảm xúc của bạn. Trong một số
trường hợp năng lực của nó có thể thực
sự giải thoát giúp bạn chữa lành những
vấn đề thân xác.
Hãy
thân thiện với
giận dữ,
sợ hãi hoặc thiếu
can đảm nếu nó khởi lên, bất kể nó mạnh mẽ và
dai dẳng, vì một tiếp cận
kiên nhẫn có thể
cho phép ngay cả những
cảm xúc hỗn loạn nhất chuyển thành
năng lực chữa bệnh. Nếu bạn không
kiên nhẫn, có thể xem chúng là
tích cực vì điều đó có nghĩa là bạn muốn được
tốt hơn.
Thái độ thân thiện tốt lòng này có thể trải rộng ra với bệnh tật trong cơ thể bạn
cho đến khi được chữa khỏi. Trong
đạo Phật, thân xác được coi là một
cõi trời thanh tịnh. Một
thiền định Phật giáo tôn trọng ngay cả con
vi khuẩn (hay “côn trùng” như người
Tây Tạng suy nghĩ về chúng)
bình thường vẫn sống trong cơ thể người khỏe mạnh. Nếu
chúng ta có
vi khuẩn hay virus không
tốt lành, và
mục đích là chữa lành, nhưng
chúng ta không
cần phải ghê sợ nó hoặc
cảm thấy bị nhiễm trùng.
Chúng ta có thể biết rằng một bệnh nguy hiểm đang
tham dự vào cơ thể mình mà không trở nên quá
đồng hóa với nó.
Phần lớn
chúng ta sợ hãi viễn cảnh xấu nhất đối với
thân thể là quá bệnh hay không thể chuyển động. Tuy vậy, hãy nghĩ rằng có bao nhiêu người tàn tật thậm chí có khả năng vượt lên
giới hạn nhờ
thái độ tích cực. Một ví dụ
nổi tiếng về Stephan Hawking, nhà
vật lý thiên thể học
danh tiếng người Anh, mà lòng nhiệt tình đối với cuộc sống
tâm thức đã
vượt qua căn bệnh liệt
toàn thân và không nói được. Một người bạn của tôi, đức Cha Nellie Greene bị
tổn thương thần kinh trầm trọng, nhưng với một
tâm thức trong sáng và qua
thái độ kiên nhẫn, đã
trở thành người trợ tế của nhà thờ Espicopal. Nhờ vậy trong lúc
thân thể rất yếu nhưng tâm thì không phải thế.
Không phải bệnh tật nào cũng có thể chữa lành hay làm đứng lại. Sau cùng
thân thể chỉ là một nhà trọ,
chúng ta đã được định phần ở đó và
cuối cùng phải ra đi. Tất cả
chúng ta đều phải chết, nhưng ngay cả khi
chúng ta chỉ còn sống một vài tháng hay vài ngày,
chúng ta có thể thấy ngay cả cơn bệnh
kết thúc cuộc đời mình như là một cơ hội. Biết rằng,
chúng ta đang chết có thể là một
ban phước đích thực, vì khi đó
chúng ta có thể
hoàn toàn lo lắng cho chính mình và
mở ra một con đường mà khi
mạnh khỏe chúng ta thấy là khó khăn.
Chúng ta có thể bảo với người thân rằng ta thương họ biết bao nhiêu và nối lại những mối quan hệ đã bị
căng thẳng.
Chúng ta có thể
tìm thấy giá trị trong những khoảnh khắc nhỏ bé của
đời sống mà
chúng ta có.
Tự thân cái chết có thể là một chữa lành
sâu xa. Ngay cả nếu
hoàn cảnh dẫn đến cái chết là rất khó khăn hay
đau đớn,
an bình vẫn có thể đạt được.
Mọi việc trong đời sống kể cả cái chết, đều có thể
buông xả.
Nhưng chớ rời bỏ cuộc sống quá sớm ! Đó là
tài sản và là tặng phẩm quý giá của
đời sống, và nếu có một cơ hội để sống hãy
quyết định chắc chắn rằng mình sẽ sống
tốt hơn. Trong
trật tự tự nhiên của sự vật.
Tử thần cuối cùng sẽ làm chủ
thân thể. Khi cái chết vẫy gọi,
chúng ta sẽ đi : đây là điều đương nhiên. Tuy vậy, đôi khi
chúng ta có thể lừa gạt thần chết một chút,
chúng ta chớ
lập tức trả lời ngay khi ông ta gọi.
Khi tôi đang học trường
Đại học Kinh Điển tại
tu viện Dodrupchen, một người bạn cùng lớp tên là Chojor, anh ta là một
tu sĩ trẻ,
vui vẻ,
dịu dàng, chăm chỉ, đã
chịu đựng căn bệnh động kinh nặng. Vài tháng hay vài lần trong ngày anh ta đã phải
trải qua cơn động kinh
dữ dội. Những cơn co giật của anh đem lại sự
sợ hãi và
rối loạn vào đời anh và
hỗn loạn trong lớp và những
buổi lễ của
chúng tôi.
Cuối cùng, Ngài Tulku Jiglo một Lama
thâm niên, Ngài mập mạp và rất vui nhộn, giống như
hình tượng bình dân là Ông Phật cười của
Trung Quốc (
Phật Di Lặc). Dù ngài không còn một cái răng nào, ngài luôn cười rất tươi cũng như hay đùa giỡn và chọc phá
mọi người – trong khi vẫn tụng những lời
cầu nguyện không ngớt. Ngài Tulku biết cách
cầu nguyện đặc biệt để
điều trị bệnh động kinh. Với một
lễ quán đảnh, ngài truyền trao
kiến thức này cho Chojor và bọn
chúng tôi. Từ ngày đó đến suốt một tháng, mỗi buổi chiều trước khi
mặt trời lặn,
chúng tôi cầu nguyện nửa giờ và
cúng dường một cái bánh
đơn giản. Sự
cầu nguyện gồm
nghi lễ cúng dường đến các hành tinh hay những vị thiên trong bối cảnh
thiền định của
đạo Phật. Người
Tây Tạng tin rằng bệnh động kinh gây ra bởi
ảnh hưởng của các hành tinh. Kể từ đó Chojor đã
thoát khỏi cơn động kinh. Sự chữa bệnh như vậy là kết quả của sự
mở rộng tâm với
thái độ tích cực, mời gọi
năng lực chữa lành từ nhiều nguồn
năng lực (trong
trường hợp này là từ những hành tinh) và
tin tưởng vào những
hiệu quả chữa bệnh. Đây là sự chữa lành không qua những
phương tiện vật chất, mà qua những
sức mạnh tâm linh và
tinh thần.
Không phải chỉ có những
vị thầy tâm linh hay những
tu sĩ có thể
hồi phục lại từ bệnh tật nặng nề. Một người bạn tốt của tôi đã
sống sót nhờ
thiền định khi được
tuyên bố mắc bệnh sắp chết, và
trường hợp của anh ta không phải là
phi thường. Harry Winter năm 1988 đã bảy mươi tư tuổi, được
chẩn đoán là ung thư phổi. Ông ta chỉ còn sống được sáu tháng, nhưng là một thiền giả, Harry rất
tin tưởng tâm mình có thể
tối thiểu làm căn bệnh chậm lại. Thêâm vào
sự thiền định nhằm vào việc buông lỏng
tâm thức và tẩy trừ những
chướng ngại tâm thức, ông ta bắt đầu một
quán tưởng chữa lành nửa giờ trong một ngày.
Ông ta đã giải phẫu hai lần, các
bác sĩ rất
ngạc nhiên vì bệnh ung thư của ông đã giảm hẳn. Khi bệnh ung thư tái phát sau năm năm, ông đã từ chối lần giải phẫu thứ ba vì có thể làm ông nằm liệt giường. Ông
tiếp tục thiền định sâu xa mỗi ngày, đem những cảm nhận
an bình và nồng ấm vào những ngày cuối đời. Trong một quãng
thời gian, ông đã
thiền định tám giờ một ngày.
Vào ngày sinh nhật thứ tám mươi, Harry
hoàn toàn thoát khỏi bệnh ung thư và
sức khỏe hoàn toàn tốt hơn sáu năm trước với sự
ngạc nhiên của các
bác sĩ. Sự gặt hái của
thiền định đem đến cho ông một
tâm linh phong phú và sâu sắc.
Sự thiền định Harry
áp dụng là đến
quán tưởng cam lồ chữa lành từ
Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva), vị Phật của sự tịnh hóa. Trong
tâm thức, ông thấy vị bổn tôn ngồi trên đỉnh đầu và
cam lồ rót xuống
thân thể mình. Harry nghĩ đến
cam lồ như là “những người trợ giúp”
tiếp xúc và chữa lành những tế bào ung thư trong
thân thể, và cũng tịnh hóa mọi
phiền não nhiễm ô.
Sự thiền định của Harry luôn luôn
bao gồm ước muốn tịnh hóa tất cả
chúng sanh và
toàn thể pháp giới. Những bài tập chữa bệnh mà Harry
đi theo là một trong những nguyên lý chính mà cuốn sách này hướng dẫn trong các chương sau.
7
NHỮNG NĂNG LỰC CHỮA LÀNHNGUỒN SỨC MẠNHVới hầu hết việc
thiền định chữa bệnh, điều rất quan trọng là
dựa vào một sự
ban phước hay
năng lực từ “nguồn sức mạnh” như là một trợ giúp trong việc
chuyển hóa đau khổ.
Nguồn
sức mạnh là một công cụ – một
phương tiện thiện xảo – có thể khơi dậy
năng lực và
trí huệ bên trong
chúng ta để chữa bệnh. Một
Phật tử có thể dùng
hình tượng, sự
hiện diện và
năng lực ban phước của một vị
thiêng liêng như
đức Phật. Những người khác có thể
dựa vào bất cứ thị kiến nào về
Thượng Đế hay
hình ảnh thiêng liêng theo sự
tin tưởng của họ. Nguồn của
sức mạnh có thể là bất cứ
hình tướng tích cực,
thiên nhiên,
tinh túy,
năng lực nào –
mặt trời,
mặt trăng,
hư không, nước, sông ngòi,
đại dương, không khí, lửa, cây cối, bông hoa, người,
thú vật, ánh sáng,
âm thanh, mùi, vị – bất cứ khía cạnh nào của
năng lực mà người ta có thể
tìm thấy cảm ứng và sự chữa lành. Ví dụ, người ta có thể
quán tưởng trong bầu trời một quả cầu ánh sáng
trong sáng,
thanh tịnh, chiếu sáng và tưởng tượng nó là
tinh túy thanh tịnh của
vũ trụ và là
hiện thân của tất cả những
năng lực chữa lành.
Nói chung, những
hình tướng của những bậc
tâm linh (như
Đức Phật, Đức Mẹ Đồng Trinh
ban ơn, Thánh Krishna, hay Đức Mẹ)
hiệu quả hơn những
hình tướng thông thường. Vì những
hình tướng đó biểu hiện và
hiện thân sự an vui
tối hậu của
chân lý vũ trụ.
Tuy nhiên, nguồn
sức mạnh tốt nhất cho bạn là cái bạn
cảm thấy thích hợp nhất : bất cứ
hình ảnh quán tưởng nào hoặc sự
hiện diện gây
cảm ứng ấm áp,
an bình và
năng lực tích cực.
Sau khi xác định một nguồn
sức mạnh, điều quan trọng là để nhiều ngày
suy nghĩ về nguồn
sức mạnh và
thiết lập một mối
liên kết với năng lực của nó, trước khi
chúng ta bắt đầu
tu tập thiền định này. Về sau, khi
thực hành những bài tập chữa bệnh
thực tế (được
diễn giải ở phần hai cuốn sách),
chúng ta có thể làm mới lại sự
liên kết với năng lực của nó bằng
quán tưởng,
kinh nghiệm và
thâm tín nó.
Nếu
quán tưởng một nguồn
sức mạnh đặc biệt lại gây ra gò bó, chật hẹp và
căng thẳng, bấy giờ cho dù đó là đối tượng
thiêng liêng thật sự,
chúng ta vẫn đang nhìn nó trong cách
sai lầm, với một
tâm thức bám chấp đặt nền trên nhầm lẫn và
chấp ngã, và nó sẽ không giúp
chúng ta xoa dịu vấn đề. Mặt khác, dù khi
chúng ta tìm thấy điều gì đó
cảm thấy đúng cho mình, có thể thay đổi nó,
tùy theo vào nhu cầu và sự lớn mạnh
tâm linh và tình cảm của
chúng ta.
Khi
chúng ta nối kết với nguồn
sức mạnh,
chúng ta cần
cảm thấy và nắm giữ sự
bình an và
năng lực mà nó cho
chúng ta. Với
thái độ đúng, bất cứ một đối tượng nào cũng có thể
trở thành mạnh mẽ
phi thường. Ngài Paltrul Rinpoche kể
câu chuyện sau :
Một người đàn bà với tấm lòng
sùng tín lớn lao dặn con trai mình (
thường xuyên đi
Ấn Độ lo công việc buôn bán) đem về cho bà một vật
thiêng liêng từ
Ấn Độ – xứ sở của
đức Phật. Người con đã quên đi,
cho đến khi về gần tới nhà. Anh ta bèn lấy một cái răng từ xác con chó, gói lại trong túi lụa thêu kim tuyến, rồi đưa cho mẹ của mình và bảo : “Mẹ ơi ! con mang cho Mẹ chiếc răng của Phật mà Mẹ
tôn kính đây !” Từ đó đến cuối đời, người Mẹ
thờ phụng chiếc răng với
toàn bộ lòng tin và
tôn sùng như thể đó là răng của
đức Phật. Những biểu hiện
kỳ diệu xuất hiện từ chiếc răng, và đến lúc người Mẹ chết, ánh sáng cầu vồng bao quanh cơ thể của Bà như một biểu hiện của sự
chứng đắc tâm linh cao.
Một số người có thể nghĩ rằng họ quá “khôn ngoan” để
dựa vào một
hình ảnh có thể giúp đỡ họ. Họ
cảm thấy rằng bất cứ
hình ảnh hay
quán tưởng nào cũng chỉ là một sự “trang điểm”, là một vật bên ngoài họ. Nhưng
trái lại, việc
sử dụng hình ảnh tưởng tượng giúp
chúng ta rút ra được
sức mạnh chưa được khai thác mà
chúng ta vốn đã
sở hữu. Cái mà
chúng ta chọn như là
hình tướng hay
hình ảnh của nguồn
sức mạnh cũng không thành
vấn đề gì nhiều, vì nó thực sự là
trí huệ vốn có bên trong chính
chúng ta mà ta đang
tiếp xúc.
Vấn đề là ở chỗ
chúng ta tin tưởng và
mở rộng ra với
trí huệ đó, như là một sự tôn vinh
thật tánh của
vũ trụ. Trong việc trau dồi nguồn
sức mạnh,
chúng ta phải nới lỏng những
thái độ chật hẹp, cứng rắn và những cảm nhận chúng tạo nhiều khó khăn cho
chúng ta, và phát triển một
tâm tích cực
mở rộng với sự chữa lành.
Nếu nguồn
sức mạnh đem đến một
cảm giác ấm áp,
an bình và
sức mạnh cho ta khi
quán tưởng về nó,
chúng ta biến nó thành của ta. Giờ đây
chúng ta có thể
áp dụng sức mạnh của nó để chữa lành những khó khăn tình cảm,
tâm thức và
tâm linh của
chúng ta, và phát triển
sức mạnh của tâm.
ÁNH SÁNG NHƯ LÀ MỘT PHƯƠNG TIỆN CHỮA BỆNHThêm vào
sự thiền định về một nguồn
sức mạnh,
chúng ta cũng có thể
sử dụng trí tưởng tượng của
chúng ta để
quán tưởng những biểu hiện của đất, nước, gió, lửa,
hư không hay ánh sáng như một cách đem lại những
ban phước và những
năng lực chữa bệnh cho
chúng ta. Ví dụ,
chúng ta có thể thấy và cảm nhận
năng lực của đất làm
vững chắc và làm mạnh mẽ. Không khí có thể
loại bỏ, tẩy rửa và tạo
cảm ứng. Lửa có thể làm ấm áp nồng nhiệt,
chuyển hóa, tinh lọc và truyền
sức mạnh. Nếu một
vấn đề đặc biệt, đòi hỏi phải được làm nguội đi những
cảm xúc,
chúng ta có thể
quán tưởng sức mạnh của nước làm êm dịu và tịnh hóa.
Về tất cả những
sức mạnh của những
yếu tố trên, ánh sáng là
phương tiện đầy sức sống nhất, được kê đơn trong
kinh điển đạo Phật để chữa bệnh và
tiếp nhận những
ban phước.
Tất cả
chúng ta đều biết theo
trực giác ánh sáng là lực
tích cực, và
dựa trên một mức độ thực nghiệm,
chúng ta có thể thấy ánh sáng quan trọng trong
thiên nhiên và quanh
chúng ta biết bao. Ánh sáng làm
ngũ cốc và
thực vật phát triển trên trái đất.
Chúng ta có thể thấy lá cây cối trồng trong nhà hướng theo để nhận sự
nuôi dưỡng của ánh sáng. Ngay cả với những người không
tôn giáo, một ngày nắng đẹp họ cũng
cảm thấy như một sự
ban phước, và những người làm việc
văn phòng hạnh phúc hơn khi họ ngồi gần cửa sổ, ở đó họ có thể
nhận biết ánh sáng ban ngày và sự rộng mở bên ngoài.
Theo
tính chất tâm linh, ánh sáng là
trung tâm của nhiều
truyền thống, việc
hành lễ tại những buổi hội và
lễ kỷ niệm khác với những ngọn nến,
ngọn đèn trang trí hay lửa thiêng. Ánh sáng được nối kết với
thiêng liêng ở một số
tin tưởng. Ví dụ, trong
Chí Tôn ca (Bhagavad Gita) của
Ấn Độ giáo,
Đấng Chí Tôn hiển lộ như một
hiện hữu tràn ngập ánh sáng
rực rỡ. Và trong Tân Ước, Đức Jesus Christ
công bố : “Ta là ánh sáng của
thế giới.”
Trong
quan điểm Phật giáo, ánh sáng được hiểu theo hai cấp độ,
tương đối và
tuyệt đối.
Chúng ta có thể thấy những dạng của ánh sáng
tương đối trong
thế giới tự nhiên, cảm nhận sự ấm áp,
quan sát và đo lường ánh sáng bằng những dụng cụ. Vượt lên ánh sáng
tương đối là ánh sáng
tuyệt đối hay
Phật quang của
nhất thể và rỗng rang.
Chúng ta có thể thu thập một số
hiểu biết về ánh sáng
tuyệt đối từ những
câu chuyện kể của người có
kinh nghiệm cận tử về sự hòa nhập và
trở thành một với ánh sáng
rực rỡ, không còn
cảm giác bản ngã bị tách biệt với sự an vui của ánh sáng
phi thường này. Mặc dù
chúng ta cố gắng mô tả chúng, ánh sáng
tuyệt đối vượt qua giới hạn không gian,
thời gian, đo lường hay khái niệm. Nó không tách biệt với
tâm giác ngộ và sự rộng mở
toàn bộ.
Theo những
giáo lý mật truyền của phái Nyingma
Phật giáo,
toàn bộ thiên nhiên là một
biểu lộ của ánh sáng
tuyệt đối.
Tuy nhiên, vì sự
chấp ngã và những
tri giác nhị nguyên của
chúng ta làm khởi lên từ sự bám chấp này –
ý niệm về một cái “tôi” tách biệt khỏi chung quanh, về “chủ thể” khác biệt với “đối tượng” – mà
thiên nhiên xuất hiện trước
chúng ta như là cứng chắc và tách biệt. Trích dẫn trong Chuỗi
Tràng Hạt Vàng (gSer Phreng) một luận thư Tantric cổ, Ngài Kunkhyen Long-chenpa cho một sự
mô tả thần bí về năm “ánh sáng thuần khiết” của
trí huệ chư Phật trong sự
xuất hiện thế gian của chúng :
Do bám chấp vào cái ngã,
Của ánh sáng xanh, trắng, vàng, đỏ và lục,
Mà chúng
xuất hiện như năm
nguyên tố thô (năm đại)
Hư không, nước, đất, lửa, và gió.
Mặc dù những lời dạy ấy về ánh sáng có thể khiến những
Phật tử quan tâm, bất cứ ai tập
trung chính vào sự chữa bệnh hàng ngày của
tâm không cần thiết phải
lưu tâm lớn lao đến chúng. Điểm cần hiểu là ánh sáng có thể là nguồn chữa bệnh và
hoan hỷ vĩ đại, mà người ta
thực hành trong
thiền quán để làm dịu đi những
vấn đề của họ.
Trong những bài tập chữa bệnh rút từ những
giáo lý đạo Phật, bất cứ những
hình ảnh ánh sáng gì
sống động và gây
cảm hứng mà
chúng ta có thể
quán tưởng đều giúp mình, ngay cả nếu
chúng ta tri giác ánh sáng như là
tương đối hơn là
tuyệt đối. Vì trong
đa số khái niệm của
mọi người, ánh sáng thiên về rộng mở và phát triển,
thiền quán về ánh sáng có thể làm buông lỏng sự
chấp ngã và đem đến cho
chúng ta cảm nhận
an bình và rỗng rang.
QUÁN TƯỞNG ÁNH SÁNGLuôn luôn khi
chúng ta mời gọi ánh sáng hay bất cứ những
phương tiện chữa bệnh nào khác,
chúng ta cần phải quán tưởng một
hình ảnh hay sự
hiện diện, để cảm nhận những phẩm tính
tích cực tốt lành của nó, và tin vào
năng lực chữa lành của nó. Khi bạn
thực hành, có thể thấy rằng khả năng
thiền định của bạn trên ánh sáng sẽ sâu thẳm và mạnh mẽ thêm.
Bạn có thể thấy
ích lợi khi cách
quán tưởng ánh sáng rớt xuống như mưa trên bạn, tràn ngập và chiếu sáng thân, tâm bạn với sự nồng ấm chữa lành của nó, đem lại rộng mở và thơ thới cho bất cứ cái gì nó xúc chạm. Hay bạn có thể
quán tưởng ánh sáng đến từ nguồn
sức mạnh của mình. Có thể ánh sáng có hình dạng những
tia sáng có màu sắc cầu vồng. Hãy cảm nhận rằng nó
hoàn toàn tràn ngập trong tâm và thân, đem lại
hỷ lạc,
an bình, và
sức khỏe mạnh, làm ấm áp và chữa lành những vùng có
vấn đề trong chốc lát, hoặc hòa tan chúng trong ánh sáng và
an bình. Mỗi một phần trong cơ thể của bạn, xuống đến tận những tế bào
cuối cùng, đều tràn ngập ánh sáng một cách không
cố gắng. Bấy giờ hãy cảm nhận thân mình được
chuyển hóa thành một thân ánh sáng, hay có thể là ánh sáng ngọn lửa
rực rỡ ấm áp nếu
hình ảnh này giúp đỡ được cho bạn.
Thỉnh thoảng, bạn
cảm thấy cần sự
an toàn và
bảo vệ về mặt tình cảm. Bấy giờ bạn có thể
quán tưởng ánh sáng như một
hào quang hay cái lều bọc quanh thân bạn, hay ánh sáng giống như một hình vỏ trứng
che chở. Những
quán tưởng như vậy làm bạn
thoải mái và rộng mở, thậm chí được
bảo vệ. Nếu
cảm thấy bị
bó buộc hay bao bọc, hoặc tách biệt, bị
cô lập với
thế giới và người khác, hãy
cố gắng mở rộng sự thiền định này hoặc buông lỏng hay làm một điều gì khác.
Thiền quán về ánh sáng có thể dùng để chữa lành những khó khăn
đặc biệt, hoặc có thể giúp
chúng ta cảm thấy rỗng rang và rộng thoáng hơn. Khi
thiền quán về ánh sáng,
chúng ta có thể
quán tưởng ánh sáng phát triển vượt ra ngoài thân và chiếu ra ngoài không dứt.
Chúng ta có thể thấy
toàn thể thế giới xúc động, tràn ngập và được
chuyển hóa thành ánh sáng
thuần khiết và
an bình. Nếu
thiền quán về ánh sáng theo một cách thực sự rộng mở,
chúng ta nhận ra rằng ánh sáng là
vô tận, không có những
ranh giới,
giới hạn của
thời gian,
không gian.
Tùy theo nhu cầu,
chúng ta có thể thấy ánh sáng chữa bệnh trong nhiều
hình thức khác nhau. Nếu bạn có một
cảm xúc khó khăn gắn chặt vào một vùng
đặc biệt như ngực hay cổ họng, bạn có thể đặt tay lên đó với sự
quan tâm chăm sóc chữa bệnh. Chỉ bằng sự
tiếp xúc nhẹ nhàng,
xoa bóp hoặc chà xát những vùng đó khi bạn thở trong một cách bạn có thể
xoa dịu những khó khăn. Thêm nữa, có thể
quán tưởng ánh sáng chữa bệnh với nhiều màu sắc từ bàn tay của mình. Một nhà
thần bí Thiên Chúa giáo đương thời, Omraam Mikhael Aivanhov có
lời khuyên :
Khi bạn đang khổ đau lớn lao, hãy
cầu xin ánh sáng giúp đỡ bạn. Hãy
quán tưởng rằng từ những ngón tay của mình phát ra những
tia sáng đủ màu và nhắm những ánh sáng đó đến những vùng đau. Bạn sẽ sớm
cảm thấy một sự nhẹ đi từ từ khỏi
đau đớn.
Với một số người,
thiền quán về ánh
sáng tạo ra quá nhiều
cảm giác bay bổng hoặc trôi
bềnh bồng. Nếu điều này xảy đến, hãy
trở lại bằng cách
quán tưởng rằng mặc dù ánh sáng chữa lành là
thuần khiết,
trong sáng và phổ quát,
bản chất bất động,
bất biến của nó làm cho nó có sức nặng.
ĐÁNH THỨC NĂNG LỰC CHỮA BỆNHTất cả
chúng ta sở hữu năng lực vật chất và
tâm linh dữ dội hơn nhiều so với ta
nhận thức.
Chúng ta có thể
đánh thức sinh lực này để
sử dụng trong
thiền định và cuộc sống hàng ngày.
Rốt ráo năng lực và ánh sáng là như nhau. Để hưng vận
đời sống của
chúng ta,
tinh thần và thể xác,
chúng ta có thể làm bùng cháy và làm lớn mạnh
năng lực, ánh sáng và
trí huệ vốn sẵn của
chúng ta.
Như là một
thực tập đánh thức sức mạnh này, hãy
thiền định về
thân thể bạn như một nguồn
năng lực vĩ đại. Hãy ngồi chỗ
thích hợp và ấm áp, với mắt nhắm hay mở phân nửa. Thở
tự nhiên và bình lặng. Từ
từ quán tưởng
thân thể mình như một sự vật
kỳ diệu,
tuyệt vời, với da, xương, cơ bắp,
thần kinh và những
cơ quan khác và hàng tỷ tế bào của nó đủ loại
cần thiết cho phép lạ của
đời sống.
Bạn có thể tưởng tượng tất cả điều này với sự
chính xác của khoa học càng nhiều nếu bạn muốn, dù rằng một cách tiếp cận như vậy là không
cần thiết. Với
sức mạnh chữa bệnh của
thiền quán, điều
then chốt là
sử dụng bất
cứ sự tưởng tượng nào có thể giúp bạn cảm nhận và
tin tưởng rằng
thân thể mình là một nơi chốn
tích cực của sự
phục hồi và
năng lực bao la.
Lúc bắt đầu, việc
quán tưởng về một tế bào trong cơ thể thật sự có
lợi ích,
đi vào trong tế bào đó, thấy và cảm nhận sức sống
tuyệt diệu của nó. Hãy
hình dung sự
bao la của nó. Nó có thể lớn như
toàn bộ vũ trụ.
Bạn phải thấy
lợi lạc khi đem một số những phẩm tính của các
nguyên tố đất, nước, gió, lửa vào sự
tham thiền này – như sự phì nhiêu hay
sức mạnh của đất, hay sự
trong sạch, tẩy tịnh của không khí. Bạn cũng có thể
thưởng thức sự
phong phú và vẻ đẹp của một tế bào này bằng cách
hình dung âm nhạc hay một
âm thanh an bình khác, hoặc bằng sự
tiếp xúc với tế bào và cảm nhận nó
cách sống động hay
rung động với
sức mạnh.
Sau khi dành một số
thời gian cho một hay hai hoặc ba tế bào này,
dần dần mở rộng sự thiền định của bạn để cảm nhận sự
mênh mông của thân bạn,
sức mạnh và khả năng chữa bệnh đáng
ngạc nhiên của nó. Hãy cảm nhận bạn đang ở một nơi
đẹp đẽ,
kỳ diệu và
phong phú vô tận.
Bấy giờ,
trở lại và nhìn một hay vài tế bào
rực rỡ và sáng sủa với ánh sáng. Hãy
ghi nhận ánh sáng
an bình,
tuyệt diệu này, có thể thêm bằng cách tưởng tượng
âm nhạc hay
âm thanh vinh hiển. Hãy
mở rộng sự thiền định của bạn
bao gồm toàn thân bạn đang tỏa sáng
rực rỡ với
sức khỏe và sự ấm áp.
Sau đó,
hình dung và cảm nhận rằng bất
cứ sự tối tăm, lạnh giá,
đau đớn,
buồn phiền,
căng thẳng hay sự mất hài hòa của thân, tâm được chữa lành bởi ánh sáng
rực rỡ ấm áp này, bởi những cảm nhận của sự
an bình, của những
âm thanh. Tất cả mọi tế bào đều
sinh động trong một tiếp thông với sự nồng ấm và
hỷ lạc, giống như hàng tỷ
tia sáng của
mặt trời tràn đầy
thân thể bạn. Hãy
trở lại với
cảm giác này nhiều lần,
an trú và sưởi ấm trong nó.
Cuối cùng bạn có thể tưởng tượng ánh sáng và
năng lực chiếu ra từ cơ thể bạn, giống như ánh sáng của lửa trại trong đêm tối. Bạn phải
hình dung những
tia sáng phát ra từ
thân thể trong một
vòng hào quang bảo vệ của
năng lực chữa bệnh. Sau đó
năng lực chữa bệnh phát triển rộng ra
tiếp xúc với những người khác hay những nơi chốn khác, tràn ngập chúng trong ánh sáng và
an bình.
Dần dần, nếu bạn là một thiền giả có
kinh nghiệm,
năng lực này có thể
mở rộng ra
toàn thể vũ trụ. Dù
bạn thiền định cách nào đi nữa, hãy
kết thúc bằng sự buông lỏng và hòa nhập làm một với những cảm nhận của mình.
Một bài tập khác để
đánh thức năng lực chữa bệnh là
quán tưởng chính bạn là bổn tôn, như
đức Phật hay một vài bậc
kỳ diệu khác. Hãy
quán tưởng bổn tôn trong bạn và kêu gọi
trí huệ hiện đến trong
hình thức năng lượng và
sức mạnh.
ÁNH SÁNG CHỮA BỆNH VÀ NĂNG LƯỢNG TRONG
ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀYChúng ta có thể
thể hiện một
tỉnh giác về ánh sáng và
năng lượng vào từng phần
đời sống chúng ta. Sự
tỉnh giác này có thể chuyển cuộc sống
bình thường của
chúng ta thành một chu kỳ chữa lành.
Một sự
thực hành tốt cho bất cứ ai, không kể khí chất hay khéo léo của họ trong
thiền định là
thưởng thức ánh sáng của
thiên nhiên – ánh sáng
mặt trời, sự
chuyển đổi tinh tế của ánh sáng trong ngày và những mùa khác nhau trong năm, những buổi
hoàng hôn đẹp đẽ, ánh sáng của trăng sao, ánh sáng dịu của một ngày nhiều mây.
Chúng ta cũng có thể trau dồi một
tỉnh giác về ánh sáng
thuần khiết tuyệt đối trong
thế giới hàng ngày của
chúng ta,
tối thiểu trên
ý niệm. Khi
chúng ta sống trong cuộc sống
quen thuộc hàng ngày, bất
cứ sự tỉnh giác nào về ánh sáng của
vũ trụ có thể giúp
chúng ta lòng tự tin và
sức mạnh.
Vậy khi bạn ngồi, đừng ngồi giống như một cục đá. Hãy ngồi trong một sự
thoải mái nhưng
linh hoạt, với một cảm nhận
thưởng thức ánh sáng và
năng lượng, giống như bạn là một ngọn nến tỏa sáng.
Khi bạn
suy nghĩ, đừng nghĩ với một tâm
hỗn độn,
tranh chấp hay thù ghét. Hãy biết rằng ánh sáng của tâm có thể khơi gợi sự
trong sáng của rỗng rang và
thanh bình.
Khi bạn nói, hãy nói với một giọng không
thô bạo cũng không
yếu đuối. Giống như ánh sáng và
năng lượng, giọng bạn phải mạnh mẽ,
rõ ràng và êm dịu.
Khi bạn đi, đừng đi như một con rối bằng xương bằng thịt bị lôi kéo theo nhiều hướng bởi những sợi dây của
đam mê hay
dục vọng. Nếu bạn cảm nhận sự
hiện diện của ánh sáng chữa bệnh và
năng lượng, bạn có thể đi với cách
thưởng thức chúng. Thay vì chỉ đi
chậm chạp và nặng nề, nhưng qua
tỉnh giác về ánh sáng, bạn có thể
cung cấp năng lực và
duyên dáng cho những
cử động của bạn. Hãy
thưởng thức cảm giác trải rộng của một người đang sống, và
mở rộng thân thể trong một tư thế
thoải mái, ngay ngắn.
Khi bạn
tiếp xúc với đồ vật, không nên
tiếp xúc giống như người máy cầm nắm dụng cụ. Hãy đưa tay tới như thể
năng lực chữa lành từ bàn tay bạn phát ra,
tiếp xúc với một đồ vật mà đồ vật đó tự nó là một nguồn ánh sáng.
Ánh sáng không chỉ ở trong
chúng ta mà ở
mọi nơi quanh ta. Mặc dù ánh sáng
tuyệt đối của
nhất thể vượt khỏi khái niệm hay
hình ảnh,
chúng ta có thể cảm nhận hay
hình dung ánh sáng dưới dạng
tương đối của nó có thể thấy được một cách
tinh tế trong không khí và môi trường quanh ta hàng ngày. Mọi
cử chỉ và
tư tưởng của bạn có thể
hòa hợp với
một thế giới của ánh sáng. Ngay cả một động tác của ngón tay bạn cũng có thể là sự phô bày, hưởng thụ và tán thưởng của ánh sáng và
năng lượng.
Cũng như với
sự thiền định về ánh sáng,
tỉnh giác về ánh sáng trong cuộc sống hàng ngày đôi khi có thể thành một dạng
cảm giác trôi nổi hay khó chịu. Bấy giờ bạn có thể
quán tưởng ánh sáng trong thân bạn, hay chỉ ở đôi chân, ánh sáng
trĩu nặng. Hãy cảm nhận
thân thể bạn nặng
vừa đủ để không bị trôi
bềnh bồng và chân bạn
tiếp xúc vững chãi với nền đất
chắc chắn.
Chúng ta phải
nhận biết một bài tập
đặc biệt nào
thích hợp với nhân cách và những khả năng của
chúng ta. Một số trong
chúng ta có thể khó khăn trong việc
tiếp xúc với những
cảm giác thật sự của mình, và
chúng ta có
thể không sẵn sàng cho việc
thực hành trong đời sống hàng ngày. Nếu bạn cảm nhận gò bó và khép kín, bạn đang làm sự
thực hành này sai cách. Nếu
cảm thấy bị choáng váng hay tâm trạng thất thường, hãy chuyển sang một
thực hành bình thản hơn hay
đơn giản là có thể làm một việc gì khác.
Những
thiền sinh thường hỏi tôi là những bài tập chữa bệnh này có “đúng cho họ không” hoặc họ đang làm “đúng cách” không. Luôn luôn
chúng ta phải làm cái gì khiến
chúng ta cảm thấy thoải mái và rộng mở, đây là sự hướng dẫn của
chúng ta.
Tỉnh giác với ánh sáng là một cách khơi dậy
năng lực chữa lành. Cũng có nhiều
phương pháp khác. Những
hoạt động thân thể là cách đem lại
quân bình lớn cho cuộc sống và khơi dậy
năng lực chúng ta. Đi bộ, tập Hatha Yoga hay những bài tập khác, khiêu vũ, ca hát – tất cả những điều đó là tôn vinh
đời sống và đem lại
sức khỏe.