Từ Avalokitesvara
Đến Quán Thế Âm Bồ Tát (*)
GS Tiến Sĩ CHUN-FANG YU,
Khoa Trưỏng Phân Khoa Tôn Giáo, The State University of New Jersey
Tâm Hà Lê Công Đa chuyển ngữLời Nói Đầu của Dịch Giả
Gieo Duyên Lành Cùng Bồ Tát Quán Thế ÂmBồ Tát Quán Thế Âm đang thực sự có mặt bên cạnh
chúng ta mang sứ mệnh
Bồ Tát vào đời để cứu vớt
nhân sinh qua cơn
khổ nạn hay chỉ là một nhân vật huyền thoại tôn giáo? Với những người mang nặng
tinh thần duy lý cho rằng
Đạo Phật không hề đặt cơ sở trên những
niềm tin mù quáng và do đó, tin vào sự
cứu độ của một
tha lực bên ngoài –ví dụ như
Quán Thế Âm Bồ Tát- theo họ là một
hình thức dị đoan mê tín, khó
chấp nhận.
Tuy nhiên nếu là
Phật tử, khi đặt
vấn đề này họ đã quên mất một điều rằng, những
năng lực phi thường của chư Phật và
Bồ Tát có thể
thực hiện những chuyện rất khó tin mà người đời quen gọi là «
phép lạ », đã được đề cập đến rất nhiều trong các kinh sách
Phật giáo thuộc cả hai
truyền thống Nam Tông lẫn
Bắc Tông. Những «
phép lạ » này
thực ra cũng chỉ là một trong muôn ngàn
phương tiện thiện xão mà quý Ngài đã ban phát cho những kẻ
hữu duyên để làm
tăng trưởng thêm
niềm tin ở nơi họ. Ngay cả
Đức Phật Thích Ca, tuy không khuyến khích việc
sử dụng thần thông, nhưng chính
bản thân Ngài trong một vài dịp cũng đã phải thi triển
thần thông để nhiếp phục người. Chuyện kể rằng, trong chuyến về thăm
hoàng thành Ca Tỳ La Vệ lần đầu tiên sau khi
thành đạo, vua cha
Tịnh Phạn và các bậc
trưởng lão trong
hoàng tộc, vẫn mang cái
ấn tượng vai vế trong
gia tộc, coi Ngài là người trẻ tuổi thuộc vào hàng con cháu nên đã không bày tỏ sự
tôn trọng đúng mức đối với một vị Phật. Để
cảnh tỉnh họ, Phật đã dùng
thần thông làm
hiện ra một cây cầu
pha lê ở trên không nối dài từ Đông sang Tây
thành Ca Tỳ La Vệ. Ngài bay lên đứng ở trên đó, chung quanh vây bọc bởi
hằng hà sa số những vị Phật của thời
quá khứ, và từ trên tòa giảng này Phật đã đưa cánh tay vươn dài ra chạm vào
mặt trời,
mặt trăng rồi nói với họ: « Đây là nơi không nhiễm một
hạt bụi trần ».
Chứng kiến phép lạ này cùng với những
thần thông khác của Phật, Đức vua
Tịnh Phạn quá đổi
hân hoan và kính phục, bèn
chắp tay lên trán
cung kính: « Hỡi vị
Phật nhân từ và cao cả, xin
vui lòng tha lỗi cho người cha già này và tất cả những người dân
thành Ca Tỳ La Vệ tụ họp nơi đây ! Tôi xin
quy y cùng Ngài là vị Phật, cùng Pháp và Tăng !». Tất cả
hoàng tộc của giòng
họ Thích Ca đã cúi đầu đãnh
lễ Phật sau lời
xưng tán của Đức vua
Tịnh Phạn. (1)
Phật giáo không phải chỉ
cung cấp cho
con người một mớ
giáo điều hay
lý thuyết suông nhưng
đồng thời cũng chỉ rõ ra những
con đường tu tập để hướng đến
giác ngộ,
giải thoát. Thông qua
tu tập, tức là
trải qua một
hành trình thể nghiệm
tâm linh,
hành giả đồng thời cũng
khám phá ra, hiểu và cảm nghiệm được những
năng lực vô bờ bến của chư Phật,
Bồ Tát và từ đó
trưởng dưỡng lòng tin. Thế nên đôi khi chỉ với một câu chú, một câu
niệm Phật mà người ta cho là rất
đơn giản nhưng trong đó lại ẩn chứa những
năng lực mầu nhiệm,
phi thường chỉ có người trong cuộc có
tu chứng mới thấy, mới biết được sự
cảm ứng,
linh nghiệm.
Nhớ lại thuở còn bé, là một đoàn sinh oanh vũ của
Gia Đình Phật Tử, vào những ngày rằm, mồng một phải
tham dự khoá lễ tối và
sinh hoạt tại chùa làng, đi
xuyên qua một cánh rừng thưa dài hơn hai cây số, tôi không khỏi
cảm thấy lo sợ. Sợ ma! Chuyện
dĩ nhiên thôi. Một cậu bé 7, 8 tuổi, một thân
một mình trong đêm vắng, nhất là vào những đêm trăng, nội chỉ nhìn thấy những bóng cây lung linh nhảy múa trên
con đường mòn cát trắng là cũng đủ chết khiếp rồi, huống gì
con đường này
nổi tiếng là lắm ma. Tôi đã nghe người trong làng
đồn đãi rằng trên
con đường này -nhất là đoạn băng ngang qua một ngôi mộ cổ gọi là “Lăng Mụ Hạp”, ma đã
hiện ra cả
giữa ban ngày, rượt đuổi những người đàn bà đi chợ trưa về. Cũng chính trên
con đường này, một
câu chuyện “ma dấu”
nổi tiếng mà tất cả những người trong làng không ai là không biết. Nạn nhân của vụ “ma dấu” này là anh ruột của một người bạn cùng học lớp thời Tiểu học với tôi. Anh này rất giỏi võ vì đã là võ sư chưởng môn nhân của
môn phái Thiếu Lâm ở trong vùng trước khi
bị động viên phục vụ tại Sư Đoàn I BB với cấp bậc
Thượng sĩ. Anh cũng là người đã từng đoạt giải nhất toàn Quân Khu về môn đi bộ băng rừng. Gan góc và võ nghệ đầy mình như thế mà anh lại bị “ma dấu!”
Số là một hôm được nghỉ phép về thăm
gia đình, anh lội bộ về làng, khi đi ngang quảng đường này thì trời cũng đã chạng vạng tối. Đang
hối hả bước nhanh anh suýt đâm sầm vào một người đang đi ngược chiều. Nhìn lên thì hoá ra là một người
bạn thân cũ cùng xóm. Hai bên mừng rỡ chào hỏi nhau và rồi người bạn bảo anh:
- Tao có chút
việc phải đi ra chợ, nhưng gặp mày về phép mừng quá, thôi tao
trở lại để ở chơi với mày.
Thế là hai người nắm tay nhau cùng đi
trở về làng. Người bạn móc túi
lấy ra một gói bánh in (2) mời anh ăn và anh đã ăn một cách
ngon lành. Đó là điều anh kể lại sau này với
mọi người, bởi vì ngay từ thời điểm đó thì có lẽ anh đã bị mê đi rồi, không còn biết
gì nữa, và anh đã bị con ma dẫn đi
loanh quanh đâu đó trong rừng suốt cả đêm.
Đến gần sáng thì con ma dẫn anh xuống con sông đầu làng, có lẽ là định dìm anh xuống sông cho chết đuối. May cho anh là lúc này những trẻ chăn bò trong làng đã
thức dậy dẫn bò đi ăn sớm. Đàn chó nghe có
tiếng động lội bì bỏm
dưới sông thì sủa ran lên. Đám trẻ chăn bò nghĩ rằng đâu có ai lại đi tắm sông sớm như thế, chắc có lẽ một bợm nhậu nào quá chén trên đường về nhà đã trợt chân lọt té xuống sông rồi. Thế là bọn chúng nhảy xuống sông kéo anh lên. Lúc này anh vẫn chưa tỉnh. Miệng thì dính đầy phân bò còn tay thì khư khư giữ chặt một miếng phân bò khô mà anh vẫn còn gọi là bánh in! Phải một lúc sau anh mới
tỉnh lại khi người làng kéo đến khá đông và anh bắt đầu kể lại đầu đuôi
câu chuyện.
Sau khi vụ này xảy ra thì bà nội tôi
dứt khoát không để cho tôi đi đêm
một mình. Tôi tuy
mắc cỡ với bạn bè là đã lớn rồi mà đi đâu cũng có một bà “vú em” kè kè theo một bên, nhưng trước sự
cương quyết của bà tôi đành phải nhượng bộ. Thế là từ đó,
Gia Đình Phật Tử của
chúng tôi lại có thêm một đoàn sinh “bất đắc dĩ”. Kể lại
câu chuyện này để
mọi người thấy rằng, cái gì đã làm cho một đứa bé 7, 8 tuổi
vượt qua nỗi
sợ hãi,
một mình đêm hôm trên
con đường vắng
vượt qua một khu rừng lắm ma như thế? Cái gì đã làm cho một đứa bé trông thấy một bóng trắng đứng hỏng chân trên một gò mả bên đường mà lại không ù té chạy? Thưa, đó là niềm tin!
Tin tưởng vào
Phật pháp.
Tin tưởng vào
năng lực cứu khổ cứu nạn của
Bồ Tát Quán Thế Âm. Tin rằng nếu vừa đi tay vừa bắt ấn vừa niệm
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì không
một thế lực
ma quỷ nào dám
xâm phạm đến ta. Tôi đã lớn lên trong một
niềm tin tưởng
sâu xa về
Bồ Tát Quán Thế Âm như thế.
Niềm tin này càng ngày càng được
củng cố vững chắc, không hề
suy suyển.
Sau này khi lớn lên, muốn
tìm hiểu thêm một vùng đất mới của đất nước mang rất nhiều huyền thoại
tôn giáo cũng như một bản sắc văn hoá
đặc biệt, khi ra trường tôi đã chọn nhiệm sở về
hành nghề “gõ đầu trẻ” tại một tỉnh ở miền Nam. Trong những dịp rãnh rỗi có cơ hội đi đó đi đây, có lẽ do
bản tính yêu
văn chương nghệ thuật của một thầy giáo dạy văn đã đưa tôi đến chỗ
quen biết với một nghệ sĩ
nghiệp dư cổ nhạc,
đồng thời cũng là một giáo viên đang dạy học tại trường Tiểu học Bình Thạnh Đông, quận Lấp Vò, Sa Đéc mà người ta quen gọi theo lối
xưng hô Nam Bộ là thầy Bảy. Từ chỗ
quen biết đó, hễ sau này nếu có dịp đi tạt ngang qua vùng này, tôi lại thường tìm đến thăm anh để nghe anh biểu diễn trình tấu cổ nhạc.
Quận Lấp Vò nằm kế Bắc Vàm Cống trên đường liên tỉnh Sa Đéc – Long Xuyên là một vùng thuộc
ảnh hưởng Phật Giáo Hoà Hảo, thế nên điều
ngạc nhiên đầu tiên của tôi khi đặt chân đến nhà anh là không thấy anh thờ tấm Trần Điều như những
gia đình PGHH khác mà ngay chính giữa nhà, là một
bàn thờ Phật với đèn nến khói hương và bức hình của
Quán Thế Âm Bồ Tát khá lớn. Điều thắc mắc này tuy tôi không nói ra nhưng anh đã cho tôi lời
giải đáp sau này. Anh lúc này đã trên bốn mươi và vẫn còn
độc thân, sống
một mình trong một ngôi biệt thự lớn nhất và cũng “nổi tiếng” nhất tại địa phương này.
Nổi tiếng vì đây là ngôi nhà ma: ngôi biệt thự của ông
Hội Đồng Tự, một dinh cơ đồ sộ
tọa lạc ngay tại chợ Lấp Vò, không ai là không biết. Ngôi biệt thự này trong thời chiến tranh Việt Pháp đã bị Pháp trưng dụng làm tổng
hành dinh cho
cơ quan an ninh điều tra cuả Phòng Nhì.
Trong khoảng thời gian này, hàng ngàn người
tình nghi hoạt động chống Pháp đã
bị bắt đưa về đây
điều tra, lấy khẩu cung. Rất nhiều nạn nhân đã bị
tra tấn đến chết và xác của họ người
Pháp không cần phải mất công chôn cất, chỉ việc liệng bỏ xuống con sông ngay sau nhà là
xong chuyện. Những vết máu của nạn nhân sau hàng mấy chục năm vẫn còn đọng lại dấu vết trên nền gạch bông không cách gì chùi rửa được là một
chứng tích của sự
khủng bố này.
Sau năm 1954, ngôi biệt thự này được hoàn trả lại cho cố chủ, nhưng cả
gia đình,
thân quyến của ông
Hội Đồng không ai dám dọn đến ở vì bị ma hoành hành. Ma lộng hành đến độ có người thân trong
gia đình vì
tiếc của nên bạo gan đến ở thử một đêm, đã bị ma nắm đầu liệng ra khỏi cửa sổ! Từ đó không ai còn dám thử nữa. Một dinh cơ đồ sộ như thế mà đành phải bỏ hoang trong một
thời gian khá dài đến cả 10 năm!
Cho đến đầu thập niên 60 thì thầy Bảy được đổi về đây. Mang dòng máu nghệ sĩ đảng tử, Thầy tuy đã nghe danh về ngôi nhà này, nhưng với
bản tính bướng bỉnh không tin
chuyện ma qủy lại không có chỗ trọ, thấy ngôi biệt thự này quá “ngon lành” nên cũng
đánh liều muốn
thử thời vận một phen. Thế là Thầy tìm đến ông
Hội Đồng Tự và ngõ
ý muốn thuê mướn ngôi nhà.
Ông
Hội Đồng cười
sốt sắng:
- Nếu Thầy ở được, tôi cho Thầy
ở không chứ chẳng phải thuê mướn gì cả!
Vì đã nghe danh ngôi nhà này rồi nên Thầy Bảy nghĩ đến
kế hoạch đối phó. Thầy kể lại chuyện này với tôi như sau:
“Thầy biết không, vì ngôi nhà này bỏ hoang
đã lâu nên
không vô điện. Để chuẩn bị cho đêm đầu tiên, tôi đã phải chạy đi mua hàng chục cây đèn Hoa Kỳ cỡ bự, dầu mỡ đàng hoàng, đốt đèn thử trước cho chắc ăn là không cây nào bị trở ngại. Trước đó tôi cũng đã vào lớp kêu gọi khoảng chục đứa học trò lớn, bặm trợn, tối nay mang giàng thun, gậy gộc đến
trợ lực tôi. Tất cả bọn chúng đều
y hẹn đến tiếp tay thầy vào buổi tối đầu tiên. Thế là tôi yên bụng, thầy trò
chúng tôi ngồi chờ đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra xem có đúng như lời
đồn đãi hay không.
Mọi sự đều có vẽ yên lành
cho đến khoảng 10 giờ tối.
Đột nhiên những cây đèn mà tôi đặt ở mỗi góc nhà từ từ tàn lụi dần và tắt hẵn như có ai đó đã lấy tay đè lên tim đèn. Mà không phải tất cả chúng đều tắt một lượt đâu nghe. Từ từ từng cây một, cây nọ đến cây kia như có ai đó đang
cố tình đùa nghịch với tôi. Khi cây đèn
cuối cùng tắt hẵn thì
đồng thời ở ngoài cữa, cửa lớn lẫn cửa sổ, hàng đàn con chim ụt, con nào con nấy to như con gà mái bay vào tấn
công chúng tôi. Tôi hô đám trẻ vung gậy và bắn giàn thun chống trả. Thế là chúng biến đi. Rồi một lát, cả một đàn mèo mun, con nào con nấy to bằng con heo con, mắt xanh lè phóng vào như muốn
cắn xé chúng tôi. Tôi lại hô đám trẻ chống trả. Thế là chúng lại biến đi.
Tình hình trở nên yên tĩnh trong một lúc và tôi nghĩ rằng trò quấy phá này có lẽ đến đây là
chấm dứt. Nhưng không, khoảng chừng 11 giờ tối, trên rầm thượng bỗng nhiên có những tiếng xiềng xích khua rổn rảng, rồi tiếng dao vằm thớt và tiếng những người đàn bà nói chuyện ì xèo
với nhau như người ta đang tụ lại nấu nướng để làm đám giổ.
Chúng tôi yên lặng chờ xem “họ” sẽ giở trò
gì nữa đây để
tìm cách đối phó. Một lát, những
tiếng động kia chợt
im bặt. Đang từ
ồn ào, không khí rơi vào một sự tĩnh mịch đến rợn người.
Đột nhiên trong sự im vắng đó bỗng nỗi lên những tiếng kêu than rên xiết của những người đang bị
hành hạ tra tấn. Tiếng kêu than ai oán và
thê lương xoáy mạnh vào đầu, vào tim tôi, đến độ bây giờ cả 10 năm sau, tôi vẫn nghe như chúng vẫn còn văng vẳng bên tai. Tiếng kêu than
thê thảm này quả là
quá sức chịu đựng đối với một
con người. Tôi hết còn chịu nỗi và kêu đám học trò “rút binh”!
Tuy nhiên do vẫn còn “tiếc của đời”, tôi kêu đám học trò giúp tôi
thử thời vận thêm một đêm nữa. Cái đêm thứ hai này, tấn tuồng lại xảy ra
y như đêm trước và đến khoảng 11 giờ khuya thì tiếng kêu than rên xiết lại trổi dậy. Bỗng nhiên trong lúc này, từ đâu trong
tiềm thức, miệng tôi bật lên câu niệm:
NAM MÔ QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT. Bỗng dưng, tất cả những tiếng rên xiết
thê thảm kia đều
im bặt ngay lập tức.”
Thầy Bảy ngưng một lát, xong bắt đầu
tiếp tục câu chuyện với giọng nhiệt thành hơn:
- Thầy biết, tôi là người theo đạo Ông Bà, không hẵn là một người theo
Phật giáo. Lúc niệm
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm có thể là do
truyền thống tin Trời Tin Phật đã có từ
lâu đời trong
gia đình nên mới buột miệng ra như thế. Nhưng khi mới niệm lên một câu mà
linh ứng như vậy,
quả thật là lúc đó lòng tôi rất khoái chí. Tôi
nghĩ thầm: “Thế là tao đã có
biện pháp trị chúng mày rồi nghe!” Nhưng rồi một hồi
tĩnh trí lại, tôi bỗng
suy nghĩ: “Ma qũy là có thật –vì chúng đang phá mình muốn chết đây- thế mà khi niệm
danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, chúng ngưng ngay sự quấy phá, tức là chúng cũng kính sợ Ngài, điều này có nghĩa là
Bồ Tát Quán Thế Âm cũng có thật. Tôi chỉ
suy luận đơn giản như thế và rồi tôi
tin tưởng tuyệt đối vào
công năng và
uy lực của Ngài. Thế rồi tôi nghĩ đến
vong linh của những oan hồn
uổng tử đã chết trong căn nhà này chưa được
siêu độ, có lẽ họ đang
đau khổ lắm, thế là tôi hứa với họ rằng tôi sẽ mời Thầy về làm
lễ cầu siêu cho họ vào ngày mai.
Tôi đã giữ đúng
lời hứa. Chỉ vào bức hình
Bồ Tát giữa trang thờ, Thầy Bảy tiếp, hôm sau tôi đi Long Xuyên thỉnh
tôn tượng của Ngài đem về thờ và tôi
trở thành một người
tin tưởng hoàn toàn vào sự
linh ứng nhiệm mầu của
Bồ Tát Quán Thế Âm. Tôi cũng đã làm
lễ cầu siêu chu đáo cho “họ” và từ đó “họ” không còn quấy phá tôi nữa. Nhưng chỉ phòng của tôi ở thôi à nhen. Những phòng khác tôi không
bảo đảm đâu à. Không tin Thầy cứ ngủ thử lại một đêm,
nếu không có chuyện gì xảy ra, sáng mai tôi sẽ bao Thầy đi ăn sáng!”
Dĩ nhiên tôi từ chối sự thách đố này. Không phải là vì tôi sợ ma, nhưng vì với tôi, đây không phải là chuyện để đem ra đánh cá!
Những chuyện
linh ứng của
Bồ Tát thì nhiều
vô số kể. Trong cuộc chiến khốc liệt vừa qua. Trong cuộc
hành trình vượt biển Đông
bi thảm của người Việt tỵ nạn, bao nhiêu
gia đình, bao nhiêu sinh mạng đã được Ngài
cứu độ, vượt
thoát khỏi hiểm nghèo, được Ngài đưa từ cõi chết
trở về lại với cõi sống. Bao nhiêu chuyện mà tôi được nghe, được thấy và đôi khi chính mình là nhân vật trong cuộc, tôi chỉ đơn cử ra một vài truyện ma nói trên để
mọi người thấy rằng có những
cảnh giới vẫn luôn
hiện hữu ngay bên cạnh
chúng ta nhưng do khả năng
giới hạn của mình,
chúng ta đã không thấy được, nhưng không có nghĩa là chúng không
hiện hữu. Cũng vậy,
Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một nhân vật huyền thoại
tôn giáo mà là một vị
Bồ Tát có thực, đã và đang có mặt trong
cảnh giới này, bên cạnh
chúng ta, luôn luôn lắng tai nghe những tiếng kêu thương của
chúng sanh để tìm đến giúp đỡ
cứu độ.
Đại sư Tinh Vân, một
danh tăng Trung Hoa
hiện đại, trong bài tựa cuốn “Phổ Đà Sơn Dị Truyện” đã
nhận định rằng:
“Một điều rất đáng tiếc và rất lấy làm lạ là lòng người thời nay, cứ nói đến sự
cảm ngộ linh nghiệm của
Bồ Tát là thấy đôi phần
nghi hoặc, nói đến sự
hiện thân của
Bồ Tát thì bao giờ cũng cho đó là truyện
thần thoại. Người không tin
Phật giáo như thế đã đành,
mà cả những người
tín ngưỡng Phật giáo cũng phạm những
sai lầm đó. Một điều không thể
tha thứ được, đó là những người
tín ngưỡng Phật giáo và đã
nghiên cứu khá sâu về
Phật pháp, thế mà từ
lời nói đến bài viết, họ cũng không dám đề cập đến sự
hiện thân vô hình hoặc
hữu hình trong sự
cảm ứng của Phật
Bồ Tát, chính họ cũng sợ người ta cười là truyện
thần thoại, điều đó quả thực là một
sai lầm vô cùng to lớn!
Khi
chúng ta lần đọc
tạng kinh, nhất là đọc đến
Hiền Ngu Nhân Duyên Kinh,
Bách Dụ Kinh,
Kinh Luật Dị Tướng,
Lục Độ Tập Kinh, v.v… trong đó chẳng đã ghi lại những sự việc rất kỳ lạ đó sao? Nếu coi tất cả những truyện đó là
thần thoại, thì quả thực, tôi không thể hiểu nổi
chúng ta dựa trên cơ sở nào mà
xây dựng lòng tin đối với
tôn giáo và sự ngưỡng mộ
lý tưởng tôn giáo.”
Và Ngài sách tấn:
“Thời đại ngày nay, quả thực là
hỗn loạn rối ren đến
cực điểm,
ma quỷ múa may,
tà thuyết lộng hành,
nhân tâm không chốn
quy y,
tinh thần chẳng nơi ký thác, biển khổ
mênh mông, rồi
con người sẽ đi về đâu?
Thiên tai nhân họa, làm sao
giải thoát cho được? Đó là một
vấn đề đang nung nấu trăn trở trong lòng mỗi người. Có cách nào
giải quyết vấn đề này chăng?
Duy nhất chỉ có một câu
trả lời, đó là hãy tin vào
Quán Thế Âm Bồ Tát! Hãy đem tất cả
bản thân mình
quy y, gởi gắm vào
Quán Thế Âm Bồ Tát,
hiểu rõ Quán Thế Âm Bồ Tát là sự
thị hiện của
Đại Từ,
Đại Bi,
Đại Trí Tuệ, Đại Dõng Mãnh, dù
trước mắt chúng ta là những gì
đau khổ,
tai họa,
phiền não, chỉ cần
chúng ta nhất tâm bất nhị, thực lòng
tín ngưỡng,
xưng niệm,
lễ bái, nếu
chúng ta có được
lòng từ bi,
trí tuệ và dõng mãnh của
Quán Thế Âm Bồ Tát, thì
Quán Thế Âm Bồ Tát nhất định sẽ
giải cứu chúng ta”. (3)
Trong
tâm thành và
niềm tin tưởng như thế, tôi có duyên may được đọc
tác phẩm “Bồ Tát
Quán Thế Âm”của GS
Tiến sĩ CHUN-FANG YU, đương kim Khoa trưởng Phân khoa
Tôn giáo Đại Học TB New Jersey.
Tiến sĩ Yu lúc còn bé 4, 5 tuổi đã thường được nghe bà nội tuyên xưng về
Bồ Tát, lớn lên
niềm tin tưởng của Bà vẫn không hề
thoái chuyển và đó là động cơ chính
thúc đẩy Bà tiến hành
công trình nghiên cứu này, một
công trình nghiên cứu có thể nói là đầy đủ nhất về
Bồ Tát Quán Thế Âm từ trước
đến nay mà qua đó,
chúng ta sẽ hiểu được
lý do tại sao
Bồ Tát Quán Thế Âm đã được kính ngưỡng trong các
quốc gia Phật giáo -cả
Nguyên Thủy lẫn Đại Thừa- và
đặc biệt tại
Trung Quốc, quê hương của
tác giả,
tín ngưỡng tôn thờ
Bồ Tát Quán Thế Âm đã
phổ cập trong dân gian từ bao đời nay,
thể hiện qua câu
ngạn ngữ: “Người người niệm
Di Đà, nhà nhà thờ Quán Âm”.
Cũng trong
tâm thành và
niềm tin tưởng như thế, tôi xin phép
tác giả được chuyển
tác phẩm này sang Việt ngữ.
Hy vọng là sẽ có thêm nhiều người có dịp được gieo duyên lành cùng
Bồ Tát. Cầu mong
chư Tôn Đức, quý vị
thức giả bổ khuyết cho những chỗ
sai lầm trong khi
chuyển ngữ.
NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.Tâm Hà Lê Công Đa(1) : “The Book of Miracles”, Kenneth L. Woodward, Dimon & Scuster xb, 2000. p. 320-321.
(2) : Một loại bánh ngọt làm bằng bột gạo khô và đường phổ biến ở miền Trung, nhất là vào dịp Tết.
(3) : Phổ Đà Sơn Dị Truyện. Pháp sư Chử Vân. NVP dịch. Sách ấn tống, xb1999. p. 6-7. CHƯƠNG I
Phần Dẫn Nhập
Quán là
xem xét lắng nghe, Âm là
âm thanh, tiếng kêu.
Quán Âm hay
Quán Thế Âm (Kuan-Yin) là
danh hiệu bằng tiếng Trung Hoa của
Bồ Tát Avalokitesvara, vị
Bồ Tát tiêu biểu của phẩm tính
Đại Từ Bi mà
công năng và
hạnh nguyện chính là
chuyên tâm xem xét, lắng nghe những tiếng kêu thương của
cuộc đời để tìm đến giúp đỡ,
cứu độ.
Tín ngưỡng tôn thờ
Bồ Tát Quán Thế Âm là một
tín ngưỡng rất
phổ thông tại các
quốc gia Phật giáo Á Châu,
đặc biệt là
Trung Quốc được
thể hiện qua câu
ngạn ngữ: «Người người niệm
Di Đà, nhà nhà thờ Quán Âm». Các
quốc gia trong vùng Tây Á do
ảnh hưởng của
Trung Quốc, cũng đã gọi Ngài bằng
danh hiệu này: Nhật gọi là Kannon hay Kanzeon,
Triều Tiên là Kwanse’um còn
Việt Nam như
chúng ta đều biết,
danh hiệu của vị
Bồ Tát chuyên
cứu khổ cứu nạn này là
Quán Thế Âm. Thế nhưng không phải chỉ tại các
quốc gia theo
truyền thống Phật giáo Bắc Tông trong vùng Tây Á là có khuynh hướng tôn thờ Ngài mà nói chung là cả toàn vùng Á Châu. Thậm chí người ta còn xem Ngài như là một vị
nữ thần linh hiển mà qua những
hình tượng được nghệ nhân
sáng tạo trong các thế kỷ 17 và 18 hiện được trưng bày trong các
bảo tàng viện, Ngài được trình bày dưới dạng nữ thân.
Tuy nhiên tại
Ấn Độ,
Tây Tạng,
Tích Lan và Đông Nam Á,
Bồ Tát Avalokitesvara đã không hề được
thờ phượng như là một vị
nữ thần. Ngay cả tại
Trung Quốc qua những tranh vẽ
tìm thấy tại
Đôn Hoàng sáng tác vào khoảng thế kỷ thứ mười,
thoạt tiên Ngài cũng được trình bày dưới dạng nam thân với hàng ria mép (1). Như vậy do đâu lại có sự
hoá thân từ một nam thân
Bồ Tát Avalokitesvara
trở thành nữ thân
Quán Thế Âm Bồ Tát? Đây là một
hiện tượng đặc thù Trung Hoa đã gây hứng khởi cho nhiều nhà
học giả đặc biệt quan tâm nghiên cứu.
Bồ Tát Quán Thế Âm ngày nay đã được biết đến tại Hoa Kỳ và lục địa Âu Châu như là kết quả của một sự
kết hợp bởi
chủ nghĩa nữ quyền cùng với làn sóng di dân của các tăng sĩ
Phật giáo vào các nước phương Tây. Mặc dù
Phật giáo đã được biết đến tại Hoa Kỳ kể từ thế kỷ thứ 19, nhưng có thể nói rằng những
biến cố chính trị tại Á Châu sau thời Thế chiến thứ hai đã góp phần lớn lao trong việc
du nhập tôn giáo này vào các nước phương Tây. Khi Trung Hoa rơi vào tay Cộng sản năm 1949, một số lớn các tăng sĩ
Phật giáo đã
đào thoát qua Hồng Kông,
Đài Loan, Tân Gia Ba và Hoa Kỳ. Cũng
tương tự như vậy, khi Trung Cộng xâm lăng
Tây Tạng, các vị
Lạt Ma đã
trốn thoát qua
Ấn Độ và một số cũng đã đến được Hoa Kỳ. Rồi đến khi cuộc chiến
Việt Nam kết thúc vào năm 1975, một đợt di dân mới từ
Việt Nam và các
quốc gia Đông Nam Á trong thập niên 1980 đã
giới thiệu đến người
bản địa nhiều sắc thái khác nhau của
Phật giáo cũng như một số các vị
Bồ Tát khác mà họ
thờ phượng. Trong tất cả các
truyền thống Phật giáo này,
Bồ Tát Quán Thế Âm hầu như đều được kính ngưỡng. Chưa kể là trong những năm
gần đây, các nhà
học giả Hoa Kỳ thuộc khuynh hướng nữ quyền đã bắt đầu
thích thú đi sâu vào việc
khám phá một
truyền thống nữ thần - của
Tây phương trước
thời kỳ hưng khởi của giáo hệ
Cơ Đốc hoặc là những
linh thần không thuộc
truyền thống tôn giáo phương Tây (2), trong
trường hợp này
Bồ Tát Quán Âm cũng như Tara, Kali, và Durga là những
biểu tượng được
đặc biệt chiếu cố.
Mặc dù đây có thể là điểm
nổi bật hơn cả
tuy nhiên không phải là nét đặc thù
duy nhất khiến cho
Bồ Tát Quán Thế Âm được
đặc biệt lưu tâm. Những
đặc tính khác của Ngài cũng có sức thu hút
tương tự. Chẳng hạn như, tại sao
tín ngưỡng tôn thờ
Bồ Tát Avalokitesvara đã trở nên phổ quát trong
Phật giáo thế giới, kể cả các
quốc gia chịu
ảnh hưởng truyền thống Nguyên thủy,
Đại thừa hay Mật Tông? Những vị
Bồ Tát mang
hạnh nguyện vào đời
cứu độ tất cả mọi loài
chúng sanh. Để
thực hiện hạnh nguyện cao cả đó, các Ngài đã chọn
con đường hoàn thành Phật đạo thay vì đi
tìm kiếm niết bàn riêng rẽ cho
cá nhân mình như các vị
A la hán.
Bồ Tát, như thế, đã
trở thành những
mục tiêu mới cho các người theo
tông phái Đại thừa và
Mật tông; trong khi đó
truyền thống Nguyên thủy chỉ tôn thờ
Đức Phật Thích Ca, còn danh xưng «
Bồ Tát » chỉ nhằm
liên hệ đến những
tiền thân của
Đức Phật trước khi Ngài
giác ngộ đạt
thành chánh quả. Thêm vào đó,
truyền thống Nguyên thủy chỉ
tin tưởng vào một số lượng
Bồ Tát rất
giới hạn,
cụ thể như
tiền thân của
Đức Phật Thích Ca, và vị Phật tương lai,
Bồ Tát Di Lặc; còn khuynh hướng
Đại thừa thì
tin tưởng rất nhiều vị
Bồ Tát khác nhau,
đồng thời qua đó kêu gọi
Phật tử phát khởi Bồ Đề tâm (
tâm thức thúc đẩy con người thực hành Bồ tát đạo nhằm đạt
thành Phật quả) là một trong những khác biệt có
ý nghĩa nhất giữa hai
truyền thống Phật giáo.
Có hai
lý do để cho ta có thể
giải thích tại sao
tín ngưỡng tôn thờ
Bồ Tát Quán Thế Âm lại bám rễ đâm chồi một cách
thành công tại nhiều
quốc gia Á Châu như thế.
Trước tiên, kế cận
Đức Phật,
Bồ Tát Quán Thế Âm là một trong số những vị
Bồ tát hiếm hoi được
quần chúng tôn thờ một cách
liên tục và
phổ biến tại
Ấn Độ. Kể từ những thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên
cho đến khi
Phật giáo biến mất khỏi xứ này vào thế kỷ thứ 12,
Bồ Tát Avalokitesvara đã dành trọn sự tôn thờ kính ngưỡng của những người
Phật tử thuần thành. Những kinh sách, những
hình tượng nghệ thuật mới về Ngài đã luôn được
sáng tạo theo với
thời gian. Bởi vì
Ấn Độ là quê hương của
Phật giáo, nếu Ngài được
đặc biệt tôn thờ tại đây thì điều tất nhiên,
hình ảnh của Ngài cũng dễ dàng được đón chào và
chấp nhận tại các
quốc gia Phật giáo khác.
Lý do thứ hai khiến việc tôn thờ
Bồ tát phát triển mạnh mẽ bên ngoài lãnh thổ
Ấn Độ liên hệ đến
bản chất cơ bản của
Phật giáo như là một
tôn giáo. Cũng giống như việc
Phật giáo đã cộng tồn một cách hài hoà với
Bà La Môn giáo và
Ấn Độ giáo tại
Ấn Độ,
Phật giáo đã không
tìm cách để thay thế các
tôn giáo bản địa khi
Phật giáo được
du nhập vào những
quốc gia này. Được gọi là Lokesvara (
Thế Giới Vương: Vua của
Thế Gian ) tại Cam Bốt, Java và
Việt Nam (Chàm); Lokanatha (
Thế Tôn, Người
Bảo Hộ Thế Giới) tại Miến Điện; Natha Deviyo tại
Tích Lan; và Chenresi (Kẻ Nhìn Bằng Cặp Mắt
Sáng Suốt) tại
Tây Tạng,
Bồ Tát Avalokitesvara có thể được gọi bằng những
danh hiệu khác nhau, nhưng tựu trung toàn vùng
văn hóa Phật giáo khu vực Nam, Đông Nam và Tây Á người ta đều biết đến
Bồ Tát và
thờ phượng Ngài.
Mặc dù
Bồ Tát là
hiện thân của
lòng từ,
tuy nhiên tùy thuộc vào khung cảnh văn hoá của mỗi
quốc gia,
hình ảnh này đã được
thể hiện một cách khác nhau.
Trung Quốc và những
quốc gia chịu
ảnh hưởng sâu đậm bởi nền văn hoá này như
Nhật Bản,
Triều Tiên,
Việt Nam đã xem
Bồ Tát Quán Thế Âm như là một
hình ảnh biểu trưng của
trí tuệ cho những
thiền gia và
đồng thời cũng là vị « Phật Bà
Cứu Khổ Cứu Nạn »,
đặc biệt rất
quan tâm ưu ái đến giới
phụ nữ; trong khi đó tại
Tích Lan,
Tây Tạng và Đông Nam Á,
hình ảnh Bồ Tát gắn liền cùng với các vương triều. (Theo Boisselier 1965, 1970; Chutiwongs 1984; Holt 1991; Kapstein 1992; Monnika 1996). Sự
thần thánh hóa những vị vua,
sự tạo dựng nên những
hình ảnh đầy
tính cách quyền phép về các vị
thần linh, cũng như
niềm tin tưởng của vương quyền vào
quyền năng của các
ảnh tượng là những
tư tưởng một thời rất
thịnh hành trong vùng lục địa và quần đảo Đông Nam Á.
Học giả Stanley J. Tambiah (1982: 5-19) đã nói về
tín ngưỡng này cũng như sự
thờ phượng các
ảnh tượng của cả
Phật giáo lẫn
Ấn Độ giáo tại vương quốc Khmer của Cam Bốt, vương quốc Chiêm Thành của
Việt Nam và vương quốc Nam Dương trước đây.
Cụ thể như vua Bhavavarman II (trị vì khoảng giữa thế kỷ thứ 7) của
thời kỳ tiền- Khmer, Cam Bốt, đã
sùng bái Lokesvara hay Chúa Tể của
Thế Giới như là vị thần bản mệnh của mình và cho tạo dựng nên những
tôn tượng của Ngài để
thờ phượng. Những vị vua của
triều đại Indrapura vương quốc Chiêm Thành (875-920 C.E.) là những
tín đồ thuần thành của
Bồ Tát Avalokitesvara. Vua Indrapura II đã cho
xây dựng lên một ngôi đền
tráng lệ để
thờ phượng Ngài vào năm 875 và đặt tên cho ngôi đền là Laksmindralokesvara, bằng cách ghép tên của mình cùng với
danh hiệu của
Bồ tát Avalokitesvara (Howard 1996a :233).
Tất cả các
quốc gia trong vùng Đông Nam Á ngoại trừ Miến Điện đều cùng
chia xẻ chung một ý hệ về sự
sùng bái «
thiên vương » (devaraja), mà qua đó họ đã đồng hoá vị vua đang cai trị với
hình ảnh của một vị
thần linh Ấn Độ giáo hay
Phật giáo. Một
thí dụ cụ thể là ngôi đền
nổi tiếng Đế
Thiên Đế Thích (Angkor Wat), một ngôi đền bằng đá lớn
nhất thế giới được
xây dựng trong khoảng thế kỷ thứ 12 và 13 tại Cam Bốt. Ngôi đền Đế
Thiên Đế Thích được
xem như là nơi trú xứ của các
thiên thần kể cả các vị
thiên vương. Đây là nơi mà các vị
thần linh Phật giáo lẫn các vị
thiên vương được tôn thờ trộn lẫn
xen kẻ cùng nhau,
nổi bật lên trên tất cả là vị vua của các tầng trời,
Đế Thích. Người ta tin rằng những
tín đồ thờ phượng Lokesvara sẽ được sinh về nơi
Thiên giới dưới sự cai quản của vua Jayavarman VII (1181-1218), người đã
xây dựng nên ngôi đền Bayon tại
trung tâm vương thành Angkor Thom. Vua là người đưa
Phật giáo trở thành quốc giáo. Tại Bayon còn lưu lại những ngôi tháp lớn chứa
hình tượng những khuôn mặt vĩ đại mà người ta tin rằng đó là những
hình ảnh của vị vua được
thần thánh hoá mang nhân dạng Lokesvara. Không phải chỉ riêng nhà vua được đồng hoá với
hình ảnh của
Bồ tát mà ngay cả Hoàng hậu, Jayavaradevi, cũng có thể đã được ghi dấu lại sau khi băng hà bằng một bức tượng của Tara, vị
thị giả của
Bồ Tát (Jessup và Zephir 1997: 304; Bunnag 1984:161; Zwalf 1985:176).
Cũng
tương tự như thế,
Bồ Tát Avalokitesvara đã được tôn thờ như là một vị thần
bảo hộ vương quốc của các vương triều
Tích Lan kể từ thế kỷ thứ 15 và các vị vua của đảo quốc Java trong
thời kỳ tiền
Hồi giáo, thế kỷ thứ 13 đến thế kỷ thứ 15. Tại
Tây Tạng,
Bồ tát Avalokitesvara cũng được tôn thờ như là vị thần
bảo hộ đất nước, mà một vị vua
nổi tiếng nhất
trong lịch sử Tây Tạng, Srong-bstan sgam-po (649) và Đức
Đạt Lai Lạt Ma được
quần chúng Phật tử tin tưởng là những
hóa thân của
Bồ Tát Avalokitesvara. Người Pai sinh sống tại vùng Vân Nam, khai sinh ra các vương quốc
Nam Châu và Đại Lý dưới các
triều đại Đường (618-906), Tống (960-1279) cũng
chia xẻ một
niềm tin tưởng như thế. Được biết đến dưới
danh hiệu A-ts’o-yeh
Quán Âm,
Bồ tát đã được
thờ phượng như là vị khai quốc và
đồng thời cũng là vị thần
bảo hộ của các vương triều này (Yu 1991; Howard 1996a). Người Pai đã
chia xẻ vương hiệu của
Bồ tát Avalokitesvara với các
quốc gia lân bang mà họ giao dịch
mật thiết. Sau này trong các kinh sách
Phật giáo Đại thừa và
Mật Tông,
Bồ Tát Avalokitesvara đã được trình bày như là một khuôn mặt bao trùm lên tất cả, là kẻ
sáng tạo và cứu vớt muôn loài, mọi
thế giới. Vương hiệu mang
hình tượng Ngài đã
xuất hiện một cách
tự nhiên trong khung cảnh mà trước đó cũng như đương thời không có một
hình ảnh cao cả nào có thể
so sánh được.
Một cách
rõ ràng là trước đó
Bồ Tát Avalokitesvara đã chưa hề
trở thành một vị
nữ thần. Thế thì tại sao tại
Trung Quốc Bồ Tát đã không
gắn liền với các vương triều như tại các
quốc gia Phật giáo khác?
Phải chăng một điều khá
dễ hiểu là vì ý hệ quân chủ và
biểu tượng vương quyền của
Trung Quốc đã được thiết định trước khi
Phật giáo du nhập vào
quốc gia này thế nên đã
không chấp nhận một
hình ảnh nào khác? Vị
Hoàng Đế Trung Quốc chịu Mệnh Trời mà trị dân.
Ý niệm này đã được hình thành từ thời nhà Chu (1122 -256
trước Công Nguyên –B.C.E.). Vua là
Thiên Tử và là một nhân tố quan trọng trong Tam Tài: Thiên - Địa – Nhân. Tất cả những
ý niệm này đã được tinh lọc lại thêm
một lần nữa dưới
triều đại nhà Hán (206 B.C.E – 220 Công Nguyên – C. E.).
Ý thức hệ
Khổng Giáo hầu như
chi phối trọn vẹn các
thể chế vuơng quyền tại
Trung Quốc trãi qua các
triều đại. Thản hoặc
thỉnh thoảng trong lịch sử có một vài vị quân vương đã có
ý định dùng
tư tưởng Phật giáo làm chỗ tựa cho vương quyền, nhưng những
cố gắng này
tỏ ra rất
hạn chế và không kéo dài được bao lâu. Chẳng hạn như
Hoàng Đế Bắc Ngụy, Văn
Thành Đế (453-465) đã cho xây năm hang động
tạc tượng Phật tại
Vân Cương mà mỗi vị Phật
tiêu biểu cho một vị
Hoàng Đế tiên triều,
chứng tỏ là ông đã có
ý muốn sáng tạo ra một chủ thuyết
thần quyền trên
căn bản Phật giáo. Nữ
Hoàng Đế Vũ Tắc Thiên (684 – 704) cũng đã tự xưng mình là
Di Lặc giáng trần và
Hoàng Đế Càn Long (1736- 1765) thì coi mình là
hóa thân của
Bồ Tát Văn Thù. Ngoại trừ
trường hợp đặc biệt của Từ Hi Hoàng
Thái Hậu cuối thế kỷ thứ 19 đã ăn bận
y phục mô tả như là giống với
hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm để tạo sự chú ý trong các buổi hội hè
giải trí,
lịch sử Trung Quốc không cho thấy có một vị quân vương nào tự xem mình là
hóa thân của
Bồ Tát Quán Thế Âm.
Ý tưởng về một vị
Bồ Tát - với
lòng từ bi vô lượng và
công năng cứu độ luôn luôn
đáp ứng mọi tiếng kêu than để giúp đỡ mà không hề
phân biệt đẳng cấp, phái tính, thậm chí
tư cách đạo đức- là một
ý tưởng tương đối mới mẻ đối với người
Trung Quốc. Đây là một vị
linh thần mới, chẳng những có thể giúp cho
con người đạt đến giác ngộ, mà còn cứu vớt họ ra khỏi những
nghịch cảnh khổ đau của đời thường, giúp cho họ được sống
như ý, « chết
an lành » và lại còn
đảm bảo cho cả
kiếp sau. Đã không có một ông Trời, một
nữ thần nào trước đó tại
Trung Quốc có khả năng
tuyệt vời như
Bồ Tát Quán Thế Âm, thản hoặc nếu đã có những vị
nữ thần như thế, không có
hình ảnh nào khả dĩ
tồn tại lâu dài có khả năng thu hút
tín đồ trước khi
Quán Âm xuất hiện. Như thế, đã có một khoảng trống
tín ngưỡng tại
Trung Quốc mà
hình ảnh của
Bồ Tát Quán Thế Âm xuất hiện đã có thể lấp đầy một cách dễ dàng và
đúng lúc.
Trong khi
nghiên cứu những
lý do tại sao người
Trung Quốc dưới
triều đại nhà Hán đã mở vòng tay đón nhận
Phật giáo một cách dễ dàng nhanh chóng,
học giả Eric Zurcher đã đưa ra
nhận định rằng: « Thay vì vay mượn
ngôn ngữ từ đạo Khỗng và
đạo Lão (hoặc nếu có cũng rất hiếm hoi), điểm
nổi bật đặc sắc nhất của
Phật giáo thời Hán là sự mới mẻ,
sáng tạo của nó.
Quan điểm cho rằng
Phật giáo được
chấp nhận bởi vì, trên một
phương diện nào đó, nó
phù hợp với
truyền thống cổ truyền của người
bản địa là một
quan điểm hoàn toàn sai lầm khó có thể
chấp nhận được:
Phật giáo có khả năng thu hút không phải chỉ vì nó là một cái gì gần gũi thân quen, mà bởi vì trên
căn bản nó là một cái gì đó mới lạ » (1991:291). Điều mà ông ta cho rằng
Phật giáo thời Hán là «sự
tiếp thu có chọn lựa từ bên ngoài» cũng có thể
áp dụng được vào
trường hợp của
Bồ Tát Quán Thế Âm. Người
Trung Quốc cảm thấy bị thu hút bởi
Bồ Tát không phải vì bà/hay ông ta mang một
hình ảnh tương tự với bất cứ vị
thần linh nào của người
bản địa mà
chắc chắn là vì không có vị
thần linh nào của người
Trung Quốc lại giống bà/hay ông ta.
Tuy nhiên một khi
hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm đã được
chấp nhận vào nguồn mạch
chính thống, thì nói chung, cũng giống như
Phật giáo,
Bồ Tát đã được
nhận thức và
quan niệm theo kiểu cách của nền văn hoá
Trung Quốc.
Hiện tượng chuyển phái -từ nam sang nữ- của
Bồ Tát Quán Thế Âm trong
Phật giáo Trung Quốc có thể được
xem như là một
trường hợp đáng
nghiên cứu về sự
chuyển hoá của
Phật giáo Trung Quốc. Một nền
văn hóa có thể bị thu hút bởi một nền văn hoá
ngoại lai,
tuy nhiên trong quá trình
tiếp thu nó không ngừng
biến đổi yếu tố lạ lẫm
trở thành quen thuộc. Đây là điều mà Edward Said đã từng
nhận định về mối tương quan
ảnh hưởng giữa hai nền
văn hóa: «Quả là một điều
hoàn toàn tự nhiên khi
tâm lý con người có khuynh hướng
chống lại sự
xâm lấn của những cái gì
xa lạ chưa thuần hoá,
cũng thế những nền
văn hóa thường có khuynh hướng áp đặt sự
chuyển hóa lên những nền
văn hóa khác, không hề
chấp nhận chúng trong
tình trạng nguyên dạng mà sau khi đã
biến đổi chúng theo
lợi ích của kẻ
tiếp thu » (1978 :67).
Phật giáo như thế đã
cung ứng những kiểu mẫu và
biểu tượng cần thiết cho những mảnh đất đón nhận nó. Để có thể
thích ứng với những
tôn giáo và
truyền thống văn hóa khác biệt tại các
quốc gia Á Châu, một số hình thái
Phật giáo mới đã được khai triển, hình thành.
Trường hợp Phật giáo Nhật Bản là một
thí dụ điễn hình. Từ những
tông phái Thiên Thai,
Tịnh Độ,
Hoa Nghiêm, Thiền,... của
Trung Quốc bỗng chốc đã
biến thành những Tendai, Jodo, Kegon, hay Zen của
Phật giáo Nhật Bản. Mặc dù người
Trung quốc đã đặt
căn bản những
giáo lý chính yếu và cách thức
hành trì tu tập của họ trên một vài
kinh điển dịch từ
Phạn ngữ, những kiểu cách và
đặc điểm nổi bật vẫn
phản ảnh lề lối
suy nghĩ cũng như những
giá trị văn hoá Trung Hoa. Những
học giả Phật giáo Trung quốc đã gọi tiến trình này là «Hán hoá» (3).
Tuy nhiên nếu ta dùng những danh từ như «chuyển hoá» hay «địa phương hoá» để
mô tả hiện tượng này thì có lẽ
thích đáng hơn. Và điều này
đặc biệt phù hợp với
trường hợp của
Bồ Tát Avalokitesvara, vị
Bồ tát đã trãi qua bao nhiêu lần
chuyển hoá, mang những
danh hiệu khác nhau, được trình bày khác biệt trong nghệ thuật, cũng như làm nảy sinh ra những cách thức
hành trì và
nghi lễ khác nhau tại những
quốc gia Phật giáo Á Châu chịu
ảnh hưởng Trung Quốc. Qua quá trình,
Bồ Tát đã được địa phương hoá để
phục vụ cho
lợi ích và nhu cầu của vùng đất mới
tiếp nhận mình.
Thuật ngữ «địa phương hóa» được dùng ở đây mang cùng một
ý nghĩa mà những
học giả khác đã dùng để
mô tả tiến trình mà
Phật giáo đã được
du nhập vào những
truyền thống văn hoá địa phương khác biệt với
Trung Quốc (4). Trong khi Avalokitesvara là một vị
đại Bồ tát có tầm vóc phổ quát nhưng
đồng thời Ngài cũng mang những nét đặc thù của bản sắc địa phương. Cũng
tương tự như thế, một khi
Quán Thế Âm được
thờ phượng tại
Trung Quốc,
hình ảnh của Ngài đã hoà nhập vào mạch sống của từng địa phương làm phát sinh ra những
giáo phái tôn thờ Ngài ngay tại những nơi đó. Từ những
tiếp thu có chọn lựa bởi những
truyền thống văn hoá của những vùng đất đón nhận Ngài, kết quả là
chúng ta có
hình ảnh của vị
Bồ tát đã được địa phương hoá.
Một điều có lẽ cũng cần được
giải thích ở đây là tại sao trong chương này cả hai
đại danh từ giống đực và giống cái (ông/bà) đã được dùng khi đề cập đến
Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu như
chúng ta tiếp tục đọc qua những chương
kế tiếp thì sẽ thấy rằng, qua những tranh tượng nghệ thuật còn lưu lại, từ đời Đường (618-907)
trở về trước,
Bồ Tát Quán Thế Âm đã được trình bày dưới dạng nam thân.
Tuy nhiên bắt đầu từ thời Tống sơ (960-1279) khoảng thế kỷ thứ 11, một số
tín đồ đã nhìn Ngài như là một vị
nữ thần và
hình ảnh về một vị Phật bà
Quán Âm đã được các nghệ
nhân Trung Hoa
sáng tạo. Sự
chuyển hoá thành dạng nữ thân của
Bồ Tát Quán Thế Âm được
xem như hoàn tất dưới
thời đại nhà Nguyên (1206-1368). Từ
thời đại nhà Minh trở đi, nghĩa là
vào khoảng thế kỷ thứ 15,
Bồ Tát Quán Thế Âm hoàn toàn xuất hiện dưới dạng nữ thân.
Tuy nhiên cho dù
hình tượng nữ nhân của
Bồ Tát Quán Thế Âm có tràn ngập trong
văn chương và nghệ thuật đến mức nào đi nữa, giới tăng sĩ
Phật giáo thủ cựu vẫn từ chối không nhìn nhận Ngài dưới dạng nữ thân. Ngay cả bây giờ những
hình ảnh của
Bồ tát Quán Thế Âm được
thờ phượng tại các
tu viện Phật giáo vẫn
tiếp tục được tạo dựng theo khuôn mẫu
hình tượng của đời Đường. Người ta không
tìm thấy hình ảnh của một vị
Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát hay Nam Hải
Quán Thế Âm Bồ Tát tại đây. Trong các
tự viện,
hình tượng của Ngài vẫn
tiếp tục được trình bày dưới dạng nam thân hay ít ra là không phái tính. Một số nghệ nhân của
triều đại quân chủ
Trung Quốc cuối cùng vẫn còn
sáng tác những
bức tranh vẽ về
Bồ Tát với hàng ria mép như
hình tượng của
Bồ Tát Quán Thế Âm được
tìm thấy ở những hang động tại
Đôn Hoàng trước đây. Bởi
lý do này việc gồm cả danh xưng ông/bà có vẻ như là cách thế hay nhất khi đề cập đến
Bồ Tát Quán Thế Âm, khi mà ngay cả sau khi Ngài đã
hoàn toàn được nữ hóa, một số người vẫn xem Ngài dưới dạng nam thân.
Nhằm
mục đích cung cấp những
so sánh đối chiếu và nền tảng
lý thuyết cho những
giáo phái tôn thờ
Bồ Tát tại
Trung Quốc, trong phần
dẫn nhập này
chúng ta sẽ
lần lượt nghiên cứu về những gì
liên quan đến Bồ Tát Avalokistevara tại
Ấn Độ mà hiện nay còn được biết,
tiếp theo là một vài nét
phác họa về
lịch sử của
Phật giáo tại
Trung Quốc. Sau đó
chúng tôi sẽ
giải thích về
phương pháp luận đã được dùng trong cuộc
nghiên cứu và
kết thúc bằng cách
tóm tắt ngắn gọn về nội dung của các chương mục trong cuốn sách này.
BỒ TÁT AVALOKITESVARA TẠI ẤN ĐỘ
Tất cả
Phật tử trên
thế giới nói chung đều
quy y và
tôn kính Tam Bảo -Phật, Pháp, Tăng;
tuy nhiên không có nghĩa là họ đều hiểu
Tam Bảo theo một cách thế giống nhau. Một trong những khía cạnh
nổi bật nhất của
truyền thống Đại thừa là kêu gọi
mọi người phát khởi Bồ Đề Tâm, và tìm cầu
giác ngộ không phải cho riêng
cá nhân mình mà cho cả muôn loài
chúng sanh. Nguồn
cảm hứng mới mẻ này được
đánh giá cao hơn là
lý tưởng A la hán trước đây, mà
mục tiêu chỉ nhằm đến
niết bàn sau khi vươn tới
giác ngộ. Quá trình
tu tập của một vị
Bồ Tát là cả một chuổi
hành trình lâu dài và gian khó. Sau khi đã phát
hạnh nguyện, mỗi người tự
rèn luyện mình theo
con đường Bồ tát đạo bằng cách
thực hành các
giới hạnh ba la mật (bắt đầu bằng hạnh
bố thí),
tinh tấn trong
thiền định,
cho đến khi thấu suốt được
trí tuệ của
tánh không (nghĩa là
nhận thức thấu đáo được rằng
vạn pháp đều không có
tự tánh). Bởi vì vị
Bồ Tát phát nguyện sẽ
cứu độ muôn loài
chúng sanh, họ chọn lựa ở lại cõi đời này và luôn luôn tạo
điều kiện dễ dàng cho
con người gần gũi.
Tuy nhiên chỉ có những vị
Bồ Tát đã
hoàn thành sự nghiệp tu chứng mới
trở thành những đối tượng để
Phật tử tôn thờ. Avalokitesvara là một trong những vị
Bồ Tát của cả
cõi Trời hay cả
vũ trụ mà
Phật giáo Đại thừa gọi là
Ma Ha Tát (Snell Grove 1986 ; Robinson and Johnson 1997; Bashan 1981) (5). Cũng giống như
Bồ Tát Di Lặc và
Văn Thù Sư Lợi, ngài đã
chứng quả thập địa trên
con đường thực hành Bồ tát đạo. Được
xem như là biểu hiện
trọn vẹn của lòng
đại từ bi, Ngài đã
trở thành một trong những vị
Bồ tát phổ thông nhất tại
Ấn Độ. Phát triển song hành bên cạnh một
tôn giáo đang được
sùng bái,
Ấn Độ giáo, và
cạnh tranh với nó, những
kinh điển Đại Thừa như
Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, được
kết tập trong khoảng từ thế kỷ thứ Tư đến thế kỷ thứ Bảy (Winternitz 1927, 2 :306-7), đã dùng những
biểu tượng vũ trụ phảng phất hình ảnh thần Siva và Visnu của
Ấn Độ giáo để
mô tả Avalokitesvara.
Bồ Tát đã được tôn thờ như một vị Trời
tối cao với
đặc tính riêng biệt của mình.
Những sử gia về mỹ thuật và
học giả Phật giáo đã không
đồng ý với nhau về thời điểm
chính xác lúc nào thì
tín ngưỡng tôn thờ
Bồ tát Avalokitesvara
xuất hiện tại
Ấn Độ. Chẳng hạn như cả Marie Therese de Maffman (1948) lẫn Gregory Schopen (1987) đều cho rằng
tín ngưỡng này đã bắt đầu
xuất hiện từ thế kỷ thứ năm. Trong khi đó Nandana Chutiwongs (1984) khẳng định rằng căn cứ trên những
dữ kiện về
văn học và
ảnh tượng còn lưu lại cho thấy là
Bồ tát Avalokitesvara đã
xuất hiện tại vùng Bắc và Đông Bắc Ấn sớm nhất là
vào khoảng thế kỷ thứ hai và đến thế kỷ thứ năm thì việc tôn thờ
Bồ Tát đã
phổ biến rộng rãi tại đây (6). Sự bất khả xác định về thời điểm
xuất hiện của
tín ngưỡng tôn thờ
Bồ tát Avalokitesvara tại
Ấn Độ phần nào
phản ảnh sự
tranh luận vẫn còn đang
tiếp diễn chung quanh
vấn đề nguồn gốc và
thời kỳ tiên khởi của
lịch sử Phật giáo Đại thừa. Không có một
chứng cớ rõ ràng cho thấy những kinh sách nào sớm nhất đã đề cập đến sự
xuất hiện của
Bồ Tát.
Tuy nhiên theo
truyền thống, người ta
đồng ý với nhau rằng Ngài được đề cập đến lần đầu tiên trong các
kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh (còn được gọi là Lạc Hữu
Trang Nghiêm Kinh, Sukhavatuvyuha Sutra),
Đại Sự (Mahavastu), Thành Cụ
Quang Minh Định Ý Kinh (Cheng-chu kuang-ming ting-i ching), Druma-kinnararaja pariprccha Sutra,
Diệu Pháp Liên Hoa, và
Tâm Kinh. Tất cả những kinh này, tuy vẫn còn là đề tài
tranh luận về thời điểm
xuất hiện, nhưng người ta tin rằng đã được viết
vào khoảng năm 300
trước Công nguyên. (7)
Một
yếu tố đã khiến cho một số các nhà
học giả cho rằng
tín ngưỡng tôn thờ
Bồ Tát Avalokitesvara không thể nào
xuất hiện sớm hơn trước thế kỷ thứ 5 là do sự khiếm khuyết những chuyện tích trong dân gian của
tín đồ nói về Ngài trong giai đoạn trước đó. Trên
quan điểm này,
học giả Holt đưa ra
nhận định:
Nếu
so sánh với số lượng khổng lồ về
ảnh tượng được
tìm thấy trong suốt quá trình
lịch sử Phật giáo Á Châu cũng như bao nhiêu
phương cách mà vị
Bồ Tát này được
chấp nhận như là một nguồn
cảm hứng tâm linh lớn lao và quan trọng trong những nền văn hoá Á Châu này, người ta
ngạc nhiên khi thấy rằng số lượng những kinh sách
liên quan đến Ngài rất là
hạn chế. Rất nhiều những
bản kinh văn ngắn bằng
Phạn ngữ (được tái tạo lại
từ Tạng ngữ) đều là những bài chú (
đà la ni) không ngoài
mục đích cầu thỉnh thần lực của
Bồ Tát để
sám hối tẩy trừ «
tội lỗi » hoặc chữa trị
bệnh hoạn như là sự ban bố những ân điển, phép lành của Ngài.
Tuy nhiên những kinh văn này chứa đựng ít nhiều « nhân cách » huyền nhiệm hoặc « màu sắc
giáo phái » của
Bồ Tát.
Sự kiện có quá nhiều
hình tượng Bồ Tát đã được
sáng tạo như thế
so sánh với số lượng kinh văn
liên hệ đến « cá tánh » và «
lịch sử » của Ngài rất hiếm hoi có thể cho thấy một điều là trong khi
Bồ Tát Avalokitesvara được biết là đã thu hút một số lượng những người
thuần thành trong các
tu viện Phật giáo Đại thừa,
đặc biệt xem Ngài như là một đối tượng
thiền quán,
tính cách phổ thông đại chúng của
tín ngưỡng tôn thờ
Bồ Tát trong hàng
cư sĩ Phật tử chỉ hình thành vào giai đoạn sau khi những kinh sách của
truyền thống Đại thừa đã được thiết định » (1991 :30).
Chopen đã dùng
dữ kiện từ những bản chữ khắc còn lưu lại của
cộng đồng Phật giáo Mathura vùng Bắc Ấn trong thế kỷ thứ 5 để
chứng minh rằng sự
xuất hiện của
Bồ Tát Avalokitesvara như là một
biểu tượng giáo phái đã có
liên hệ với « số lượng sút giảm rõ rệt của hàng
tại gia cư sĩ -đặc biệt là phụ nữ-
tương ứng với số lượng
gia tăng của hàng tăng sĩ do sự
xuất hiện đột ngột của một nhóm
tỳ kheo riêng
biệt tự gọi là Sakyabhiksus, cùng với sự
xuất hiện của một hình thái
cúng dường khá
đặc biệt » (1987 :116). Điều này có thể cho thấy là
Bồ Tát Avalokitesvara
thoạt tiên chỉ được
thờ phượng bởi một
bộ phái riêng biệt trong hàng ngũ
Tăng già về sau mới lan rộng ra các
tu viện Phật giáo và
đại chúng.
Tuy nhiên do những
ảnh tượng sơ khởi của
Bồ Tát không kèm theo
văn tự chú thích cũng như
chúng ta không có được những nguồn sử liệu đương thời
mô tả cách thức
hành trì tu tập có
liên hệ với việc
thờ phượng Bồ Tát Avalokitesvara, quả là một điều khá võ đoán khi đi đến
kết luận rằng Ngài đã không là một đối tượng của sự tôn thờ trước thế kỷ thứ năm trong những khu vực khác hơn là Mathura. Bằng chứng là vào năm 1961 người ta
tìm thấy ở Taxila một
bức tranh Tam Thánh chưa hoàn chỉnh của
Đức Phật A Di Đà với
Bồ Tát Avalokitesvara ở bên trái.
Văn tự dùng trong
bức tranh này thuộc ngữ hệ Kharosthi.
Căn cứ vào chứng liệu
ngôn ngữ,
học giả John Brough (1982:70) đã xác định thời điểm
bức tranh xuất hiện là
vào khoảng thế kỷ thứ hai C.E. và cho rằng nhân vật chưa
hoàn tất trong
bức tranh Tam Thánh này không ai khác hơn là
Bồ Tát Đại Thế Chí. Chutiwongs cũng đưa ra những chứng liệu khảo cổ để mạnh mẽ xác quyết rằng những
hình tượng của
Bồ Tát đã được
sáng tạo đầu tiên tại Kàn
Đà La và Mathura trong thế kỷ thứ hai,
ngay sau khi truyền thống Đại Thừa phát khởi cùng với sự mở đầu của việc
sáng tạo những
ảnh tượng Phật giáo.
Mặc dù
vấn đề xác định thời điểm
Bồ Tát Avalokitesvara đã
xuất hiện đầu tiên lúc nào tại
Ấn Độ vẫn chưa ngả ngũ, tất cả những
chứng cớ đã xác định rằng vào thế kỷ thứ năm sự
hiện hữu của
Bồ Tát đã được
xác nhận một cách
rõ ràng trong các bản văn ký sự của người đương thời.
Đại sư Pháp Hiền của
Trung Quốc trong chuyến
hành hương «nhập Trúc cầu Pháp» vào năm 400 C.E. khi
du hành ngang qua Mathura đã kể lại rằng những tăng sĩ
Phật giáo Đại thừa tại đây đã
thờ phượng Bồ Tát Avalokitesvara,
Bát Nhã Ba La Mật (
Trí Tuệ Viên Mãn) cùng với
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi bằng cách dâng cúng những phẩm vật trước những
ảnh tượng của các Ngài (Legge 1965:46). Vào lúc mà ngài
Huyền Trang du hành ngang qua vùng Tây Bắc Ấn, khoảng từ năm 630 – 645 thì
tín ngưỡng giáo phái thờ phượng Bồ Tát đã được thiết định và ngài
Huyền Trang đã
chứng kiến tận mắt những
ảnh tượng của
Bồ Tát đã được các
tín đồ thuần thành cầu nguyện trong mọi giai tầng dân chúng, từ vua quan, tăng sĩ
cho đến thứ dân.(8) Trong khi các kinh sách và
nghi thức hành trì thờ phượng mới được khai triển thì những
ảnh tượng mới về
Bồ Tát Avalokitesvara cũng đã được
sáng tạo trên những vùng đất khác của
Ấn Độ.
Hình ảnh của Ngài đã
trở thành phổ thông đại chúng cho đến khi
Phật giáo biến mất khỏi vùng đất quê hương đã khai sanh ra nó.
Thiết tưởng
chúng ta cũng nên có một cái nhìn lược sơ qua ba loại
ảnh tượng về
Bồ Tát Avalokitesvara trong nghệ thuật
Ấn Độ cũng như những
giai đoạn phát triển chính của
tín ngưỡng tôn thờ
Bồ Tát tại đây (9). Một nét
phác họa như vậy rất là
cần thiết bởi hai
lý do.
Trước tiên,
trừ phi chúng ta hiểu biết ít nhiều về nhân dạng của
Bồ Tát Avalokitesvara theo kiểu cách
Ấn Độ,
chúng ta khó mà
phán đoán được trong một
chừng mực nào đó thì
Bồ Tát Quán Âm của
Trung Quốc chỉ là sự rập khuôn theo kiểu mẫu
hiện hữu của
Ấn Độ hay là một sự
sáng tạo hoàn toàn.
Lý do thứ hai và cũng là
lý do đặc biệt quan trọng là trong khi tiến hành một cuộc khảo sát như thế, một điểm
nổi bật và
rõ ràng nhất là: Trong tất cả các
ảnh tượng nghệ thuật của
Ấn Độ,
Bồ Tát đều không hề được trình bày dưới dạng nữ thân.
Thời điểm mà
ảnh tượng Bồ Tát Avalokitesvara bắt đầu được
sáng tạo xảy ra dưới
triều đại Qúy Xương Hầu (Kusana). Hầu như các nhà
học giả đều
đồng ý rằng người đóng góp công đầu cho việc hoằng dương và phát triển
đạo Phật là Vua Ka-Nị-Sắc-Ca I (Kaniska), vị
Hoàng đế thứ ba của vương triều Kusana. Bộ tộc Qúy Xương Hầu
nguyên thủy là một phần của giống dân mà người Trung Hoa gọi là
Nhục Chi (Yueh-chih) hiện nay nằm trong khu vực thuộc tỉnh
Cam Túc, Tây Bắc
Trung Quốc. Dưới
áp lực của nhà Tiền Hán họ đã
bị bắt buộc phải
thiên cư về phía Tây và
cuối cùng định cư trong vùng Bactria
vào khoảng năm 135
trước Công nguyên. Vua Ka-Nị-Sắc-Ca I lên
kế nghiệp vương quyền
vào khoảng năm 120 C.E. là một vị vua rất sùng
mộ đạo Phật, thế nên tất cả
các loại hình mỹ thuật
Phật giáo cũng như những
hoạt động truyền giáo đều rất được Ngài chăm sóc và
ủng hộ. Kết quả là không những
Phật giáo chỉ nở rộ trong vùng Tây Bắc Ấn mà lan ra cả những
quốc gia dọc theo
Con Đường Lụa và cũng từ đây mà
Phật giáo được
du nhập vào
Trung Quốc. Thế nên những bản
dịch kinh sớm nhất qua tiếng Trung Hoa không phải là từ nguyên bản
Phạn ngữ của
Ấn Độ mà là từ tiếng
An Tức (Pa-thi, Parthians), Scythians, Sogdians và của những cư dân sống trong vùng mà người Trung Hoa thời đó gọi chung là
Tây Vực.
Các
học giả Susan L. Và John Huntington đã nói về
tính cách phổ thông của những
ảnh tượng Đức Phật Thích Ca,
Di Lặc và
Bồ Tát Avalokitesvara trong giai đoạn này.
Bồ Tát hoặc
xuất hiện riêng rẽ hoặc là môt
thành phần của
Tam Thánh. Ngài thường được trình bày qua
hình ảnh «
Liên Hoa Thủ » (Padmapani).
Cụ thể như trong một
bức tranh của Loriyan Tangai dưới
thời đại vương triều Quý Xương Hầu,
Bồ Tát được vẽ tay trái cầm một cánh
hoa sen,
phục sức như một ông hoàng, với đầu đội khăn xếp, một
biểu tượng của giòng dõi qúy tộc. Ngài có hàng ria mép và đang ngồi trong tư thế « vương giả » với chân phải co lại (Huntington 1985:139). Một
bức tranh Tam Thánh sáng tác vào khoảng năm 152 C.E. trình bày
Đức Phật với hai
thị giả là hai vị
Bồ Tát đứng hai bên, một người có khuôn
mặt dữ dằn ở bên phải là
Kim Cương Thủ (Vajrapani: Người cầm chày
kim cương) và bên trái là
hình ảnh từ ái của ngài
Liên Hoa Thủ (10). Trong hình, ngài
Kim Cương Thủ ăn bận
y phục như một
nhà tu khổ hạnh với một chiếc váy ngắn và một mảnh da thú choàng qua vai, trong khi ngài
Liên Hoa Thủ vận trang phục như một ông hoàng
Ấn Độ, tô điểm thêm với đồ trang sức quý giá và đầu đội chiếc khăn xếp
hoàng gia (Huntington 1985:154). Việc chọn lựa hai khuôn mặt
tiêu biểu này như là hai vị
thị giả của
Đức Phật đã nói lên những
nhận thức Phật học cơ bản về sự
giác ngộ. Bởi vì
Đức Phật,
Đấng Giác Ngộ, vừa có
trí tuệ lẫn
từ bi cho nên Ngài được hai vị
thị giả theo hầu là hai vị
Bồ Tát tiêu biểu cho hai phẩm tính đáng
ca ngợi và
cần thiết ngang nhau này:
Bồ Tát Avalokitesvara
tiêu biểu cho
Từ Bi và
Bồ Tát Vajrapani
tiêu biểu cho
Trí Tuệ.
Hình ảnh của
Bồ Tát Kim Cương Thủ (Vajrapani) sau này,
trong khoảng thế kỷ thứ bảy và thứ tám, đã được thay thế bởi
hình ảnh của
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Huntington 1985:270, 446).
Kể từ sau thế kỷ thứ năm, những
hình tượng mô tả Bồ Tát Avalokitesvara cũng bắt đầu thay đổi dần.
Trước tiên,
gắn liền với Di Lặc, Ngài đã được trình bày trong một phong cách
khổ hạnh và dân gian hơn là qúy phái vương
giả như trước đây. Thứ hai, Ngài không còn là một nhân vật
phụ thuộc mà
dần dần tiến lên
vị trí của một
linh thần độc lập. Khuynh hướng này đã được
học giả Chutiwongs
tóm tắt như sau :
Ngài là vị
Bồ Tát phổ thông nhất tại Elura. Tổng cộng tất cả có đến 110
hình tượng về Ngài, hầu như
gấp ba lần
hình tượng các vị
Bồ Tát khác. Một trong những
chủ đề được
ưa chuộng nhất của nghệ thuật
Phật giáo Maharastra được gọi là « Nguyện Cầu
Bồ Tát Avalokitesvara », trong đó Ngài được
mô tả như là Người
Cứu Khổ Cứu Nạn. Đã có rất nhiều những
thí dụ minh họa cho
chủ đề này
xuất hiện trong các động thờ tại Kanheri, Ajanta, Elura và Aurangabad,... trong thời Gupa và hậu Gupa. Những phông cảnh này
hiển nhiên là những
hình ảnh tiêu biểu cho lời
cầu nguyện trao gởi đến
Bồ Tát của những kẻ
sùng kính Ngài trước khi họ bắt đầu hoặc đang trãi qua một cuộc
hành trình đầy nguy hiểm.
Bồ Tát Avalokitesvara trong địa hạt này
rõ ràng là đã được tôn thờ như người
bảo hộ cho khách lữ hành,
thương nhân cũng như những kẻ
hành hương.
Sự kiện được biết là dân chúng vùng Tây
Ấn Độ nổi tiếng về những
hoạt động giao thương buôn bán
hiển nhiên đã ghi đậm
dấu tích việc
lưu hành rộng rãi chủ đề này trong Vùng Tây Ấn (1984:45). Cũng cùng một
lý do như thế,
Bồ Tát Quán Thế Âm như là Người
Cứu Khổ Cứu Nạn được
tán dương trong
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đồng thời cũng là
chủ đề được
ưa chuộng trong số những bích họa được
tìm thấy tại động
Đôn Hoàng, trạm dừng chân
cuối cùng trên
Con Đường Lụa.
Một
hình tượng khác của Avalokitesvara được xác định niên đại
vào khoảng hậu bán thế kỷ thứ năm tại Sarnath cũng xác
định tính cách nam phái của
Bồ Tát. Được phủ che bởi một lớp áo trong mờ, người ta thấy bộ phận
sinh dục của phái nam
nổi bật lên một cách rõ rệt. (11).
Đến cuối
thời kỳ hậu-Gupa, khoảng thế kỷ thứ sáu,
Bồ Tát Avalokitesvara
nghiễm nhiên đã giữ một ngôi vị
độc lập cũng như
trở thành một vị
linh thần chính với
tùy tùng thị giả riêng và được
thờ phượng do những
mục tiêu riêng biệt của các
tín đồ. Khi
Bồ Tát Avalokitesvara đã
trở thành một
biểu tượng tín ngưỡng chính của những người sùng mộ, Ngài cũng có
thị giả riêng như
Đức Phật.
Cụ thể như một
ảnh tượng của Avalokitesvara được xác định niên đại
vào khoảng tiền bán thế kỷ thứ sáu,
mô tả Ngài như là vị
thần hộ mạng chống lại mười nạn ách kể cả voi, hùm và
đạo tặc trong hang động 90 tại Kanheri đã được trình bày cùng với hai nữ
thị giả bao quanh, bên phải là Tara (
Tinh Tú) và bên trái là Bhrkuti (có nghĩa là
Tâm Giác Ngộ
Viên Mãn), (Huntington 1985:264). Hai nhân vật này cũng
tiêu biểu cho
Từ Bi và
Trí Tuệ như Avalokitesvara và Vajrapani đối với
Đức Phật. Tại hang động 41 ở Kanheri người ta cũng
tìm thấy bức tượng
Bồ Tát Avalokitesvara mười một đầu, xác định niên đại
vào khoảng từ hậu bán thế kỷ thứ năm đến tiền bán thế kỷ thứ sáu, được coi như là
ảnh tượng sớm nhất tại
Ấn Độ thuộc thể loại này. (Hình 1.1; Huntington 1985:265). Hình
Bồ Tát Avalokitesvara nhiều tay, một sắc thái
đặc biệt của nghệ thuật
Phật giáo Mật tông, cũng rất
phong phú trong vùng Đông Bắc Ấn trong thời hậu Gupta. Có khi Ngài được trình bày với hai tay nhưng
thỉnh thoảng được trình bày đến 16 tay,
thường thường mang theo những vật
tượng trưng tiêu biểu của cả các
linh thần phổ thông trong
Phật giáo lẫn Án Độ giáo,
cụ thể như:
Cái bầu đựng nước trên
thiên cung (kamandalu),
thiền trượng ba nhánh (tridanla),
tràng hạt (aksamala), cuộn sách và bút lông (pustaka) không những
biểu lộ nhân cách
khổ hạnh của
Bồ Tát; mà hai vật sau cùng còn nêu bật phẩm chất của Ngài như là một bậc Đại
Tôn Sư và
đồng thời cũng là
Chủ Tể Mọi
Kiến Thức, tương đương với vị
Thượng Đế của
Bà La Môn giáo. Con mắt thứ ba của Ngài, cây trường thương và đinh ba (trisula), sợi dây thừng (pasa), và câu liêm (ankusa)
liên hệ Ngài với Ma-lê-thù-la (Mahesvara) hay là vị
Chủ Tể của Mọi
Linh Hồn (Pasupati). Và, cái dây thừng vô hình -thắt chặt
vĩnh viễn linh hồn (pasu) của mọi
cá nhân với vị
Chủ Tể (pati) của nó-
trở thành sợi dây
Từ Bi bất hoại (amogha-pasa) của
Bồ Tát Avalokitesvara để kéo về Ngài những
linh hồn bất tử nhằm
giải thoát họ. Viên
bảo châu (ratna) hay
ngọc như ý (cintamani)
tượng trưng cho
năng lực nhiều mặt, không bao giờ
mệt mỏi của hạnh
bố thí ba la mật cũng
như không hề thất bại trong việc
đáp ứng những tiếng kêu cầu của
nhân sinh; trong khi đó cây đàn-nã (danda) hay
tích trượng trừng phạt,
thỉnh thoảng cũng
xuất hiện trong số những
vật dụng mang theo của Ngài có
tác dụng như là một
cảnh báo đối với những
linh hồn gian ác hoặc những kẻ có những hành động
xấu xa. Các
chi tiết quý phái - biến mất dần trong cách trang trí các
ảnh tượng Bồ Tát Avalokitesvara sau thời hậu Kusana- đã
xuất hiện trở lại trong nghệ thuật thời Trung cổ tại Bắc Ấn trong một cách thế đáng
lưu ý. Một số
ảnh tượng đã trình bày Ngài trong thế ngồi của các đấng quân vương, hay là cách ngồi vương giả (maharajalilasana), nhằm tôn vinh
tính cách tối thượng của Ngài, không phải chỉ riêng trong
thế giới tâm linh mà
bao gồm cả
vinh quang và
danh vọng trong trần gian
thế tục. Số
tùy tùng thị giả của Ngài cũng tăng thêm về số lượng cũng
như ý nghĩa, làm
nổi bật thêm
vị trí ưu việt của nhân vật
trung tâm (Chutiwongs 1984:49-50).
Về sau này, dưới
triều đại Pala,
trong khoảng từ thế kỷ thứ tám đến mười hai, các
ảnh tượng thuộc
truyền thống Phật giáo Mật tông cung cấp cho
chúng ta thêm nhiều chứng liệu cho thấy
Bồ Tát Avalokitesvara đã được tôn xưng như là một đấng cứu vớt của cả
vũ trụ này.
Cụ thể như một tấm bia khắcvào cuối thế kỷ thứ mười một tại Nalanda đã trình bày Avalokitesvara với « hai
thị giả tùy tùng ở bên phải là Tara và Sudhanakumara (
Đại phú Hoàng tử) và bên trái là Bhrkuti và Hayagriva (
Mã Đầu), trong khi đó ở trên cùng của bức họa
mô tả sự
hiện diện đầy đủ của
Ngũ Phật và ở góc trái dưới cùng là
ngạ quỷ Sucimukha mình người đầu thú, gầy đói trơ xương... Con
ngạ quỷ này phải chịu hình phạt
quả báo suốt đời đói khát đã được
Bồ Tát cứu vớt bằng cách cho mút nước
cam lồ rơi ra từ cánh tay Ngài.» (Huntington 1985:392-93) (12). Như là người ban phát những
thần chú cứu nạn,
Bồ Tát Avalokitesvara đã là một nhân vật
trung tâm trong rất nhiều
kinh điển Mật giáo. Một điều khá
thích thú là một
hình tượng đặc biệt được
tìm thấy tại Bihar có niên đại
vào khoảng cuối thế kỷ thứ mười một hoặc thế kỷ thứ mười hai được Huntington
nhận diện là
Lục Tự (Sadaksari) Lokesvara, một
hình ảnh nhân cách hóa câu
thần chú sáu chữ rất
phổ biến của
Bồ Tát Avalokitesvara:
Án Ma Ni Bát Di Hồng (
Om mani Padme hum) (Huntington 1985 :394).
Vấn đề tìm hiểu nguồn gốc
ban đầu của
tín ngưỡng tôn thờ
Bồ Tát Avalokitesvara từ lâu đã là một đề tài
nghiên cứu khá
lôi cuốn đối với các
học giả. Một trong những
bộ kinh điển quan trọng và sớm nhất của
tín ngưỡng này là
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Kinh (còn được gọi là Lạc Hữu
Trang Nghiêm Kinh, Sukhavativyuha Sutra), được
kết tập tại Tây Bắc Ấn
vào khoảng năm 100 C.E. trong đó
Bồ Tát Avalokitesvara cùng với
Đại Thế Chí đã được chọn lựa ra như là hai vị
thị giả chính của
Đức Phật A Di Đà. Cũng giống như Phật
A Di Đà, Ngài cũng đã được
mô tả như là
Vô Lượng Quang. Chính từ
chi tiết này mà
học giả Mallman đã cho rằng
Bồ Tát là một vị
thần thái dương có
xuất xứ từ đạo thờ Thần Hoả của Ba Tư. Một
học giả khác, Alexander C. Soper, cũng đã đề cập đến
vầng hào quang tượng trưng phát ra từ
Đức Phật và
Bồ Tát Di Lặc để cho rằng đã có một sự
liên hệ mật thiết giữa những
tư tưởng của các
tôn giáo Ba Tư và nền mỹ thuật Kushan của vùng Bắc Ấn. (1949-50). Ông tin rằng những
hình tượng Phật của mỹ thuật Kàn-Đà-La đã mang những nét
tương tự với các vị thần Mithra-Helios (13). Theo Mallman (1948:82), từ khởi thủy Avalokitesvara mang
hình ảnh giống với những vị thần trong
thần thoại La-Hi: Apollo, Mithra, Helios, và Hermes rồi sau đó
chuyển hóa thành « vị
Hộ Pháp có
năng lực đẩy lùi bóng tối
vô minh, ngu dốt và vô
tín ngưỡng. » Bà cho rằng người ta có thể
truy nguyên nguồn gốc
tín ngưỡng tôn thờ
Bồ Tát Avalokitesvara lùi lại đến
thời kỳ của vị quân vương
Phật tử Hi Lạp vĩ đại, Ka-Nị-Sắc-Ca, khoảng thế kỷ thứ hai tại vùng Bắc Ấn là nơi mà những
ảnh tượng sớm nhất của
Bồ Tát được
tìm thấy.
Tuy nhiên học giả Giuseppe Tucci (1948) đã không
đồng ý điều này. Ông không
quan tâm đến
vầng hào quang tượng trưng của
Bồ Tát mà đặt
trọng tâm vào « tia nhìn
từ ái » của bức tượng.
Học giả John Holt (1991:30-39), người
tổng kết cuộc
tranh luận, đã đưa ra một
ý kiến dung hòa là ta nên chú trọng
đồng đều đến cả ánh sáng
tượng trưng lẫn phẩm tính
từ bi của
Bồ Tát.
Thay vì chạy đi
tìm kiếm những lai lịch của
Bồ Tát Avalokitesvara ở bên ngoài
truyền thống Phật giáo, Tucci và một số
học giả khác đã
tìm ra chúng trong hai
bộ kinh điển sớm nhất, phẩm
Quán Kinh (Avalokita Sutra) trong
bộ kinh Xuất Thế Ma Ha Tăng Kì Đại Sự (Lokottora Mahasamghika Mahavastu). Nhan đề của cuốn kinh đã
chia xẻ phần nào
danh hiệu của
Bồ Tát cũng như xác chứng việc
sử dụng sớm nhất
từ ngữ «Avalokita» (có nghĩa là nhìn, quán xét). Cả hai cuốn kinh đều vinh danh
tiền thân của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc còn là
Bồ Tát. Mặc dù các
học giả không
đồng ý với nhau về niên đại ra đời của hai
bộ kinh này nhưng cùng
chia xẻ một
quan điểm chung là những
bộ kinh này
nhấn mạnh đến « quán xét » và « ánh sáng » đã là nguồn
cảm hứng cho
ý niệm Quán Thế Âm (Avalokitesvara) về sau này (14). Mặc dù
ý nghĩa của từ Avalokita rất
sáng tỏ nhưng không có nghĩa là
danh hiệu của
Bồ Tát mang một
ý nghĩa rõ ràng. Holt (1991) đã nêu ra cho thấy là các nhà
nghiên cứu Phật học đã không thể thống nhất
quan điểm trong việc
giải thích ý nghĩa chung của từ ghép Avalokitesvara,
danh hiệu của
Bồ Tát. Tại sao như thế ? Bởi vì, « nếu để riêng ra thì
ý nghĩa của hai
Phạn ngữ Avalokita và isvara khá
rõ ràng, là « nhìn » hoặc «
xem xét » và «
chủ tể, vua » nhưng khi ghép chung lại thành Avalokitesvara, thì
danh hiệu của
Bồ Tát lại có thể mang nhiều
ý nghĩa khác nhau. Nó có thể là «Vua của những gì mà ta trông thấy», « Vị
chủ tể được nhìn thấy », « Vị
chủ tể được nhìn thấy (từ trên cao) », « Vua, Người đang
xem xét » hoặc « Vua, người đang
xem xét (từ trên cao) » (Holt 1991 :31). Từ những
ý nghĩa này mà
Huyền Trang, nhà
chiêm bái hành hương nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, đã dịch Avalokitesvara là
QUÁN TỰ TẠI.
Tuy nhiên danh xưng này đã không được
phổ thông bằng
danh hiệu QUÁN ÂM hay
QUÁN THẾ ÂM như
chúng ta được biết,
bao gồm ý nghĩa của hai từ Avalokita và Isvara có nghĩa là «Người
xem xét, lắng nghe những tiếng kêu than của
trần thế.»
Việc
sáng tạo những
ảnh tượng về
Bồ Tát Quán Âm tại
Trung Quốc đã hình thành rất sớm
ngay sau khi những
kinh điển Phật giáo đã được
phiên dịch, sẽ được nói đến trong chương
kế tiếp. Những giai đoạn khác nhau trong
diễn tiến miêu tả hình tượng của
Bồ Tát Avalokitesvara tại
Ấn Độ cũng đã xảy ra tại
Trung Quốc nhưng với nhiều đổi mới,
sáng tạo. Bắt đầu với sự
sáng tạo hình tượng mới của
Quán Âm như Thủy-Nguyệt
Quán Âm (lưỡng tính) trong thế kỷ thứ 10, nghệ
nhân Trung Quốc đã chuyển dần qua việc
miêu tả Bồ Tát dưới dạng nữ thân kể từ đới Tống (960-1279). Đến đời nhà Minh (1368-1644) hoặc có thể sớm hơn, đã thấy
xuất hiện những bộ tranh về
Bồ Tát Quán Âm với năm, ba mươi hai hoặc năm mươi ba kiểu cách khác nhau.
Đồng thời cũng có một bộ tranh được gọi là «Ba mươi ba
hình tượng Quán Âm» của nền mỹ thuật
Phật giáo Trung-Nhật dưới thời Kamakura (1185-1333) (15). Những kiểu cách khác nhau trong
ảnh tượng có thể là do nghệ
nhân minh họa theo
ý nghĩa của ba mươi ba cách
hóa thân của
Bồ Tát Quán Âm trong
kinh Diệu Pháp Liên Hoa hay ba mươi hai trong
Kinh Thủ Lăng Nghiêm.
Tuy nhiên trong
thực tế, những
bức tranh này đã không
hoàn toàn giống như những gì mà kinh đã
mô tả. Bên cạnh
bức tranh Thủy Nguyệt (số 12) và
Bạch Y Quán Âm (số 6) rất
nổi tiếng trong nền mỹ thuật
Trung Quốc nhưng không hề
liên hệ đến nguồn gốc
kinh điển nào, ba
bức tranh khác có
liên hệ đến
truyền thuyết về Ngài là
Quán Âm Già Lam (số 10), Ngôi nhà sò (scam-dwelling, số 25), và Mã Lang phụ (Bà Vợ Ông Mã, số 28) (16).
Mặc dù
chúng ta không thể
kết luận rằng việc nữ hoá
Quán Âm là do bàn tay của các nghệ nhân,
tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận là họ đã góp công lớn trong việc
hình tượng hoá khuynh hướng này trong
đại chúng . Nhà nghệ sĩ trong quá trình vẽ tranh hay
tạc tượng về một
Bồ Tát Quán Thế Âm nữ thân
chắc chắn là phải
phản ảnh một cách
trung thực quan niệm của
quần chúng đương thời về
Bồ Tát. Trong
ý nghĩa này, nghệ thuật không những là một chỉ dấu mà còn là một nhân tố
tác động vào sự đổi thay. Nhưng một câu hỏi được đặt ra là tại sao
vấn đề thay đổi giới tính của
Bồ Tát Avalokitesvara lại chỉ xảy ra ở Trung Quốc? Đây là một câu hỏi mà có
thể không bao giờ có được một
giải đáp thỏa đáng.
Tuy nhiên,
tối thiểu cũng có hai
yếu tố mà
chúng ta không
thể không quan tâm. Thứ nhất,
vấn đề này
liên hệ đến nền văn hoá và
tôn giáo Trung Hoa. Thứ hai là sự
tương đối hiếm hoi về «
lịch sử » của
Bồ Tát Avalokitesvara trong
kinh điển Phật giáo. Chính vì sự khiếm khuyết lớn lao về những huyền thoại
liên quan đến Bồ tát đã khiến cho việc
sáng tạo những huyền thoại về Ngài tại
Trung quốc trở nên dễ dàng hơn. Hơn thế nữa, những huyền thoại này trên một
phương diện nào đó đã được
sáng tạo theo
quan điểm của người Trung Hoa về các đấng Trời Thần và do đó đã
đáp ứng đúng nhu cầu
tín ngưỡng của
quảng đại quần chúng.
Tâm Hà Lê Công Đa
(*) Trích bản dịch tác phẩm « Kuan Yin » của GS Tiến Sĩ CHUN-FANG YU, Khoa Trưỏng Phân Khoa Tôn Giáo, The State University of New Jersey, Chương Giới Thiệu.CHÚ THÍCH(1) Những bức tranh Bồ Tát Quán Âm với hàng ria mép có thể được tìm thấy trong bộ sưu tập của Matsumoto, Tonkoga no kenkyu. Cụ thể như bức 216 (niên đại 864 C.E.), bức 98b (niên đại 943 C.E.), và bức 222 (968 C.E.).
(2) Hai tác phẩm tiêu biểu của khuynh hướng này là The Creation of Patriarchy (1986) của Gerda Lerner và The Language of the Goddess (1989) mà nội dung đã được Katherine K. Young mổ xẻ tường tận trong “Goddessess, Feminists, and Scholars” (1991).
(3) Peter Gregory dùng từ Sinification (Hán hóa – người Việt thường gọi là chính sách đồng hóa của người Trung Quốc-LND) trong tác phẩm của ông: Tsung-mi and the Sinification of Buddhism (1991). Robert Sharf cũng dùng từ ngữ tương tự trong một công trình nghiên cứu khác về Phật giáo Trung quốc: “The Treasure Store Treatise (Pao-tsang Lun) and the Sinification of Buddhism in Eight-Century China.”
(4) Học giả Todd Lewis đã dùng ý niệm này trong khi nghiên cứu về tín ngưỡng thờ phượng Avalokitesvara của Phật giáo Newar (được gọi là Karunamaya tại đây). Ông định nghĩa địa phương hoá như là “tiến trình biện chứng mà qua đó một truyền thống tôn giáo được hội nhập vào một khu vực hoặc một sắc dân sống chung trong một cộng đồng kinh tế xã hội và có một nếp sống văn hóa riêng.” (Lewis 1993:150). Trong khi “Những Truyền Thống Lớn” cung cấp một chỉ hướng tinh thần rõ ràng cho những tín đồ, những người thân cận với những vị giáo chủ đầy sức thu hút, kể cả những quy điều chính thống về hội nhập, truyền giáo, thì lịch sử cho thấy thường là ngược lại, rằng sự tồn tại của truyền thống tôn giáo đã quan hệ không ít tới sự đóng góp bởi nhiều tiếng nói khác nhau của đại chúng nhờ đó mà tín đồ sau này có những lăng kính về học thuyết, những lời dạy phù hợp với tình huống, cũng như những câu chuyện ẩn dụ trong dân gian để tiếp cận. Nghiên cứu vấn đề “địa phương hóa tôn giáo” tức là đào sâu để phơi bày những lý do cơ bản tại sao lại có sự lựa chọn từ tổng thể để truyền thống này tiến triển phù hợp với “tính logic của địa phương” tại một khu vực và thời điểm đặc biệt nào đó” (Lewis 1993:150).
(5) Paul Harrison đặt lại vấn đề việc sử dụng theo truyền thống từ ngữ “Bồ tát thiên giới” (celestial bodhisattvas) của Snellgrove (1986), người kế tục truyền thống của Har Dayal (1932), Ling (1976), Bashan (1981) và Robinson & Johnson (1982) trong một bài viết không xuất bản, “Văn Thù Sư Lợi và tín ngưỡng tôn thờ những Bồ Tát Thiên Giới”, trình bày trong một hội nghị tại Đại Học University of Texas, Austin vào hồi tháng 10 năm 1996. Ông phản đối việc áp đặt tình huống của cái có sau lên cái có trước, cho rằng đó là chuyện không phù hợp với sử quan: những gì mà lý tưởng bồ tát đã thành tựu lại được đem đặt để vào cái động lực thúc đẩy ban đầu của nó. Ông cũng cho rằng “Ma Ha Tát” đơn giản chỉ là một danh hiệu khác của bồ tát, không phải là một tính từ để chỉ một chúng bồ tát đặc biệt nào đó trụ xứ ở thiên giới. Ông nhìn nhận rằng đa số Phật tử tin tưởng vào sự hiện hữu của những vị đại Bồ tát cũng như sự tương tục hoặc những trình độ chứng quả khác nhau của họ. “Tuy nhiên, những niềm tin như thế thuần túy phản ảnh sự phân biệt về số lượng hơn là phân loại và càng không phải là sự phân biệt trên căn bản phẩm chất giữa hai loại bồ tát riêng biệt, một ở thế gian và một ở thiên giới, mà giữa họ có một lằn ranh rõ ràng (Harrison 1996:11).
(6) Chutiwongs đã xem sự khác biệt về thời điểm này trong một số trường hợp như là một sự nhận dạng nhầm lẫn các ảnh tượng. Trong những thế kỷ đầu tiên khi việc sáng tạo ảnh tượng Phật giáo được bắt đầu, hình ảnh Đức Phật thường là đề tài được ưa chuộng nhất, kế đó là Di Lặc, vị Phật tương lai. Thế nhưng bởi vì trong một số kinh văn, cụ thể như Quán Vô Lượng Thọ kinh (Amitayusdhyana – Hán dịch năm 430) đã mô tả Bồ tát Quán Thế Âm như là đang đội một vị Phật thu nhỏ ở trên đỉnh đầu mình, căn cứ vào điểm này, Mallman và một số sử gia mỹ thuật khác đã xem đây như là nét đặc điểm chính của Avalokitesvara, và họ đi đến việc xác định những ảnh tượng không mang nét đặc thù này là Di Lặc hay đơn giản hơn, gọi chung là “Bồ tát” và kết luận rằng sự xuất hiện hình ảnh của vị Bồ tát này vào thời kỳ trước thế kỷ thứ năm rất là hiếm hoi (Mallman 1948:119:27). Tuy nhiên Chutiwongs đã phản bác lập luận này, cho rằng những quy điều về sáng tạo ảnh tượng trong thời kỳ sơ khai đang từng bước hình thành, thế nên vì lý do đó mà hình tượng thu nhỏ của Phật trên đỉnh đầu đã chưa xuất hiện trong thời kỳ này. Bởi vậy những bức tượng xuất hiện dưới thời Quý Xương Hầu (Kusana, từ thế kỷ thứ nhất đến thứ 3, C.E.) cho dù không mang hình tượng thu nhỏ của Phật ở trên đầu vẫn có thể là Bồ tát Quán Thế Âm do căn cứ vào những đặc tính riêng biệt khác của Ngài đã được thể hiện. Nói một cách khác, mặc dầu những kinh văn quy định những đặc tính về Ngài như thế được kết tập sau này nhưng điều này không có nghĩa rằng nghệ thuật trình bày ảnh tượng nhất thiết phải xuất hiện chậm hơn sau kinh văn. Chutiwongs cho rằng lý do khiến người ta nhầm lẫn giữa ảnh tượng Quán Thế Âm và Di Lặc là vì cái tịnh bình chứa nước trường sinh (cam lồ - amrta- kalasa) của Bồ tát Quán Thế Âm thường bị nhầm lẫn là cái bầu đựng nước trên các cung trời (kamandalu hay kundika). Trong thời kỳ đầu, những vật biểu tượng dùng để phân biệt giữa hai vị Bồ Tát chưa được thiết định cho nên Bồ tát Di Lặc và Quán Thế Âm với khế ấn của bàn tay và các vật dụng tùy tùng trông cũng chẳng khác nhau là mấy. Những hình tượng khám phá trong vùng Matthura được xác định là Di Lặc và Quán Thế Âm cả hai đều có tay mặt trong tư thế bắt ấn vô úy trong khi tay trái thì đang cầm giữ một cái bình thót cổ giống trái bầu. Trong kiểu cách nghệ thuật Ấn Độ đương thời, ta chỉ có thể phân biệt được sự khác nhau giữa người này và người nọ bởi yếu tính nội dung của mỗi vị được biểu hiện ra qua hình dạng bên ngoài. Bồ Tát Di Lặc mang vẻ khắc khổ của một nhà tu xuất thế thấp thoáng hình ảnh của một vị Phật, được thể hiện rõ ràng qua mái tóc xoắn ốc mà người ta thường thấy trong các tranh tượng về Đức Phật, khoác trên mình lớp tăng bào truyền thống của giới Tăng sĩ. Trong khi đó Bồ Tát Quán Thế Âm thể hiện nhân cách của một nhân vật đầy quyền uy, tích cực và khẩn thiết qua phục sức vương giả và vương miện oai nghi. Là những vị Bồ tát, hơn thế nữa, những bậc cứu độ nhân sinh trong thời đại không có Phật hiện thế, họ được trình bày với cánh tay phải dang ra như bày tỏ ý hướng bảo vệ tín đồ trong khi đó tay trái cầm bình nước trường sinh cam lồ như là sự ban phúc lành cao cả cho nhân loại.” (Chutiwongs 1984:23). Cũng theo Chutiwongs, những nghệ nhân thời cổ Ấn Độ thường có khuynh hướng trình bày biểu tượng bình nước cam lồ bất tử này cho hầu hết những nhân vật thần linh quan trọng của họ, không phân biệt tôn giáo hay chức năng. Cụ thể là các vị thần Indra, Siva, Lokapalas (những vị thần bảo hộ thế giới này), cũng như các nhân vật thần thoại canh giữ linh thủy của sự sống được biết như là Long Vương, và tất cả các vị Bồ Tát không tên kể cả Bồ Tát Di Lặc, Quán Thế Âm. (1984:25). Tuy nhiên bởi vì cái tịnh bình này đã bị nhận lầm là bình nước của nhà tu khổ hạnh cũng như Bồ tát Di Lặc được tin tưởng như là nhân vật tiêu biểu lý tưởng của người khổ tu, thế nên những hình tượng với tay cầm cái bình này thực sự ra là Bồ Tát Quán Thế Âm đã bị nhận lầm ra là Bồ Tát Di Lặc. Chutiwongs đi đến kết luận: “Một đằng do sự hiểu lầm về ý nghĩa tượng trưng của chiếc bình, đồng thời cùng với định kiến sai lầm cho rằng Bồ Tát Quán Thế Âm không thể được miêu tả đúng nếu như không mang một hình tượng Phật thu nhỏ ở trên đầu, hình như đã tạo nên chướng ngại trong việc nhận thức một điều khá hiển nhiên rằng đây chính là những hình tượng tiêu biểu của một vị Bồ Tát cũng phổ cập không kém gì Bồ Tát Di Lặc trong thế kỷ thứ nhất. Vào thời điểm này, nhân vật đầu đội khăn xếp này đã chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong nghệ thuật Phật giáo. Đây là một sự thực hiển nhiên bắt nguồn từ sự kiện những hình tượng của vị Bồ Tát này như là một linh thần độc lập đã xuất hiện không hiếm trong nghệ thuật thời Qúy Xương Hầu (Kusana) tại Matthura cũng như trong giai đoạn tiếp theo sau đó.
… Như vậy, chúng tôi cho là điều đúng đắn khi xem những hình tượng của vị Bồ Tát với khăn xếp trên đầu chính là những hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm, người đã được biểu trưng qua những kiểu cách khác nhau trong nghệ thuật Ấn Độ thời sơ khởi qua nhân dáng vương giả, trái với hình ảnh khổ hạnh của vị Bồ Tát Di Lặc” (1984:27-28).
7. Paul Harison nêu nghi vấn về tính cách chân thực của bản dịch Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm kinh (Lạc hữu Trang Nghiêm kinh, Sukhavativyuha Sutra) do Ngài Chi-Lâu-Ca-Sấm (Lokaksema, đến Tràng An vào khoảng năm 167) phiên dịch, thường được coi như là bằng chứng sử liệu đầu tiên về tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Quán Thế Âm tại Ấn Độ, và như thế niên đại xuất hiện của cuốn kinh còn là vấn đề nghi vấn. Mặc dù các nhà học giả tin tưởng rằng bộ Đại Sự (Mahavatsu) đã được viết ra sớm nhất là vào khoảng năm 200 trước Công nguyên hoặc chậm lắm cũng vào khoảng 300 C.E., tuy nhiên một số cho rằng phẩm Quán Kinh (Avalokita Sutra) trong bộ kinh này có thể đã được người ta thêm vào sau này. Bởi vì Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong Thành Cụ Quang Minh ĐịnhÝ Kinh (Cheng-chu kuang-ming ting-i ching) và xuất hiện trong những thứ tự khác nhau hay không theo một thứ tự nào cả trong Druma-kinnararaja pariprccha Sutra, khiến Harrison (1996:8) cũng nêu ra mối nghi ngờ tương tự là đã do người đời sau thêm vào. Jan Nattier (1992:166) cho rằng Tâm Kinh là một kinh văn do người Trung quốc sáng tác, sớm nhất là vào khoảng thế kỷ thứ năm và chậm nhất cũng vào khoảng thế kỷ thứ Bảy. Và cuối cùng, Gregory Schopen (1978) cho rằng điểm tựa cổ điển của truyền thống tín ngưỡng Quán Thế Âm là phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa cũng do người đời sau thêm vào, được viết ra khi tính cách phổ cập của Bồ Tát Quán Thế Âm đã được thiết định. Học giả Kern (1965:xxi) cũng tin rằng kinh Pháp Hoa nguyên thủy chỉ có 21 phẩm, những phẩm còn lại kể cả Phổ Môn là được thêm vào sau này.
8. Ngài Huyền Trang đã mô tả về tín ngưỡng tôn thờ hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm ở một vài chỗ trong cuốn sách du ký của mình, “Tây Du Ký” do Samuel Beal dịch vào năm 1884 (Vol.1, pp.60, 127, 160, 212 và Vol. 2, pp. 103. 116, 172-73). Những hình tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm rất linh thiêng và sẵn sàng đáp ứng đối với người cầu nguyện: Ngài có thể “hiện ra từ những hình tượng này, từ tấm thân tuyệt mỹ của Bồ Tát, để ban phát sự yên tĩnh và an ổn cho khách lữ hành” (Beal 1884, vol. 1:60). Bồ Tát cũng ban ân huệ cho bất cứ ai muốn trực tiếp trông thấy Ngài: “Bất cứ ai phát nguyện ăn chay cho đến khi chết và tập trung vào hình tượng của vị Bồ Tát này, lập tức Bồ Tát sẽ từ trong hình hiện ra một cách uy nghi rực rỡ” (vol. 1:160). Hình tượng Bồ Tát cũng có khả năng tiên tri và đưa ra những lời chỉ dẫn.
9. Những thảo luận chung quanh vấn đề này căn bản là dựa vào tác phẩm “Mỹ Thuật Cổ Điển Ấn Độ” (The Art of Ancient India, 1985) của Huntingtons, được coi như là công trình nghiên cứu bao gồm những kiến thức cập nhật hoá nhất về chủ đề này.
10. Chutiwongs đã đưa ra một nhận xét khá lý thú rằng Bồ Tát Quán Thế Âm dưới thể dạng Liên Hoa Thủ (Padmapani) có thể “đã bắt đầu sự nghiệp của mình đối với Phật tử Càn Đà La như là một linh thần độc lập -một nhân vật đáng tôn kính, và bởi vì tính cách quan trọng của vị linh thần này- lần hồi đã được đồng hóa thành một nhân vật trong Tam Thánh.Và cũng chỉ từ đây trở đi nhân cách của Ngài mới bắt đầu thể nhập với hình ảnh của vị thị giả đặc biệt đang cầm giữ những cánh hoa cúng dường và tiếp tục được phát triển theo chiều hướng này. Đã có bằng chứng chắc chắn cho thấy Bồ Tát Quán Thế Âm đã được thờ phượng như một linh thần độc lập tại Càn-Đà-La. Căn cứ vào số lượng hình tượng phong phú của Ngài tại đây, tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Quán Thế Âm hiễn nhiên cũng quan trọng không kém tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Di Lặc.
11. Cảm ơn Robert Brown của Đại học University of California at Los Angeles về sự liên hệ này. Ông đã đưa ra bức hình và thảo luận ý nghĩa của nó trong bài viết “Soteriological Androgyny: The Gupta Period Sarnath Buddha Image and Buddhist Doctrine” tại AAS, Boston, tháng Ba, 1999.
12. Thể dạng đặc biệt này của Bồ Tát Quán Thế Âm được gọi là Khasarpana Avalokitesvara, được xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ Năm. Huntington mô tả hình tượng như thế có niên đại khoảng năm 475, dưới thời Sarnath: Bồ tát được tô điểm với những vật trang sức, có khuôn mặt tươi cười, tuổi chừng đôi tám, tay trái cầm một cành hoa sen, trong khi tay phải đang bắt thí nguyện ấn, đồng thời mang một hình tượng Phật thu nhỏ trên đỉnh đầu. Phía dưới cánh tay phải của Ngài là hai con ngạ qủy đang ẩn nấp. “Lòng từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm đối với muôn loài được thể hiện qua dòng nước cam lồ tuôn ra từ bàn tay thí nguyện để cứu vớt những chúng sanh đang đau khổ vì đói khát” (Hungtington 1985:204).
13. Soper đã đem ra thảo luận một số thí dụ trong bài viết khá dài của ông. Cụ thể như, “Cái khăn xếp đội đầu tương đối đơn giản của Ấn Độ đã được chuyển thành chiếc nón trau chuốt mang màu sắc đặc biệt tôn giáo hơn khi người ta thêm vào đó những biểu tượng về mặt trời, mặt trăng có thể đã được vay mượn từ chiếc vương miện của triều đại Sasanian” (vol. 7, no. 3, 1949:264); “Trên một đồng tiền dưới thời Ka-Nị-Sắc-Ca, lần đầu tiên một hình Phật đứng đã được trình bày với ánh hào quang bao quanh thân mình giống như một vị thần thái dương. Mỹ thuật Ấn Độ cho đến khi xuất hiện những bích họa dưới thời Ajanta rất hiếm thấy trình bày hào quang, trong khi đó tại Hadda kể từ triều đại này trở đi, rất nhều hình tượng Phật ngồi đã được tô điểm với vầng ánh sáng mặt trời lẫn hào quang bao quanh đầu” (vol.8, nos. 1 and 2, 1950:72).
14. Holt đã tóm tắt những nội dung của cả hai bản Quán Kinh và duyệt xét lại những sai lầm của các học giả trong việc xác định niên đại. Trong khi Bhattacharyya khẳng định rằng chúng xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ ba trước công nguyên, một số học giả khác tin rằng chúng đã được người đời sau thêm thắt vào bộ Đại Sự bởi vì một trong hai bộ kinh này đã được ngài Tịch Thiên (Santideva) trích dẫn như là một kinh văn độc lập trong tác phẩm Siksasamuccaya (Winternitz 1927, vo. 2:245; Holt 1991:31-33, 229).
15. Ba mươi ba hình tượng Quán Thế Âm được trình bày là: (1) Quán Thế Âm với cành dương, (2) Đứng trên đầu rồng, (3) Cầm kinh sách, (4) Trong vòng ánh sáng, (5) Thế ngồi vương giả, (6) Bạch Y Quán Thế Âm, (7) Tựa vào hoa sen, (8) Nhìn vào thác nước, (9) Ban thuốc (10) Quán Âm Già Lam, (11) Đức Vương (Brhama), (12) Thủy Nguyệt, (13) Một Chiếc Lá, (14) Cổ màu xanh, (15) Tổng quát về thiên giới, (16) Kéo dài thọ mạng, (17) Trân châu, (18) Cửa đá, (19) Tĩnh lặng, (20) Vi tế (Anu), (21) Abhetti, (22) Diệu Y Quán Tự Tại (Parnasvari), (23) Tỉ lưu ly (Vaidurya), (24) Quán Âm Tara, (25) Quán Âm trú trong thân sò, (26) Sáu giai đoạn, (27) Đại Từ Bi, (28) Mã lang phụ, (29) Anjali (30) Như thị, (31) Bất nhị, (32) Liên hoa thủ, và (33) Tưới nước (Goto 1958:170-82). Ông đã dùng Butsuzo-zu-I (Tự điển hình ảnh Phật giáo minh họa), mộc bản thời đại Uế độ (Edo) làm nguồn tài liệu chính. Những bức vẽ mô tả hình tượng Quán Thế Âm sau này đã được Balei Hemmi in lại (1960: 228-32). Theo Louis Frédéric, “Những thể dạng khác của 33 hình tượng Quán Âm này xuất hiện tương đối chậm hơn, hầu như phần lớn chỉ ra đời sau thời Kamakura (1333). Một số hình tượng này lại được tiếp tục trình bày dưới hình thức họa phẩm, trong khi những đề tài còn lại đã không hấp dẫn mấy đối với các nghệ nhân” (1995:157-62). Mặc dù một số thể dạng cá biệt cũng đã thấy xuất hiện trong những bộ sưu tập tranh vẽ Nhật bản thời Trung Cổ, cụ thể như Besson Zakkhi của Shinkaku (fl. 1117-1180), hoặc Kakuzensho của Kakuzen (b. 1144), nhưng tất cả 33 thể dạng này được xem như ở chung trong một bộ sưu tập chỉ được hoàn toàn chấp nhận về sau này. Danh sách này bao gồm những nội dung liên quan đến những dụ ngôn trong kinh Pháp Hoa, các kinh sách Mật giáo cũng như những huyền thoại dân gian của Trung quốc về Bồ Tát Quán Thế Âm. Một điều cũng nên lưu ý rằng một số trong 33 thể dạng Quán Âm này được trình bày Ngài đang ngồi trên thạch bàn. Cornelius đã bàn về những thể dạng này trong Chương 6 của tác phẩm “A Study of the Paintings of the Water-Moon Kuan Yin”, xuất bản năm 1971. Cũng nên đọc thêm tác phẩm “Chinese Bud dhist Sculpture under the Liao” (1993:100) của tác giả Marilyn Leidig Gridley về vấn đề này.
16. “Quán Âm trú trong thân sò” liên hệ đến câu chuyện lịch sử xảy ra dưới triều Văn Tông Hoàng đế đời Đường. Vị hoàng đế này rất thích ăn sò biển, thế nhưng vào tháng đầu của năm 836, viên quan ngự soạn đã không thể cạy mở một con sò lớn. Thế rồi sau khi cầu nguyện, vỏ sò liền mở ra và trong đó có chứa một bức tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ông đã hỏi vị thiền sư Duy Chánh nổi danh đương thời về ý nghĩa của việc này và sau khi được giải thích đã đi đến quyết định từ bỏ thói quen thích ăn sò. Đồng thời hoàng đế cũng ra lệnh cho toàn thể tự viện tại Trung Quốc dựng tôn tượng thờ Bồ Tát Quán Thế Âm (Fo-tsu t’ung chi, Ch’uan 41. T 49:384b-c). Quán Âm Già Lam và Mã lang phụ cũng là những truyện truyền kỳ dân gian liên quan đến một phụ nữ sống vào thế kỷ thứ 9 tại Trung Quốc, truyện sau này sẽ được đề cập đến ở chương 10.