Bodhicaryàvatàra
NHẬP HẠNH BỒ TÁT
Sàntideva (Tôn giả Tịch Thiên) - Việt dịch: Nguyên Hiển - Hiệu đính: Lê Triều Phương
TUỆ QUANG FOUNDATION Ấn bàn điện tử, Xuân 2009
MỤC LỤC Lời nói đầu
Lời thưa về việc hiệu đính (1,2)
Tiểu sử Tôn giả Sàntideva
Chương 1: Lợi ích của Tâm Bồ Đề
Chương 2: Sám hối tội nghiệp
Chương 3: Phát Tâm Bồ Đề
Chương 4: Thực hành Tâm Bồ Đề
Chương 5: Chánh niệm, Tỉnh giác
Chương 6: Nhẫn nhục
Chương 7: Tinh tấn
Chương 8: Thiền quán
Chương 9: Trí tuệ
Chương 10: Hồi hướng
LỜI NÓI ĐẦU Ngài Sàntideva (
Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda,
Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn
giảng đường tu hạnh
Bồ Tát, hạnh
Lục độ và tu mười
đại hạnh của
Phổ Hiền Bồ Tát.
Đọc tụng luận này,
hành giả có thêm hùng tâm dũng chí để giúp Đạo, cứu đời.
Dịch giả đã
tham cứu các bản dịch dưới đây:
- Bản Hán dịch của Trần Ngọc Giao
- Bản Pháp dịch của Georges Driessens
- Bản Anh dịch của Kate Crosby và Andrew Skilton
- Bản Việt dịch của
Thích Nữ Trí Hải Luận này là sách gối đầu giường của Tăng, Ni,
Phật tử theo
lối tu Đại thừa ở
Ấn Độ,
Tây Tạng,
Mông Cổ và Trung Hoa. Vì dịch theo lối thi kệ để dễ tụng đọc và dễ nhớ cho nên quá
súc tích và quá ngắn gọn,
vì vậy không thể
tránh khỏi có chỗ
vụng về và tối nghĩa. Xin
chư tôn đức cùng qúy
Phật tử cao minh từ bi chỉ giáo để khi tái bản dịch phẩm này được hoàn chỉnh hơn.
Xin
chân thành cảm tạ hai
Pháp hữu Tâm Zen và
Như Pháp Trí đã giúp phần
hiệu đính và
hoàn thành dịch phẩm này. Xin
hồi hướng công đức đến
pháp giới chúng sanh thoát ly luân hồi khổ não,
viên thành Phật đạo.
California, Mùa
Phật Đản 2459-2005
Nguyên Hiển
Lời thưa về việc hiệu đính (1) Tập Luận „Nhập Hạnh
Bồ Tát,“ của
Tôn giả Santideva, do
cư sĩ Nguyên Hiển dịch sang Việt ngữ năm 2005, theo thể kệ, đã đến tay tôi trong một
hoàn cảnh đầy kỷ niệm. Năm 2005,
chúng tôi bị một bệnh nặng
hành hạ suốt nửa năm dài. Hàng ngày đau nhức
vô cùng.
Chúng tôi chưa
đồng ý để
bác sĩ mổ và
kham nhẫn chịu đựng. Hàng ngày
niệm Phật và
thỉnh thoảng đọc
phẩm Phổ Môn.
Một ngày nọ, năm người bạn từ phương xa đến thăm vì muốn „tiếp sức“ cho
chúng tôi.
Lúc ấy chúng tôi đang nằm ở bệnh viện trong
tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Các bạn phải
trò chuyện cùng nhau nơi hành lang của bệnh viện.
Cuối cùng chúng tôi gặp mặt nhau khoảng 15 phút rồi chia tay. Riêng
đạo hữu Nguyên Định đã
đem theo để tặng và khuyên
chúng tôi nên đọc tập Luận nói trên.
Chúng tôi đọc
lướt qua và thấy nội dung
vô cùng ý nghĩa.
Một buổi tối, sau
bữa ăn chiều,
chúng tôi đọc lại tập Luận kỹ hơn. Bỗng dưng trong đầu
chúng tôi vang lên
âm thanh như dòng nhạc của những câu kệ trong
phẩm Phổ Môn, ví dụ như
Bi
thế giới lôi chấn,
Từ ý diệu đại vân,
Chú
cam lồ pháp vũ Diệt trừ phiền não diệm“
(
Lòng từ bi như sấm,
Ý tứ diệu dường mây,
Xối mưa pháp
cam lồ,
Dứt trừ lửa
phiền não)
(Bản dịch của HT
Trí Tịnh)
hoặc
Diệu âm,
Quán thế âm,
Phạm âm,
hải triều âm,
Thắng bỉ
thế gian âm,
Thị cố tu thường niệm“.
(
Diệu âm,
Quán thế âm,
Phạm âm,
hải triều âm,
Tiếng hơn
thế gian kia,
Cho nên thường phải niệm)
(Bản dịch của HT
Trí Tịnh)
Lòng
chúng tôi bỗng nổi lên
cảm hứng chỉnh sửa ngay lại một số câu trong bản dịch của
cư sĩ Nguyên Hiển, với ước muốn mình có riêng một bản Luận đọc nghe êm nhẹ hơn, dù không bằng những câu ví dụ trong
phẩm Phổ Môn.
Chúng tôi vừa đọc vừa ghi chép
cho đến khi
cảm thấy buồn ngủ. Kim đồng hồ
cho biết đã hơn 2 giờ khuya.
Chúng tôi vô cùng kinh ngạc: Tại sao mình đã mất
cảm giác đau nhức và
mệt mỏi suốt 6 tiếng đồng hồ? Có gì
linh thiêng và huyền nhiệm
tỏa ra từ những dòng kệ „Nhập Hạnh Bồ Tát“chăng?
Chúng tôi đi ra hành lang bệnh viện để kiểm lại
thì giờ. Đồng hồ
cho biết đã hơn 2 giờ khuya.
Hôm sau,
đạo hữu Nguyên Châu, trong nhóm những người đã đến thăm
chúng tôi, gọi điện thoại hỏi về bệnh tình.
Chúng tôi thuật lại chuyện
kỳ diệu đã
trải qua trong đêm.
Đạo hữu liền kể ngay cho tôi biết lược sử của
Tôn giả Santideva và
cho biết Phật tử Tây Tạng rất
sùng kính Luận „Nhập Hạnh Bồ Tát“ như
Phật tử châu Á
sùng kính phẩm Phô Môn. Nhiều
Phật tử đã cảm nhận được
sức mạnh thiêng liêng toát ra từ tập Luận.
Cuối cùng đạo hữu đã khuyên
chúng tôi nên
cố gắng „đánh bóng“
công trình việt dịch của
cư sĩ Nguyên Hiển vì điều này vừa giúp cho
bản thân chúng tôi giảm được sự
đau khổ của thân xác trong lúc đau bệnh và biết đâu bạn bè nhờ đó mà có được một bản dịch dễ tụng hơn.
Chúng tôi đã hứa sẽ
theo đuổi việc „đánh bóng“ ấy. Động
cơ quan trọng nhất đã
thúc đẩy việc làm của
chúng tôi là
đạo hữu Nguyên Hiển đã
cho phép chúng tôi hiệu đính lại bản dịch của anh.
Những ngày hôm sau
chúng tôi lần lượt nhận được 5 bản dịch khác do bạn bè gởi đến với lời khuyến khích làm công việc
hiệu đính. Đó là bản Đức ngữ „Eintritt in das Leben zur Erleuchtung“ do G.S. Ernst Steinkellner
chuyển ngữ năm 1981, ba bản Việt ngữ
gồm có: „Bồ Tát Hạnh“, do
Thượng Tọa Thích Trí Siêu (Pháp) dịch năm 1990, „Nhập
Bồ Tát Hạnh“ do
Ni Sư Thích Nữ Trí Hải dịch năm 1998 và „Một tia chớp sáng trong đêm tối“ do đức Dalai Lama
giảng giải và do Đoàn Phụng Mệnh dịch năm 1999 và bản Anh ngữ „Engaging in Bodhisattva Behavior“ do ông Alexander Berzin dịch năm 2005. Sáu bản dịch rất
công phu với những
chú giải rõ ràng mà
chúng tôi đọc được, đã
soi sáng cho
chúng tôi thấy được nội dung và
ý nghĩa của
con đường đi của các bậc
Bồ Tát. Nơi đây,
chúng tôi chân thành bày tỏ sự
tri ân sâu sắc của
chúng tôi đến tất các vị dịch giả và
giảng giải.
Hôm nay, sau gần một năm rưởi,
chúng tôi hoàn thành bản
hiệu đính với tâm trạng
khinh an, mặc dù vẫn còn nhiều khuyết điểm.
Chúng tôi xin
hồi hướng công đức đến tất cả
chúng sinh và cầu mong cho tất cả đều
đạt được mục đích giác ngộ và
giải thoát.
Chúng tôi cũng xin bày tỏ sự cám ơn sâu sắc đến hiền nội và bằng hữu đã khuyến khích và hỗ trợ việc
hiệu đính, hỗ trợ tìm
tài liệu, đánh vi tính và
sửa lỗi chính tả.
Göttingen, Germany, ngày 14.01.2007
Lê Triều Phương
Lời thưa (2) Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Năm 2005 nhờ đọc Luận và hiệu đính Nhập Hạnh Bồ Tát của Tôn Giả Tịch Thiên (Santideva) mà chúng tôi thoát qua cơn đau khổ của bệnh ung thư vào thời kì chót. Sau một năm rưỡi hiệu đính bản dịch của Nguyên Hiển, tập Nhập Hạnh Bồ Tát được ấn hành vào đầu năm 2007.
Cuối năm 2007 tôi lại lâm vào tình trạng nguy kịch. Nằm thiêm thiếp trên giường bệnh, chúng tôi được nghe quí Thầy, người thân và bạn bè đã tụng kinh cầu an. Cơn đau đã được lời kinh làm êm dịu và tâm hồn chúng tôi được thanh thản an lành. Nhưng vì lý do nào đã khiến chúng tôi tóm lược Luận Nhập Hạnh Bồ Tát?
Lý do thứ nhất, bên cạnh sự cầu an, có lẽ Kinh Nhập Hạnh Bồ Tát đã tác động vào tôi như dòng nước Cam lồ tắm mát thân tôi. Sau mỗi lần cầu an như vậy, thân quyến và bạn bè chúng tôi đều nhận định và nhất trí rằng kinh Nhập Hạnh Bồ Tát đã vực tôi dậy sau hai lần đứng trên bờ sinh tử. Nhân đây chúng tôi xin trân trọng cám ơn chư Tăng tại ba Chùa sau đây:
Một là Thượng Tọa trụ trì Thích Đồng Đạo và Tăng sĩ Chùa An Linh, Q. 12, TP Hồ Chí Minh. Qúi vị đã cầu an nhiều đợt, mỗi đợt nhiều ngày và có khi 9 đêm liền. Ngoài các kinh khác, cả Luận Nhập Hạnh Bồ Tát cũng được đọc tụng.
Hai là Sư Ông Thích Viên Mãn và đệ tử Đại Đức Thích Chúc Minh tại Chùa Hòn Đỏ, Nha Trang và Thượng Tọa Thích Phước An, Nha Trang.
Ba là Đại Đức Thích Như Hoằng trụ trì Chùa Sắc Tứ Thiên Tứ tại Hòn Đất, Ninh Hòa, Nha Trang. Ngoài việc cầu chư Phật và Bồ Tát, Đại Đức còn cầu Bồ Tát Thích Quảng Đức cứu độ chúng tôi. Hòn Đất là nơi ẩn tu của ba vị Thiền Sư đắc đạo.
Lý do thứ hai, 3 khối u lớn dưới da bụng chúng tôi lần lượt tự hủy, dịch theo vết mổ gan cũ thoát ra ngoài. Chúng tôi không còn uống thuốc chống đau với liều lượng ngày càng lớn nữa. Chúng tôi vẫn an nhiên chấp nhận không chóng thì chày, 1 trong 5 khối u còn lại có thể kết liễu đời chúng tôi, mặc dù chúng đã teo nhỏ lại hơn xưa.
Mười chương trong Nhập Hạnh Bồ Tát đã toả rộng niềm bình an trong những đêm cầu an của bằng hữu. Chúng tôi thầm mong ước rằng nếu tập Nhập Hạnh Bồ Tát gói trọn được trong 3 giờ tụng niệm, mỗi lần trong vòng 1 giờ, thì lòng chúng tôi sẽ vô cùng hoan hỷ, an lạc khi nghe được lời kinh vang vọng và tâm tư thấm nhuần thêm một số lời dạy trong kinh. Và chúng tôi đã dốc tâm làm việc đó. Đây không phải là việc chỉnh sửa mà chỉ là tóm gọn để tiện dụng.
Lý do thứ ba, trong thế giới hiện đại, thời gian sẽ vô cùng quí báu cho nên chúng tôi xin hồi hướng tập Nhập Hạnh Bồ Tát này đến các bạn tuổi trẻ để các bạn tiết kiệm thời gian đi sâu vào thế giới tâm linh an lành của chúng ta.
Thạnh Lộc, 30-02-2008
Lê Triều Phương
(TS Lê văn Tâm)
qua đời ngày 12/06/2008.
TIỂU SỬ TÔN GIẢ TỊCH THIÊN (SÀNTIDEVA) Thích Trí Siêu (Pháp)
Theo
truyền thuyết tôn giả Sàntideva sinh ở miền Nam Ấn, vùng Sri Nagara
vào khoảng thế kỷ thứ 7. Ngài là
thái tử con vua Surastra. Từ những kiếp
quá khứ, ngài đã
cúng dường phụng thờ nhiều
đức Phật và đã
tích tụ nhiều căn lành đưa đến
giải thoát. Nhờ
phước đức ấy nên ngay từ lúc ấu thơ, ngài đã nhiều lần
chiêm bao thấy
Văn Thù Bồ Tát.
Lớn lên, đến tuổi sắp được vua cha truyền ngôi, một hôm ngài
nằm mộng thấy hai vị
Bồ tát:
Văn Thù và Tara.
Bồ tát Văn Thù ngồi trên ngai vàng, bảo ngài rằng: ”Ở đây không có chỗ cho hai người”.
Bồ tát Tara tưới nước nóng trên đầu ngài và nói rằng: ”Vương quyền chính là nước sôi bỏng của
địa ngục. Ta đang tấn phong cho ngươi về nước nầy đây.”
Tỉnh dậy, ngài hiểu rằng đó là sự khuyến cáo của hai vị
Bồ tát, nên đêm hôm trước khi ngài
lên ngôi, ngài rời bỏ cung thành trốn vào rừng sâu. Sau 21 ngày lang thang trong rừng, vừa khát vừa đói, ngài gặp được một con suối, sắp sửa định uống thì có một
thiếu nữ xuất hiện bảo ngài đừng uống vì đó là nước độc, sau đó
thiếu nữ dâng cho ngài một thứ
nước thơm ngọt như
cam lồ. Giải khát xong, ngài hỏi
thiếu nữ: ” Cô ở đâu đến?” .
Thiếu nữ trả lời: ”Ở giữa khu rừng
mênh mông này là nơi thầy tôi ở, ngài rất
đạo đức,
từ bi và đã
thành tựu phép
tam muội củaVăn Thù
Kim Cang Sư Lợi (Sri Manjuvajra). Tôi từ đó đến đây”.
Vừa nghe như thế,
tôn giả Sàntideva mừng rỡ như kẻ nghèo bắt được vàng,
yêu cầu thiếu nữ dẫn ngài đến gặp vị thầy kia. Đến nơi ngài thấy đó là một vị
hành giả (Yogi) sống trong một chòi lá, ngài liền
đảnh lễ,
xưng tán cúng dường và
cầu xin được truyền phép
tam muội của
Văn Thù Bồ Tát. Sau 12 năm ở đó
tu tập, ngài chứng được phép
tam muội trên, thấy được vị thầy kia chính là
Văn Thù và
thiếu nữ kia chính là Tara. Kể từ đó ngài luôn luôn được thấy
Văn Thù Bồ Tát.
Sau đó ngài đi về phương Đông, xin vào làm việc trong triều của vua Pancamasimha. Nhờ tài giỏi và
thông minh nên ngài được vua
trọng vọng cho làm Thừa Tướng. Để tỏ
lòng thành kính nhớ ơn vị
thần linh chủ hộ của mình, tức
Văn Thù Bồ Tát, ngài luôn đeo trên mình một thanh kiếm gỗ. Ngài giúp vua trị vì đúng theo
Phật pháp và truyền dạy nhiều kỹ nghệ mới lạ. Điều đó khiến các vị đại thần khác ganh tức,
tìm cách gièm pha và hãm hại ngài. Họ bảo vua rằng: ”Thừa tướng là một người
gian xảo, luôn đeo trên mình một thanh kiếm mà không bao giờ rút ra cho ai xem cả.
Chúng tôi biết thanh kiếm ấy làm bằng gỗ. Gặp lúc nguy biến làm sao Thừa tướng có thể
cứu nguy cho Bệ hạ được? Xin Bệ hạ hãy khám nghiệm lại”. Vua tin lời cho triệu Thừa tướng vào bắt phải rút kiếm ra khỏi vỏ cho vua xem. Thừa tướng nói: ” Kiếm của tôi, Bệ hạ không thể nhìn được,
nếu không Bệ hạ sẽ hối hận”. Nghe vậy, vua càng
nghi ngờ nhất quyết đòi xem.
Cuối cùng, Thừa tướng nói với vua: ”Nếu Bệ hạ
nhất quyết muốn xem thì hãy theo tôi đến chỗ vắng, lấy tay che mắt phải lại, chỉ nhìn bằng mắt trái thôi”. Vua
chấp thuận và Thừa tướng rút kiếm ra,
hào quang lóe lên quá mạnh khiến con mắt trái của vua rơi xuống đất. Vua liền
ăn năn hối hận, biết ngài là một người
đắc đạo, một
Đại thành tựu giả nên
cầu xin sám hối. Biết vua đã
ăn năn, Thừa tướng nhặt mắt trái của vua bỏ vào tròng lại khiến vua khỏi mù.
Sau đó
tôn giả bỏ chức Thừa tướng, tìm đến
tu viện Nalanda,
xuất gia thọ giới, được đặt tên là Sàntideva. Sau khi nghe hết ba
tạng kinh điển,
tôn giả thầm
biên soạn 3 bộ luận: Siksàsamuccaya, Sùtrasamuccaya và Bodhicaryàvatàra.
Ngài tu
mật hạnh, học trực tiếp với
Văn Thù Bồ tát trong
thiền định. Tất cả thời ăn, ngủ, đi, đứng, ngài đều
thiền quán về
Thanh Quang. Tuy vậy,
chúng tăng bên ngoài thấy ngài chỉ ăn với ngủ, không chịu văn, tư, tu gì cả. Thấy thế một số
Thượng toạ học giả họp nhau lại định
tống khứ ngài ra khỏi
tu viện. Có người cho
ý kiến: Nếu
chúng ta họp lại, bắt mỗi người phải
tuần tự trùng tuyên lại
Kinh Luận ;
ban đầu ngài từ chối, nói rằng không biết gì.
Chúng tăng muốn làm nhục ngài nên làm bộ
nài nỉ,
cuối cùng ngài nói: ”Nếu vậy, phải làm cho tôi một toà
sư tử tôi mới trùng tuyên”. Nghe vậy có vài người đâm ra
nghi ngờ, nhưng
đa số chấp thuận vì tin rằng ngài không thể trùng tuyên
Kinh Luận gì được.
Sau khi lên ngồi toà
sư tử, ngài hỏi: ”Các vị muốn tôi tụng lại
Kinh Luận đã có từ trước hay những
sáng tác mới sau này?”. Vì muốn chế giễu ngài nên
đại chúng nói: ”Những
sáng tác mới sau này”. Thế là ngài bắt đầu tụng lên
Bồ Tát Hạnh (Bodhisattava-caryavatara). Khi tụng đến câu: Khi Có và
Không không còn khởi lên trong tâm…... thì ngài bay lên
hư không rồi từ từ biến mất, nhưng tiếng của ngài còn vọng lại
cho đến câu kệ
cuối cùng của
Bồ Tát Hạnh. Không thấy ngài nữa,
Tăng chúng hối hận trở về phòng ngài
tìm kiếm, thấy trên bàn để lại ba quyển: Sutràsamuccaya (Tập
kinh luận), Siksàsamuccaya (Tập
Bồ Tát học luận) và Bodhicaryàvatàra (
Nhập Bồ đề hành luận).
CHƯƠNG MỘT
LỢI ÍCH CỦA TÂM BỒ ĐỀ Đối tượng và
mục đích 1. Con
trân trọng cúi đầu
Đảnh lễ các
đức Phật (1)
Cùng các vị
Thừa Kế (2)
Và những bậc
đáng kính;
Con nương
lời Phật dạy Xin nêu lên ngắn gọn
Lối vào hạnh
Bồ Tát 2. Luận này nghĩa chẳng mới
Vần điệu cũng không hay
Chẳng dám vì
lợi tha Viết ra chỉ nhắc nhở
Và
thấm nhuần tâm mình.
3. Nhờ sự nhắc nhở này
Mà
tín tâm tăng trưởng Ai cùng một
tin tưởng Cũng được
lợi ích nhiều.
Lợi ích của tâm
bồ đề 4.
Hạnh phúc thay gặp duyên
Sinh ra thân
con người Nay không nhân cơ hội
Để
tu hành giải thoát Sau này tìm đâu ra.
5. Như đêm mây dày dặc
Được lằn chớp chiếu soi
Nhờ
thần lực chư Phật
Tâm lành thoảng khởi lên.
6.
Đức hạnh rất yếu mềm
Trước
sức mạnh điều ác
Chỉ có tâm
Bồ đề Mới
cưỡng lại, đứng vững.
7. Trải bao kiếp
tư duy Phật thấy tâm
Bồ đề Có
công đức vô lượng Cứu
vô số chúng sinh Thoát ra ngoài biển khổ.
8. Muốn thoát khổ của đời
Trừ tai ương muôn loài
Muốn hưởng
chân hạnh phúc Chớ rời tâm
Bồ đề 9. Người người trong
sanh tử Phát khởi tâm
Bồ đề Được gọi là con Phật
Xứng đáng được
tôn kính 10.
Nước phép tâm
Bồ đề Gội sạch thân
ô trược Thành thân Phật
vô giá Hãy giữ
Bồ đề tâm 11. Đấng
Đạo sư thấy rõ
Tâm
Bồ đề qúi báu
Muốn vượt thoát
ba cõi Phải giữ vững tâm này.
12. Làm lành như cây chuối
Quả hết rồi héo khô
Tâm
Bồ đề to lớn
Như
đại thụ xum xuê
Luôn sinh quả tươi tốt.
13. Người đời
phạm tội nặng
Nhờ
thế lực che chở Biết
sự nghiệp đã tạo
Sao chẳng tìm chỗ nương?
14.
Đức Di Lặc đã giảng
cho
Thiện tài biết rằng
Tâm
Bồ đề kỳ diệu Như lửa thời
hoại kiếp Đốt tan bao tội nặng
Chỉ trong một
sát na.
Hai loại tâm
Bồ đề 15. Tâm
Bồ đề bao gồm Hai nguyện để
tu tập:
Trước là nguyện
phát tâm Sau
thực hiện tâm ấy.
16. Ai cũng đều biết rằng
“Muốn đi“ khác với “đi“
Người trí nên biết rõ
Sự khác biệt như vậy.
17. Nguyện
phát tâm Bồ đề Tuy sinh kết quả lớn
Song không thể
sánh bằng Nguyện thực hiện tâm này.
Ca ngợi tâm
Bồ đề 18-19. Những ai đã
quyết tâm Cứu độ mọi
chúng sinh Phải luôn luôn
tinh tấn Thực hiện tâm
Bồ đề;
Từ
lúc ấy trở đi
Ngay cả khi ngủ nghỉ
Phước đức vẫn
liên tục Tăng lớn như
hư không 20. Để người tin
Tiểu thừa Không ngừng bước tiến lên
Trong Kinh Vấn
Diệu Lý Đấng
Như Lai đã dạy
Công đức tâm
Bồ đề Thật rộng lớn
vô biên.
21-22. Chỉ nghĩ cách chữa lành
Đầu
mọi người khỏi nhức
Là
phát tâm chân thành Đem lại bao
phước đức.
Phước đức càng
thâm sâu Khi cứu giúp
chúng sinh Thoát
ưu phiền thống khổ Đạt được cõi
an lành.
23. Có cha nào, mẹ nào
Đã
phát tâm như vậy?
Tiên,
chư Thiên,
Phạm Thiên Đã có chưa tâm ấy?
24.
Xưa nay dù trong mơ
Chưa ai nguyện như thế
Dù vì lợi cho mình
Nói chi đến
phát nguyện Cứu độ cho người khác.
25. Làm sao có thể tìm
Được một vị
Bồ Tát Như viên ngọc
hi hữu Giữa
chúng sinh ích kỷ Chẳng biết làm điều lành
Vì lợi ích chúng sinh!
26. Tâm
Bồ đề trân quý
Là mầm mống an vui
Là
linh dược diệt khổ Tạo
phước đức vô lường.
27.
Ý nghĩ làm lợi người
Đã hơn phước
cúng Phật Huống chi luôn
nỗ lực Làm
lợi lạc muôn loài.
28. Có biết bao
chúng sinh Tuy cầu mong an vui
Song hủy diệt nguồn cội
Sản sinh ra
hạnh phúc Như tận diệt
kẻ thù.
29.
Chúng sinh thiếu niềm vui
Lại chịu nhiều
đau khổ Tâm nguyện Bồ đề này
Đem vui và
diệt khổ.
30. Tâm
Bồ đề có thể
Trừ diệt sự
ngu si Có bạn lành nào sánh
Còn phước nào lớn hơn?
31.
Bồ tát luôn
bố thí Dầu không ai cậy nhờ
Với tâm hạnh như vậy
Đáng
ca ngợi xiết bao!
32. Kẻ
bố thí thức ăn Giúp
chúng sinh đỡ đói
Dù họ no nửa ngày
Đã là người
đáng trọng 33.
Bồ tát thường
ban cho Niềm vui của
chánh giác Làm
thỏa mãn tất cả
Nguyện vọng mọi
hữu tình .
34.
Đức Phật đã dạy rằng
Bồ tát cứu muôn loài
Nên đáng được tôn quý
Ai
phỉ báng Bồ tát Sẽ sa
đại địa ngục
35. Ngược lại, ai tín thành
Cung kính chư
Bồ tát Sẽ hưởng
phước đức lớn
Bồ Tát dù
gian nan Việc ác vẫn không làm
Càng hăng làm
việc thiện.
36. Tôi kính xin
đảnh lễ Người
phát tâm Bồ đề Đem vui cho
chúng sinh Cho cả kẻ hại mình;
Tôi cúi đầu kính lạy
Và xin được
quy y Nơi chư vị
Bồ tát Cội nguồn
chân hạnh phúc.
CHƯƠNG HAI
SÁM HỐI TỘI NGHIỆP
Nghi lễ Bồ Tát Ca ngợi 1. Để con nắm giữ được
Tâm nguyện quí giá này
Con
cúng dường chư Phật
Và
Pháp Bảo thiêng liêng Con
cúng dường Bồ tát Đầy phẩm tính
tốt lành.
Cúng dường 2.
Cúng dường hoa quả tươi
Thức ăn ngon quý nhất
Nước uống thật
tinh khiết Vật
quý báu trên đời.
3.
Cúng dường núi
châu báu Rừng
thanh tịnh ngát hương
Hoa
cõi trời diễm tuyệt Trái quý buông trĩu cành.
4.
Cúng dường những hương thơm
Ngào ngạt
cõi trời đất
Cúng dường trang sức quý
Cúng dường cây như ý Thành tựu mọi
ước mơ Cúng dường mọi
ngũ cốc Tự
sinh không người trồng.
5.
Cúng dường ao sen đẹp
Thiên nga hót êm dịu
Và
mọi vật vô chủ
Đầy dẫy khắp bầu trời.
6. Con giữ chúng trong tâm
Dâng lên
đấng Thế Tôn Và chư vị
Bồ tát Thỉnh cầu đức Thế Tôn Từ bi nghĩ đến con
Mà nhận vật
cúng dường.
7. Con vô phước bần cùng
Không một chút
tài sản Kính xin
đức Phật thương
Nhận
lễ vật tâm con.
8. Con nguyện đem
thân tâm Để làm kẻ
nô bộc Phụng sự Phật,
Bồ tát Mong quí ngài
xót thương Thâu nhận
lễ vật này.
9. Được các ngài thâu nhận
Thân tâm con
siêu thoát Con nguyện sống
lợi tha Diệt trừ các
ác nghiệp.
10-11. Đây nhà tắm
tráng lệ Nền
thủy tinh long lanh
Cột trụ khảm
trân châu Lọng dù bằng ngà ngọc
Trần thiết lộc bình quý
Đầy
nước thơm thích ý Ngân vang muôn
diệu âm Thỉnh Phật,
Bồ tát tắm
12. Đây khăn tắm sạch thơm
Lau khô thân các ngài
Đây
y phục cõi trời Với màu sắc mỹ lệ
Lan tỏa hương dịu thơm.
13. Đây
y phục mềm mại
Và trăm trang sức quý
Dâng lên
Đức Phổ Hiền,
Văn Thù,
Quán Thế Âm.
14. Hương liệu thơm
vũ trụ Xin thoa ngọc thể Ngài
Tỏa
hào quang thanh tịnh Óng ánh sắc
vàng ròng.
15. Xin
cúng dường chư Phật
Các
tràng hoa đẹp đẽ Kết từ
hoa tươi thơm
Như
hoa sen, hoa lài
Hay
hoa mạn đà la.
16. Con xin dâng chư Phật
Vầng mây hương ngây ngất
Dâng
thực phẩm cõi trời Thức ăn uống đẹp ngon.
17. Con dâng đèn hoa ngọc
Chân chạm đá sen vàng
Nền nhà dịu mát hương
Rải đầy hoa đẹp ý.
18. Xin
cúng dường chư Phật
Những lâu đài
tráng lệ Rèm buông ngọc lung linh
Du dương ngân tiếng hát.
19. Xin dâng hiến chư Phật
Lọng che bằng
châu ngọc Cán đúc toàn
vàng ròng Viền thêu
hoa mỹ lệ.
20. Cúng phẩm nhiều như mây
Nhạc du dương hoà tấu
Khổ đau được dịu xoa
Mong sao chúng mãi còn.
21. Mưa hoa, mưa ngọc ngà
Mong luôn luôn buông rơi
Trên thân Phật, tháp Phật
Trên
giáo pháp diệu kỳ.
22. Như Ngài
Diệu Cát Tường (10)
Xưa kia cúng dường Phật Nay con xin
cúng dường Phật,
Bồ tát như vậy.
23. Dùng âm vang hải triều
Tán dương công đức Phật
Nguyện tiếng
tán dương này
Luôn vang đến các Ngài.
24. Nguyện
hoá thân như bụi
Lễ lạy Phật
ba đời Lễ lạy Pháp và Tăng
Cùng khắp cả
pháp giới.
25. Con
lễ lạy tháp Phật
Các nơi
Bồ tát ở (3)
Lễ bậc
trì giới nhất
Kính lễ hàng
thánh tăng.
Quy y 26. Từ nay
cho đến khi
Đạt
Vô thượng Bồ đề Con nguyện
quy y Phật,
Pháp và chư
Bồ Tát.
Sám hối 27. Trước chư Phật,
Bồ Tát Ở cùng khắp
mười phương Con xin chấp hai tay
Thành khẩn nguyện
như vầy:
28-29. Từ vô thỉ
đến nay Trôi lăn trong
sinh tử Với
tội ác không lường
Do tự mình gây ra
Hay xúi giục người làm
Vì
vô minh che lấp Nay con biết
lỗi lầm Thành tâm xin
sám hối.
30-31.
Lỗi lầm con đã phạm
Qua nghiệp thân, khẩu, ý
Đã gây bao
tổn hại Cho
Tam bảo (4), mẹ cha
Cũng như cho Thầy Tổ
Và cho bao kẻ khác
Nay trước
đức Thế Tôn Con
thành tâm sám hối Mọi
tội lỗi gây ra.
32. Nếu
sám hối chưa trọn
Con lỡ chết thì sao?
Vậy xin Ngài mau cứu
Trước khi thần chết đến.
33. Thần chết thật lừa lọc
Nó không biết
đợi chờ Tội rửa sạch hay chưa
Dù đang bệnh hay khỏe
Con không thể nào tin
Vào mạng sống
mong manh Lập loè như lửa đóm.
34. Con đã không
ý thức Chết là bỏ tất cả
Nên con đã
quanh quẩn Với bè bạn,
kẻ thù Vì vậy tự gây ra
Biết bao điều xấu ác.
35.
Đời người như
mộng ảo Điều gì đã trải nghiệm
Cũng chỉ là ký ức
Tất cả đều
trôi qua Không bao giờ
trở lại.
36.
Kẻ thù thành
hư vô Người thân như mây khói
Thân tôi rồi phải chết
Tất cả
trở về không.
37.
Trong đời ngắn ngủi này
Kẻ thân, thù đã chết
Duy
nghiệp ác đã gây
Còn ở lại với tôi.
38. Tôi đã không
ý thức Rồi cũng chết như họ
Nên cứ
tham sân si Tạo ra bao lầm lỗi.
39. Mạng sống giảm từng ngày
Chẳng bao giờ ngừng nghỉ
Không thể nào kéo dài
Làm sao
thoát khỏi chết?
40. Đến lúc sắp
lâm chung Dù
thân thuộc vây quanh
Thống khổ lúc hấp hối
Tôi gánh chịu riêng mình.
41. Khi
Diêm Vương đến bắt
Thân thuộc có ích gì?
Chỉ
phước đức mới cứu
Tôi lại chưa tu tập!
42. Do
buông lung không biết
Hậu quả xấu
mai sau Bám víu đời
phù phiếm Tôi tạo bao nghiệp xấu.
43. Như kẻ ra
pháp trường Kinh hãi, miệng khô đắng
Mắt trợn trắng, thất thần
Hình sắc cũng đổi khác.
44. Huống chi khi thấy bóng
Ma vương đến bắt ta
Kinh hoàng sao kể xiết
Khổ đau dâng tột cùng.
45. Ai cứu tôi ra khỏi
Cơn
sợ hãi lớn này
Tôi tròn xoay đôi mắt
Nhìn bốn phương van cầu.
46. Bốn phương không thấy ai
Sợ hãi lại càng tăng
Không nơi nào
che chở Tôi phải làm sao đây?
47. Con xin
quy y Phật Ngài là đấng
Từ Bi Bảo vệ, đem
lợi ích Cho tất cả muôn loài
Có
năng lực giải cứu Tiêu trừ bao
sợ hãi.
48. Con xin
quy y Pháp Mà chư Phật
chứng ngộ Có thể đưa muôn loài
Sang đến bờ
giải thoát Và con xin
quy y Nơi chư vị
Bồ Tát.
49. Trong cơn sợ bấn loạn
Con xin dâng
thân mạng Lên
Bồ tát Phổ Hiền Và
Bồ tát Văn Thù.
50. Với tiếng kêu khẩn thiết
Con cầu Đức
Quan Âm Mở
đại từ bi tâm
Cứu con, kẻ
mê lầm.
51. Con
cầu cứu các Ngài
Hư Không Tạng Bồ Tát Địa Tạng Vương
Bồ Tát Chư
Bồ Tát đại bi.
52. Con cũng xin nương tựa
Kim Cương Trí Bồ Tát Ngài mà các
sứ giả Của
Diêm vương khiếp vía .
53. Xưa trái
lời Phật dạy Nay
gặp nạn hãi hùng Con xin
quy y Phật Mau
cứu độ cho con.
54-56. Với bệnh nhẹ tầm thường
Đã tuân lời thầy thuốc
Huống chi trăm thứ bệnh
Sinh từ tham sân si!
Một trong trăm bệnh này
Đã đủ làm
tiêu hủy Mọi loài Nam
Diêm phù Nay chạy khắp
mọi nơi Tìm không ra thuốc chữa.
Phật là
đại y vương Dạy
giáo lý thoát bệnh
Những ai không làm theo
Thực
ngu si đáng trách.
57. Bên hố sâu vài trượng
Tôi đi phải
đề phòng Cạnh
địa ngục sâu thẳm
Sao
đời đời nhởn nhơ?
58. Bởi nghĩ rằng chưa chết
Sống nhởn nhơ
phóng dật Quả thật là dại khờ
Nhưng rồi sớm hay muộn
Cái chết phải đến thôi.
59. Tôi không thể có được
Cái
cảm giác dễ chịu Rằng trong ngày hôm nay
Thần chết sẽ không đến
Chắc chắn nó
xuất hiện Làm sao yên hưởng nhàn?
59. Ai giúp bớt lo sợ
Ai chỉ tôi lối thoát
Làm sao thoát hãi kinh
Của sự chết phải đến
Sao có thể nhởn nhơ?
60. Khoái lạc đã
trải qua Chỉ còn là
hoài niệm Bám víu mà làm chi
Để trái lời Phật dạy?
61. Chết là
lìa bỏ hết
Người thân và bạn bè
Đi vào cõi
vô định Bạn hay thù ích chi?
62. Tôi nên
hằng ngày đêm
Tỉnh thức với
tư duy Rằng gieo ác, gặt ác
Làm sao
tránh khỏi đây
Sự gieo xấu ác này
63-64. Vì ngu đần,
vô minh Phạm giới do Phật chế
Gây biết bao
tội lỗi Lòng
run sợ ác báo.
Nay trước
đấng Giác ngộ Con
chấp tay đãnh lễ
Chư Phật và
Bồ tát Xin
thành tâm sám hối.
65. Mong quí Ngài
tha thứ Hành động ác từ xưa
Và con xin
thệ nguyện Vĩnh viễn không
tái phạm.
CHƯƠNG BA
PHÁT TÂM BỒ ĐỀ Vui theo
hạnh lành 1. Tôi xin
vui sướng theo
Công đức và
hạnh lành Mà
chúng sinh thực hiện Tôi cầu họ an vui.
2. Tôi
vui mừng ca ngợi Chúng sinh thoát khổ ải
Và thoát vòng
luân hồi Thành
Bồ tát,
thành Phật.
3. Tôi xin
vui sướng theo
Tâm nguyện như biển cả
Của chư Phật,
Bồ tát Giúp mọi loài đang sống
Được
hạnh phúc an vui.
Thỉnh cầu chánh Pháp 4. Tôi
chấp tay thỉnh cầu Chư Phật khắp
mười phương Đốt lên đuốc
chánh pháp Soi sáng kẻ lầm đường
Đang rơi vào
thống khổ.
Thỉnh cầu bậc Chiến Thắng
ở lại
thế gian 5. Tôi
chắp tay thỉnh cầu Xin các bậc Chiến Thắng
Đang muốn
nhập Niết Bàn Hãy ở lại
thế gian Suốt
hằng hà sa kiếp
Để
cứu độ chúng sinh Thoát khỏi vòng tăm tối.
Hồi hướng công đức 6. Với
công đức làm lành
Tôi
tích tụ từ lâu
Nay xin nguyện
hồi hướng Cứu khổ mọi
sinh linh.
7. Với
chúng sinh đau bệnh
Nguyện hoá làm thuốc hay
Vừa làm thầy thuốc giỏi
Vừa làm kẻ điều dưỡng.
8. Thời
tai ương đói khát Nguyện làm
thức uống ăn
Nguyện như mưa
cam lồ Dập tắt lửa
đói khát.
9. Đối với kẻ bần hàn
Nguyện thành kho
vô tận Nguyện thành nhu yếu phẩm
Đáp ứng mọi nhu cầu.
Tự
hiến thân mình
10. Vì an vui
chúng sinh Nguyện hiến dâng tất cả
Tài sản cùng
thân mạng Làm thiện suốt
ba đời.
11. Buông hết tất thoát khổ
Tâm tất được
thanh tịnh Trước sau phải bỏ hết
Sao bằng
bố thí ngay.
12-13. Tôi nguyện đem thân này
Bố thí cho
chúng sinh Họ
tha hồ mắng chửi Đánh đập hay giết hại.
Hoặc đem ra mua vui
Tâm tôi vẫn lặng yên
Vì thân này đã xả
Nên không hề nuối tiếc.
14. Khi họ
hành hạ tôi
Dù lòng họ sướng vui
Tôi cũng xin khấn nguyện
Họ không bị
ác báo .
15-16. Việc gì lợi
chúng sinh Tôi khiến thân này làm
Nguyện ai gặp gỡ tôi
Đều có nhiều
lợi lộc.
Nguyện ai giận, ghét tôi
Hay vu khống,
não hại Đều nhân đấy
phát tâm Hướng về đường
Giác Ngộ.
17-18. Tôi xin nguyện
bảo hộ Cho những người
cô đơn;
Khách bộ hành cần giúp
Tôi làm kẻ
chỉ đường;
Nguyện làm cầu, làm thuyền
Cho kẻ muốn sang sông .
Tôi nguyện làm hòn đảo
Cho người mong cập bến;
Cho ai cần ánh sáng
Tôi nguyện hóa đuốc đèn;
Tôi nguyện thành nhà cửa
Cho người cần nghỉ ngơi;
Tôi nguyện làm tôi tớ
Cho kẻ cần người sai.
19. Nguyện hoá làm bò quý
Thành bình
ngọc như ý Thành
thuốc tiên, bùa linh
Nguyện thành
cây như ý Thỏa nguyện ước
chúng sinh.
20. Nguyện
hóa thành nhu yếu
Căn bản cho sự sống
Của
vô số hữu tình Như đất, nước, lửa, khí.
21. Nguyện làm nhân
duy trì Sinh mạng của mọi loài
Đến lúc không còn ai
Chưa
chứng quả Niết Bàn.
Phát tâm Bồ đề 22-23. Như chư Phật
quá khứ Khi
phát tâm Bồ đề Đều
lần lượt tu học Giới hạnh của
Bồ tát.
Nay vì lợi
chúng sinh Tôi
phát tâm Bồ đề Siêng
tu học giới hạnh Mà
Bồ tát hành trì.
Phần thưởng của sự
phát tâm 24. Sau khi các bậc trí
Đã
phát tâm Bồ đề Rồi cố sức
tăng trưởng Nên
ca ngợi như sau:
25. Thật phúc thay cho tôi
Nay được mang thân người
Sinh vào
gia đình Phật
Được làm con của Phật .
26. Vậy từ nay trở đi
Phải
cư xử, hành động
Đúng
truyền thống nhà Phật
Quyết không làm ô danh
Giòng giống
thanh tịnh này.
27. Như người mù
may mắn Nhặt được
viên trân châu
Tôi
phát tâm Bồ đề Cũng
may mắn như vậy.
28-32. Tâm
Bồ đề cam lộ Mang lại sự
bất tử Là kho tàng
vô tận Trừ khử cảnh nghèo cùng.
Là
linh dược tuyệt vời Chữa mọi bệnh
chúng sinh Là bóng mát nghỉ ngơi
Cho
lữ khách mệt mỏi.
Là cầu đưa
chúng sinh Vượt khỏi đường nguy hiểm
Là vầng trăng dịu soi
Xoa tan bao
nóng bức.
Là
mặt trời chói lọi
Xua đuổi bóng
vô minh Tâm
Bồ đề này đây
Ví như chất
đề hồ Rút từ sữa
Diệu Pháp.
Với người khách
phiêu bạt Là lữ quán nghỉ ngơi
Với người tìm an vui
Là cội nguồn
hạnh phúc.
33. Nguyện chư Phật
chứng giám Tôi mời khách
thập phương Đến đây để tận hưởng
Niềm vui được
thành Phật Mong
chư Thiên,
mọi người Tất cả đều
hân hoan .
CHƯƠNG BỐN
THỰC HÀNH TÂM BỒ ĐỀ Trách nhiệm của
Bồ tát 1. Đã
phát tâm Bồ đề Con Phật phải
tinh tấn Tu tập không
biếng nhác Không lìa hạnh
Bồ tát.
2. Với công việc ngẫu hứng
Ta có thể
nghĩ lại Rằng nên làm hay không
Mặc dù ta đã hứa
3. Nhưng không thể
buông bỏ Điều Phật và
Bồ tát Đã
quán chiếu chiêm nghiệm Mà tôi đã thọ hành.
4. Tôi đã thề làm lợi
Cho tất cả
chúng sinh Mà không làm như hứa
Như vậy tôi lừa dối
Phận tôi sẽ ra sao?
5. Kinh đã dạy rõ rằng
Ai định cho kẻ khác
Một vật dù nhỏ nhoi
Song rồi lại không cho
Sẽ đọa làm quỷ đói.
6. Tôi đã mời
chúng sinh Dự tiệc
đại an lạc
Rồi tôi lại dối gạt
Đời tôi sẽ điêu linh!
7. Người bỏ tâm
Bồ đề Mà được quả
giải thoát Là điều khó nghĩ bàn
Chỉ chư Phật biết rõ.
8. Trong
giới hạnh Bồ tát Ai bỏ tâm
Bồ đề Làm
chúng sinh bất lợi Sẽ gặt
quả báo ác.
9. Ai trong một sát-na
Cản trở người làm thiện
Khiến
hữu tình bị hại
Sẽ gặp
quả báo ác
Thật
vô cùng khủng khiếp.
10. Phá
an lạc một người
Ta phải bị khốn khổ
Huống chi phá
an lạc Của
vô số hữu tình Ác báo không
cùng tận.
11. Người
phát tâm Bồ đề Nhưng hành động ngược lại
Sẽ trôi trong
luân hồi Khó
trở thành Bồ tát.
12. Phải
cung kính thực hành Những gì đã
thệ nguyện Nếu tôi không
tinh tấn Sẽ đọa chốn
thấp hèn.
Giá trị của cuộc sống
13.
Vô số Phật ra đời
Mang lợi đến
chúng sinh Nhưng tôi vì tội xưa
Nên không được ân phước.
14. Nếu
tái phạm nghiệp cũ
Chắc chắn không
thoát khỏi Số phận thật
hẩm hiu Bệnh đau và tật nguyền
Lăn lóc trong nẻo ác.
15. Làm sao có cơ hội
Được gặp Phật
xuất thế Được
duyên tu hành tốt
Thấm nhuần được
Phật pháp Và
thuận duyên tu hành?
16. Mặc dù được khỏe mạnh
Đủ ăn, không
tổn thương Nhưng thân này tạm bợ
Đó chỉ là
ảo ảnh.
17. Với cuộc sống hiện nay
Khó
tái sinh thành người
Mà không được thân người
Làm sao làm việc thiện?
18. Có cơ hội làm thiện
Mà bỏ qua không làm
Liệu tôi làm được gì
Khi
thống khổ bức bách?
19.
Nếu không làm
việc thiện Chỉ toàn làm việc ác
Dù
trải qua muôn kiếp
Vẫn không biết cõi lành.
20.
Đức Thế tôn dạy rằng
Thân người khó được thay
Như
rùa mù dưới biển
Cổ ngoi lên trúng ngay
Vào lỗ ván phiêu bồng.
21.
Phạm tội nặng chốc lát
Đã phải bị
đọa đày Vào
địa ngục vô gián Vậy với tội muôn kiếp
Làm sao sinh cõi lành?
22. Chờ trả xong
ác báo Cũng khó thoát
địa ngục Bởi trong lúc trả nghiệp
Lại gây thêm tội mới.
23. Khi được thân
con người Là được cơ hội tốt
Cho công việc
tu hành Nếu bỏ cơ hội ấy
Thật không gì điên hơn.
24. Nếu đã biết như vậy
Mà vẫn
ngu si, lười
Khi thần chết gõ cửa
Sẽ
đau khổ dường bao.
25. Lửa
địa ngục hừng hực
Đốt thân tôi nhiều kiếp
Và ngọn lửa
ăn năn Càng
hành hạ tâm can.
26. Thật khó hiểu vì sao
Tôi có được thân người
Khi
nhận biết điều này
Thì rơi vào địa ngục!
Diệt trừ ái dục 27.
Phải chăng các bùa chú
Khiến tôi bị
si mê Ai làm tôi mù lòa?
Ma nào
ẩn thân tôi?
28. Những
kẻ thù tham sân
Không tay chân mặt mũi
Không
dũng cảm thông minh Sao chúng sai sử tôi?
29. Chúng ngự trị tâm tôi
Thường làm tôi
tổn hại Mà tôi không biết giận
Đó là
nhẫn nhục sai
Quả thật là
đáng trách.
30-31. Trời, người dù
hợp lại Nhất tề tấn công tôi
Vẫn không thể đẩy tôi
Vào
địa ngục vô gián.
Nhưng
phiền não ái dục Lại ném tôi vào đó
Nơi mà
núi Tu Di Cũng cháy không còn tro.
32. Bè lũ của
ái dục Sống dai dẳng
vô cùng Vô thỉ đến vô chung.
Kẻ thù trong đời tôi
Không sống lâu đến thế!
33. Theo kẻ địch ngoài đời
Chúng còn chia
lợi lộc,
Ngược lại địch
tham dục Chỉ luôn tạo khổ đau
Cho người
phục dịch nó.
34.
Kẻ thù dai dẳng ấy
Là cội nguồn
bất hạnh Nó ở ngay tâm tôi
Tôi
an nhiên sao được?
35. Nó là kẻ cai tù
Kẻ hành quyết
tội nhân Nó ngự trị tâm tôi
An lạc làm sao được?
36-38.
Ái dục chưa tận diệt
Tôi phải
tinh tấn hơn!
Kẻ
kiêu ngạo bị mắng
Liền
nổi giận,
trả thù Khi hạ
đối thủ xong
Mới
an lòng yên ngủ.
Những chiến sĩ ra trận
Tàn nhẫn diệt quân thù
Dù những kẻ địch ấy
Tự nhiên cũng phải chết.
Họ phóng giáo, bắn tên
Không đào tẩu
tháo lui Khi chiến thắng chưa đạt.
39.
Vậy thì chính tôi đây
Quyết tâm diệt ái dục Tôi
quyết chí không lùi
Dù
đau đớn,
thất vọng.
40.
Con người vì mưu sinh
Phải chài lưới, làm ruộng
Phải cố chịu đói lạnh
Nay tôi vì
chúng sinh Sao lại tránh khổ cực
Không
gánh vác nhọc nhằn?
41-42. Dù tôi chưa
giải thoát Song đã nguyện
cứu độ Chúng sinh khắp
mười phương Vượt khỏi
biển ái dục.
Tôi chưa tự lượng sức
Mà lòng đã nguyện thề
Vậy tôi điên hay không?
Dẫu vậy tôi vẫn quyết
Không ngừng
diệt ái dục Nơi chính
bản thân mình.
43. Như chiến sĩ hờn căm
Quyết chiến thắng tất cả
Tôi giữ một say mê
Diệt ái dục đến cùng.
44. Thà tôi bị thiêu đốt
Bị moi ruột, chặt đầu
Nhưng quyết không khuất phục
Giặc
ái dục bạo tàn.
45-46. Kẻ địch khi bị thua
Rút lui, tìm nơi ẩn
Rồi khi
phục hồi sức
Quay lại để
phục thù.
Nhưng
ái dục thì không
Khi nó bị đánh bại
Nó chui vào trong tâm
Vốn
yếu hèn của tôi
Và
lẩn trốn nơi đó.
Ái dục thật hèn hạ
Duy chỉ có
Trí tuệ Mới
tiêu diệt nó thôi.
47. Nó không ở
ngoại cảnh Không nằm trong các căn
Không ở giữa các căn
Hoặc bất cứ
nơi khác.
Vậy nó từ đâu đến?
Khiến cho đời đảo điên?
Nó chỉ là ảo ảnh!
Hỡi tâm của tôi ơi!
Không nên sợ
ái dục Hãy
giải phóng nó đi
Hãy
tu chứng Trí tuệ;
Đừng để
ái dục xô
Đẩy tôi vào
địa ngục.
48. Thường
tư duy như vậy
Nên cố sức
tu hành Giữ trọn giới
Bồ tát;
Không tuân lời
lương y Làm sao dứt được bệnh?
Các bản dịch khác: Nhập
Bồ Tát Hạnh do
Ni Sư Thích Nữ Trí Hải dịch năm 1998
Bồ Tát Hạnh, do
Thượng Tọa Thích Trí Siêu (Pháp) dịch năm 1990