Đại Giải Thoát
Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo
CHÁNH VĂN
Kính lễ Chư Thầy tôn kính, là Ba Thân :
Đức A Di Đà Phật, Vô Lượng Quang, là Pháp Thân,
Chư Thần Bình Yên và Xung Nộ trong Bộ Hoa Sen, là Báo Thân,
Đức Liên Hoa Sanh, Người Che Chở cho Chúng sanh, là Hóa Thân. ÷
“Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này –
phương tiện giải thoát trong giai đoạn Bardo cho các
hành giả trung căn –
gồm có ba phần : phần
dẫn nhập, phần
chủ đề chính, và phần
kết luận. ÷
Trước hết là phần
dẫn nhập,
phương tiện giải thoát cho
loài người.
Trước tiên, người* [01]cần
nghiên cứu những lời
giáo huấn, chúng
chắc chắn sẽ
giải thoát cho ai có
thượng căn ; nhưng nếu những
giáo huấn đó không
tác dụng, người phải
thực hiện phép
chuyển di tâm thức (the ejection of consciousness) nó sẽ giúp
giải thoát một cách
tự nhiên lúc vừa nghĩ đến nó khi ở trong giai đoạn bardo ngay lúc
đối diện cái chết. Cách này sẽ
chắc chắn giải thoát cho các
hành giả (yogins)
trung căn ; nhưng nếu cách này không
tác dụng, người phải
cố gắng tận lực trong phép “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” (Great Liberation through Hearing) khi ở trong giai đoạn bardo
Pháp Tánh (bardo of dharmata, Cheunyi bardo). ÷
Do đó, trước hết
hành giả cần nên
theo dõi diễn biến các dấu hiệu của cái chết chiếu theo
chỉ dẫn của “Sự
Giải Thoát Tự Nhiên của các Dấu Hiệu của cái Chết”, và khi các dấu hiệu đó
chắc chắn đã
hoàn tất,
hành giả cần
thực hiện phép
chuyển di tâm thức, nó giúp
giải thoát một cách
tự nhiên ngay khi nó được nghĩ tới. Nếu sự
chuyển di có
hiệu quả thì không cần đọc
bộ giáo huấn “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe”, nhưng
nếu không được, thì bộ sách
Giải Thoát này nên được đọc một cách
rõ ràng,
chính xác, sát bên cạnh
tử thi. ÷
Nếu
tử thi không có tại chỗ, người phải ngồi trên giường hay ghế mà người chết từng nằm hay ngồi, và trong khi
công bố quyền năng của
chân lý – người nên cầu
vong linh người chết và đọc trong khi đó tưởng tượng người chết ngồi
đối diện và đang nghe đọc. Vào lúc này không nên có những tiếng than khóc nên các
họ hàng phải làm thinh, nín khóc. Nếu
tử thi có tại chỗ,
trong suốt thời gian từ lúc tắt thở đến khi mạch (ở động mạch) ngưng đập, vị thầy (guru) hay một đạo huynh, người mà người chết rất
thương yêu tin tưởng, nên đọc
bộ giáo huấn “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này, đọc gần sát lỗ tai người chết. ÷
Giáo lý “Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe”. Nên trần thiết một
nghi lễ cúng dường Tam Bảo[02]* một cách chu đáo nếu có
lễ vật, nhưng
nếu không có
lễ vật, người nên dâng cúng những
lễ vật có sẵn, rồi hãy
quán tưởng những
lễ vật còn lại
vô lượng vô biên. Người nên đọc từ ba đến bảy lần
bài kệ : “Cầu Nguyện chư Phật chư
Bồ Tát Cứu Thoát” (Inspiration – Prayer Calling on the Buddhas and Bodisattvas for Rescue) sau đó đọc lớn tiếng bài “Cầu Nguyện để
Giải Thoát Khỏi Lối Đi Nguy Hiểm của Bardo” (Inspiration – Prayer for Deliverance from the Dangerous Pathway Verses of the Bardo) và bài “Những Câu Kệ Chánh về Sáu Bardo” (Main Verses of the Bardo). Sau đó, đọc
bộ giáo huấn “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” từ ba đến bảy lần. ÷
Bộ giáo huấn có ba phần : phần chỉ cho thấy
linh quang (luminosity) trong Bardo vào lúc
đối diện cái chết, lời nhắc nhớ lớn về sự chỉ bày trong giai đoạn Bardo
Pháp tánh, và những hướng dẫn để đóng lại lối vào mẫu thai trong bardo
trở thành. ÷
Trước hết là phần chỉ cho thấy
linh quang trong Bardo vào lúc
đối diện cái chết. Bằng cách nghe đọc bộ sách này, tất cả các hạng người
bình thường, những người đã học được
giáo pháp nhưng chưa
nhận ra dù họ
sáng suốt, hay những người
nhận ra được, nhưng
tu tập ít, tất cả họ sẽ
nhận ra được
linh quang căn bản và bỏ qua
kinh nghiệm bardo để trực tiếp
đạt đến Pháp thân vô sanh. ÷
Phương pháp khai thị (instruction) : tốt nhất là
vị bổn sư chính, người mà người chết đã học pháp,
nếu không là một
sư huynh mà người chết đã cùng
phát nguyện giới
thiêng liêng (samaya vow) hay một
huynh đệ cùng dòng tu.
Nếu không có những người này, thì nên chọn một người có thể đọc lớn, rõ,
chính xác và đọc bộ này nhiều lần. Được như vậy, người chết sẽ được nhắc để nhớ lại những gì mà vị thầy đã chỉ cho ông ta thấy, và
chắc chắn không
nghi ngờ nào cả, ông ta sẽ
lập tức nhận ra linh quang căn bản và ông ta sẽ
được giải thoát. ÷
Thời gian khai thị : khi sự thở đã ngưng, khí (prana)[03]* được rút vào kinh
trí huệ trung ương (wisdom-dhuti)[04]** và
linh quang thoát khỏi những
phức tạp phiền nhiễu sẽ chiếu sáng rõ trong thức (consciousness). Nếu khí bị đi sai đường và thoát vào trong hai kinh nhánh (nadis) bên trái và bên phải thì
trạng thái bardo
xuất hiện tức thì, thế nên
bộ giáo huấn cần được đọc trước khi khí thoát vào kinh nhánh bên phải và bên trái. Từ sau khi ngưng thở,
thời gian mà nhịp đập bên trong vẫn còn
hoạt động bằng
thời gian một
bữa ăn. ÷
Phương pháp khai thị : khi
hơi thở sắp sửa ngưng, tốt nhất là
thực hiện phép
chuyển di tâm thức (pho-ba) cho có
hiệu quả, nhưng nếu việc đó không kết quả, người phải nên đọc những lời này :
“Này
thiện nam (
tín nữ) (tên), bây giờ đã tới lúc con (hay ngươi, v.v... tùy cách
xưng hô) phải tìm
con đường. Ngay khi
hơi thở của con ngừng lại,
trước mặt con
xuất hiện linh quang căn bản của bardo đầu tiên, cái mà vị thầy đã từng chỉ cho con. Đó là
pháp tánh (dharmata) mở suốt và trống rỗng như
hư không, tánh rỗng rang
quang minh,
tâm trần trụi
thanh tịnh không có tâm điểm cũng không có ngoại vi. Con hãy
nhận ra và
an trú trong
trạng thái đó và
đồng thời Thầy sẽ chỉ cho con thấy.” ÷
Chắc chắn điều này sẽ được in sâu vào tâm nếu được nói vào lỗ tai câu trên cho tới khi ông ta ngưng thở. Rồi khi biết đã ngưng thở, người hãy đặt ông ta
nằm nghiêng bên phải như thế nằm
sư tử và ấn mạnh vào hai động mạch đang đập – nó
đưa tới giấc ngủ –
cho đến khi hai động mạch đó ngưng đập. Rồi thì, khí (prana) đã vào trong kinh trung ương (dhuti) sẽ không thể
quay trở lại, và
chắc chắn sẽ
đi lên thông qua lỗ thóp trên đỉnh đầu (brahmarandhra).[05]*
Giờ đây cần đọc lên lời
chỉ dẫn. Vào lúc này, bardo đầu tiên – người ta gọi là
linh quang pháp tánh (luminosity of dharmata), tức là tâm vốn nguyên vẹn không méo mó (undis-torted mind) của
pháp thân, sẽ
hiển lộ trong tâm của mọi
chúng sanh. Người thường thì gọi
trạng thái này là không có
ý thức bởi vì khí chìm trong kinh trung ương (avadhuti hay dhuti)
trong suốt quãng
thời gian từ lúc ngưng thở đến khi nhịp động mạch ngưng đập. Quãng
thời gian này dài ngắn không
nhất định,
tùy thuộc vào
điều kiện tâm linh và giai đoạn
tu hành Du già (yogic training). Nó sẽ kéo dài đối với những ai đã
tu tập nhiều, đã ổn định trong phép
tu thiền an định (samatha) và nhạy bén. Khi chỉ bày cho người đã tu được như vậy, người nên lập đi lập lại lời
chỉ dẫn cho đến khi chất lỏng màu lợt (pus) chảy rỉ ra ở chỗ các khiếu của thân người chết. Đối với những người
độc ác,
lạnh lùng thì khoảng
thời gian đó không lâu hơn một cái khảy móng tay, nhưng trong một số người thì quãng
thời gian đó kéo dài bằng một
bữa ăn. Như
đa số kinh (sutra) và tantra dạy rằng
thời gian không có
ý thức đó kéo dài bốn ngày rưỡi, nên nói chung, người phải nên ráng
hết sức chỉ bày cho thấy được
linh quang trong quãng
thời gian đó. ÷
Phương pháp khai thị : nếu người chết có khả năng, người ấy sẽ tự
thực hiện theo như những lời chỉ dạy đã học được trước kia. Nhưng nếu ông ta không thể tự làm được, thì vị thầy hay
đệ tử của thầy hay một
sư huynh và rất thân, sẽ ngồi sát bên cạnh ông ta và đọc lớn
rõ ràng diễn biến thứ lớp các dấu hiệu cái chết như sau : “Giờ đang
hiện diện dấu hiệu đất chuyển thành ra nước, nước chuyển thành nhiệt, nhiệt chuyển thành không khí, không khí chuyển thành thức...” Khi tiến trình này sắp
hoàn tất, ông ta nên được
thúc đẩy để
nuôi dưỡng một
thái độ như sau : “Này
thiện nam tín nữ” nếu người chết là một vị thầy thì : “Thưa
đại sư (guru)” rồi đọc tiếp : “chớ để các niệm của mình đi lang thang.” Hãy đọc nhỏ điều này vào lỗ tai ông ta. Nếu người chết là
huynh đệ đồng môn hay một người khác, người phải đọc tên ông ta cùng những lời sau : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), sự việc gọi là chết giờ đây đã xảy đến, cho nên con nên nuôi giữ
thái độ như thế này : ‘Tôi đã tới thời điểm cái chết, cho nên giờ đây thông qua cái chết này tôi sẽ chỉ
nuôi dưỡng thái độ có được
trạng thái tâm giác ngộ (
Bồ đề tâm), có được
đại từ đại bi, đạt tới sự
giác ngộ toàn triệt
vì lợi ích của
chúng sanh hữu tình vô biên như
hư không. Với
thái độ này, vào thời điểm
đặc biệt này
vì lợi ích của
chúng sanh hữu tình, tôi sẽ
nhận ra linh quang của cái chết (luminosity of death) chính là
Pháp thân (dharmakaya) và khi đạt tới sự
chứng ngộ tối thượng của Đại Ấn[06]* trong
trạng thái đó, tôi sẽ hành động vì sự
tốt lành của tất cả
chúng sanh. Nếu tôi không
đạt được Đại Ấn đó, tôi sẽ
nhận ra trạng thái bardo như chính nó là và khi đạt tới Đại Ấn không thể
phân chia trong bardo, tôi sẽ hành động vì điều
tốt lành của tất cả
chúng sanh vô biên như
hư không, bằng đủ các cách thức nào có thể có
ảnh hưởng đến họ.’
Nhất tâm với
thái độ này con nên nhớ và
thực hành bất cứ
giáo lý thiền định nào mà con đã được giảng trong
quá khứ.” ÷
Những
lời nói trên phải được đọc
rõ ràng từng chữ với đôi môi kề sát lỗ tai ông ta, sao cho để có thể nhắc ông ta nhớ lại sự
thực hành mà không để ông ta lạc mất sự
chú tâm dù chỉ một giây. Rồi khi
hơi thở hoàn toàn ngưng, người phải nên ấn mạnh động mạch dẫn tới giấc ngủ, và nhắc cho nhớ lại những lời này như sau (nếu người chết là vị thầy hay
huynh đệ cao hơn) : ÷
“Thưa
Đại Sư (hay
sư huynh) giờ đây
linh quang cơ bản đang chiếu sáng trước Thầy, Thầy hãy
nhận ra nó và
an trú trong sự
thực hành.” ÷
Nếu người chết là những người khác, người nên khai thị như sau : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ) (tên), hãy nghe đây. Bây giờ,
linh quang thanh tịnh của
pháp tánh đang chiếu sáng trước con, con hãy
nhận ra nó. Này
thiện nam (
tín nữ), ngay thời điểm này
trạng thái tâm của con vốn là
tánh Không thanh tịnh, không có
bản chất nào cả, không
vật chất cũng
không tính chất chẳng hạn như màu sắc, mà thuần chỉ
tánh Không thanh tịnh, đây là
pháp tánh, tức
Phật Mẫu Samantabhadri. Nhưng
trạng thái tâm này không phải là ‘không trơ’ ; nó vô
chướng ngại,
sáng ngời,
thanh tịnh và
sinh động ; tâm này là Phật
nguyên thủy Samantabhadra.[07]*
Bản chất của tâm con là
tánh Không, không có bất kỳ chất liệu nào,
đồng thời sinh động và
quang minh, cả hai điều đó không thể tách rời nhau ; đây là
Pháp thân Phật. Trong những tâm của con thì tâm này là
tánh Không và
linh quang hợp
nhất không thể tách rời trong
hình thức một khối ánh sáng vĩ đại, không
sanh không diệt, bởi thế đó là Phật của Ánh sáng
Bất tử (Buddha of Immortal Light). Tất cả sự
cần thiết là
nhận ra điều này. Khi con thấu rõ rằng
bản tánh thanh tịnh này của tâm con chính là Phật thì nhìn vào trong
tự tâm có nghĩa là đang
an trú trong
tâm Phật (buddha-mind).” ÷
Nên lập đi lập lại đoạn khai thị này ba đến bảy lần, đọc
rõ ràng chính xác từng lời. Thứ nhất nó sẽ nhắc cho ông ta nhớ lại những gì mà trước đây vị Thầy đã chỉ bày cho ông ta ; thứ hai, ông ta sẽ
nhận biết tâm trần trụi
của riêng mình chính là
linh quang ; thứ ba, khi đã
nhận biết như vậy, ông ta sẽ trở nên hợp nhất một cách không thể tách rời với
Pháp thân và
chắc chắn ông ta đạt
giải thoát. ÷
Nếu ông ta
nhận ra linh quang đầu tiên, ông ta sẽ
được giải thoát. Nhưng nếu sợ rằng ông ta đã không
nhận ra linh quang đầu tiên đó, thì cái gọi là
linh quang thứ hai sẽ chiếu sáng, và nó
xuất hiện sau
hơi thở đã ngưng một
thời gian hơn một
bữa ăn một chút. ÷
Tùy theo nghiệp thiện hay
nghiệp ác, khí (prana) thoát
đi vào trong kinh
năng lực (nadi) bên trái hay bên phải và rồi đi ra ngoài thông qua các khiếu của thân, và thức bỗng trở nên
minh bạch. Nói rằng
thời gian linh quang thứ hai chiếu sáng kéo dài như một
bữa ăn là
tùy thuộc vào việc ông ta có bén nhạy, nhẹ vía hay nặng vía (không bén nhạy), và cũng
tùy thuộc ông ta đã
tu tập hay không. Rồi sau đó, thức của ông ta xuất ra, ông ta phân vân không
biết mình bị chết hay không, ông ta sẽ thấy
họ hàng đã
tụ họp trước mặt mình và nghe tiếng khóc của họ. ÷
Suốt
thời gian này, trong khi chưa
xuất hiện những phóng tưởng
mê lầm và
dữ dội của nghiệp, trong khi chưa xảy ra những nỗi
kinh hãi do Thần Chết đem tới, thì rất cần sự hướng dẫn khai thị lúc này đây. Ngay đây có sự
đặc biệt khác nhau giữa sự
thực hành hoàn tất và
thực hành quán tưởng (complete practice and visualisation pratice).[08]* Nếu người chết đã
tu tập pháp thực hành
hoàn tất, người phải nên gọi tên ông ta ba lần và đọc đi đọc lại những lời khai thị chỉ bày
linh quang như trên. Nếu người chết đang
thực hành quán tưởng, người phải đọc lớn bài
nghi thức thực hành và sự
mô tả về Yidam[09]** của ông ta và nhắc ông ta nhớ lại bằng những lời như sau : “Này
thiện nam (
tín nữ), con hãy
thiền định về yidam của con, và đừng bị phân tâm. Hãy tập trung cao độ vào yidam của con. Hãy
quán tưởng yidam giống như một
hình tướng mà không có
thể chất, giống như con thấy
mặt trăng trên mặt nước ; đừng
quán tưởng Yidam dưới một
hình tướng cụ thể cứng chắc.” Nếu người chết là người
bình thường, người nên chỉ cho ông ta thấy bằng cách nói như sau : “Con hãy
thiền định về đức
Đại Bi Vương
Quán Thế Âm Bồ tát.” ÷
Không có gì
nghi ngờ rằng, những ai đã không
nhận ra bardo, thì sẽ nắm được nó khi nghe những
chỉ dẫn này. Nhưng nếu họ đã không
thuần thục trong
thiền định, dù cho họ được thầy chỉ bày cho khi còn sống, thì họ sẽ không có khả năng tự mình nhận rõ
trạng thái bardo, do đó vị thầy hay
sư huynh phải khai thị cho rõ ra. Và rất cần khai thị hướng dẫn cho những ai đã không thể nhớ được trong giai đoạn bardo ở thời điểm
đối diện cái chết bởi vì bệnh tình
nghiêm trọng làm cho họ
mê lầm, cho dù trước đó khi còn khỏe mạnh họ đã
thuần thục trong
thiền định. Lại còn cực kỳ
cần thiết khai thị cho những người, mặc dù trước đó đã rất
thuần thục trong
thiền định theo
con đường này, nhưng họ lại phá bỏ
giới luật, hay sự
hành trì samaya đã
thoái hóa nên giờ đây
sau khi chết họ có thể đọa xuống những
cõi giới thấp. ÷
Điều tốt nhất là ông ta thấu hiểu được suốt trong bardo thứ nhất, nhưng nếu ông ta không được như vậy,
thì giờ đây bằng sự nhắc nhở khi đọc lời khai thị trong bardo thứ hai, sự “quán chiếu thấu suốt” (insight) của ông ta sẽ được
thức tỉnh và ông ta sẽ
được giải thoát. Suốt trong bardo thứ hai, thức của ông ta – mà trước đó đã không biết rằng ông ta bị chết hay không – giờ đây bất
thình lình trở nên
minh bạch ; thức này được gọi là thân huyễn
thanh tịnh. Ngay lúc này, nếu ông ta hiểu được lời dạy này thì
pháp tánh mẹ và
pháp tánh con
gặp nhau và ông ta sẽ không còn bị nghiệp khống chế. Đích thị
y như ánh sáng
mặt trời xua tan bóng tối, ở đây
nghiệp lực sẽ bị
linh quang của
con đường (bardo) xua tan đi, và
sự giải thoát sẽ được đạt tới. Điều này được gọi là bardo thứ hai,
sáng ngời trước mặt thân
tinh thần và thức sẽ có khả năng
nghe được trở lại y như trước đây. Lúc này đây nếu ông ta hiểu được lời khai thị, thì
mục đích của lời khai thị đã được
hoàn tất, và vì các phóng tưởng
mê lầm của nghiệp chưa
xuất hiện, cho nên ông ta có khả năng tự mình định hướng tới bất kỳ nơi nào. ÷
Với cách này người chết sẽ
được giải thoát bằng cách
nhận ra linh quang xuất hiện suốt trong bardo thứ hai, cho dù đã không
nhận ra linh quang cơ bản. Nhưng nếu ông ta vẫn không
được giải thoát bởi bardo thứ hai, bây giờ cái gọi là bardo thứ ba, tức bardo
pháp tánh (bardo of dharmata)
hiện ra. Các phóng tưởng
mê lầm của nghiệp sẽ
xuất hiện trong bardo thứ ba cho nên điều quan trọng nhất là vào lúc này phải đọc lời chỉ bày vĩ đại của bardo
pháp tánh bởi vì nó rất có
ích lợi và rất mãnh liệt. ÷
Lúc này
thân nhân đang than khóc, không có phần của người chết trong
bữa ăn của
gia đình, quần áo của ông ta bị
mang đi, giường bị tháo rời ra,
vân vân. Ông ta có thể trông thấy họ nhưng họ không thấy ông ta, ông ta có thể nghe họ gọi tên ông ta nhưng họ không thể nghe ông ta gọi họ, nên ông ta bỏ đi trong
tuyệt vọng. Có ba
hiện tượng sẽ
xuất hiện lúc này : những
âm thanh, ánh sáng màu, và các chùm
tia sáng ; và với nỗi sợ, nỗi
kinh hoàng, sự luống cuống, ông ta sẽ càng lúc càng yếu và
kiệt quệ cho nên vào lúc này cần đọc lời chỉ bày vĩ đại về bardo
pháp tánh. Người hãy gọi tên người chết và đọc
rành mạch những lời sau đây : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe
cẩn thận, không được phân tán. Có sáu
trạng thái bardo : bardo của lúc sanh ra đời, bardo của lúc
nằm mộng, bardo của thiền
an định[10]* (samadhi-meditation), bardo của lúc
đối diện cái chết, bardo
pháp tánh và bardo
thác sanh (bardo of becoming). Này
thiện nam (
tín nữ), con sẽ
kinh nghiệm ba
trạng thái bardo : bardo của lúc
đối diện cái chết, bardo
pháp tánh và bardo
thác sanh. Trong ba bardo này,
linh quang pháp tánh trong bardo vào lúc
đối diện cái chết đã chiếu sáng cho tới ngày hôm qua, nhưng con đã không
nhận ra nó, nên con đã phải lang thang
tới nơi đây. Giờ đây, con sẽ
kinh nghiệm bardo
pháp tánh và bardo
thác sanh, nên con hãy
nhận ra cái ta sắp chỉ cho con thấy và không được phân tán. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), giờ đây, cái gọi là chết đã đến. Không phải chỉ có
một mình con rời bỏ
thế giới này, điều đó xảy ra cho tất cả
mọi người, cho nên con đừng
cảm thấy khát khao luyến tiếc
cuộc đời này. Mặc dù con có khát khao luyến tiếc thì con cũng không thể ở lại được, con chỉ có thể lang thang trong cõi
sanh tử. Đừng
ao ước, đừng luyến tiếc. Con hãy nhớ đến
Tam Bảo. Này
thiện nam (
tín nữ), dù cho các phóng tưởng
kinh hãi nào
xuất hiện trong bardo
pháp tánh này, thì đừng quên những lời này, hãy
liên tục nhớ đến
ý nghĩa của những lời này, điểm
cốt lõi là
nhận ra, cùng với những lời này : ÷
Giờ đây khi bardo
pháp tánh hiện lên cho tôi,
tôi sẽ
buông bỏ mọi niệm
sợ hãi,
kinh hoàng,
tôi sẽ
nhận biết rằng bất cứ cái gì
xuất hiện đều chỉ là phóng tưởng của tôi
và biết nó chính là một
ảnh hiện của bardo ;
giờ đây tôi đã tới thời điểm
quyết địnhtôi sẽ không
sợ hãi các thần bình yên và xung nộ, đó là những phóng tưởng
của riêng tôi mà thôi. ÷
“Hãy cứ
liên tục nói những lời này
rõ ràng rành mạch và nhớ tới
ý nghĩa của chúng. Đừng quên chúng, bởi vì điểm
quyết định là, với sự xác tín, hãy
nhận ra rằng bất cứ cái gì
xuất hiện dù
kinh hãi đến đâu cũng đều là các phóng tưởng riêng của con. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), khi thân và tâm của con tách rời nhau,
pháp tánh sẽ
xuất hiện,
thanh tịnh,
rõ ràng tuy nhiên rất khó nhận rõ, sáng
rực rỡ chói lọi với sức sáng
kinh khủng, như ảnh quáng nắng[11]* trên cánh đồng
mùa xuân.
Đừng sợ hãi nó, đừng hoảng hốt. Đây là sự tỏa sáng
rực rỡ tự nhiên của
pháp tánh riêng của con, bởi thế, hãy
nhận ra nó. ÷
“Một
tiếng sấm gầm rất lớn sẽ đến từ trong ánh sáng, đó là
âm thanh tự nhiên của
pháp tánh, giống như ngàn
tiếng sấm đổ ầm cùng một lúc. Đây là
âm thanh tự nhiên của
pháp tánh của riêng con, nên
đừng sợ, đừng hoảng hốt. Con có cái gọi là thân
tinh thần gồm những
xu hướng không có
ý thức, con không có thân
vật lý gồm thịt và máu, cho nên dù bất cứ
âm thanh nào, màu sắc,
tia sáng nào
xuất hiện cũng không thể làm hại con được và con không thể chết.
Đơn giản là con chỉ việc
nhận ra rằng chúng là những phóng tưởng của con. Con hãy biết đây là
trạng thái bardo. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), với cách này nếu con không
nhận ra chúng chính là những phóng tưởng của con, dù bất
cứ sự tu tập thiền định nào con đã
hành trì khi còn sống, nếu con đã không gặp
giáo pháp này,
thì giờ đây các ánh sáng đầy màu sắc cũng sẽ
đe dọa con được, các
âm thanh cũng sẽ làm con hoảng hốt và các chùm
tia sáng cũng sẽ làm con
kinh hãi. Nếu con không hiểu được điểm cốt yếu này của
giáo pháp, con sẽ không
nhận ra được những ánh sáng,
tia sáng,
âm thanh và do đó con sẽ
lưu lạc trong cõi
sanh tử luân hồi. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), sau bốn ngày rưỡi bất tỉnh (không có
ý thức) đây con sẽ
tiếp tục cuộc
hành trình, và được
tỉnh dậy từ sự bất tỉnh con sẽ phân vân tự hỏi điều gì đã xảy ra cho con, cho nên con hãy
nhận ra nó chính là
trạng thái bardo. Vào lúc đó, cõi
sanh tử bị đẩy lùi lại, và mọi thứ con thấy đều
xuất hiện dưới dạng ánh sáng và
hình ảnh. ÷
“Toàn bộ
hư không sẽ chiếu sáng với một ánh sáng xanh và
đức Phật Tỳ
Lô Giá Na từ cõi Trung Ương, cõi
Hiển Lộ Khắp Nơi (the central Realm, All-pervading Circle)
xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu trắng, ngài ngự trên ngai
sư tử, cầm trong tay một bánh xe có tám nan hoa và ngài đang ôm người
phối hợp là Nữ Hoàng
Hư Không Kim Cương (The Queen of Vajra Space). Ánh sáng xanh da trời của
thức uẩn với sự
thanh tịnh cơ bản, tức là
Pháp Giới Thể Tánh Trí (the wisdom of the dharmadhatu),
trong suốt,
rực rỡ, sắc bén,
quang minh từ trái tim
đức Phật Tỳ
Lô Giá Na và người
phối hợp chiếu về hướng con và chiếu
xuyên qua con khiến cho đôi mắt con không
chịu đựng nổi.
Cùng lúc, và với ánh sáng đó có ánh sáng trắng êm dịu của
chư thiên cũng sẽ hướng về con và xuyên thủng con.
Đồng thời chịu
ảnh hưởng của nghiệp xấu ác, con sẽ
sợ hãi trốn tránh khỏi
pháp giới thể tánh trí nơi có ánh sáng xanh da trời
rực rỡ, con sẽ
cảm thấy một thứ tình cảm
vui sướng hướng về ánh sáng trắng êm dịu của các vị trời. Lúc đó con đừng quá
kinh hãi, hoảng hốt bởi ánh sáng màu xanh của
trí huệ tối thượng rất sắc bén,
trong suốt,
rực rỡ,
quang minh, bởi vì đó là
tia sáng của Phật, nó được gọi là
pháp giới thể tánh trí. Với lòng
chân thành sùng bái tôn thờ, con hãy để
tia sáng đó thu hút con, con hãy khẩn cầu, và nghĩ rằng, ‘Đây là
tia sáng đại bi của
đức Phật Tỳ
Lô Giá Na, con xin
quy y nương tựa vào ánh sáng đó.’ Như vậy,
đức Phật Tỳ
Lô Giá Na đích thị đang đến
tiếp dẫn con từ trong nẻo đường bardo đầy hiểm nguy, đó chính là
tia sáng đại bi của
đức Phật Tỳ
Lô Giá Na. ÷
“Con đừng
ham vui thú với ánh sáng trắng êm dịu, đừng để bị nó
lôi cuốn và cũng đừng
thương tiếc nó. Nếu con để nó
lôi cuốn, con sẽ lang thang ở cõi các vị trời và
lưu lạc trong
sáu nẻo luân hồi. Đó là một
chướng ngại ngăn chặn
con đường giải thoát, cho nên con đừng nhìn nó, nhưng con hãy
cảm thấy là đang
mong ước ánh sáng xanh sáng chói, và với sự tập
trung tâm rất cao độ nghĩ đến
đức Phật Tỳ
Lô Giá Na con hãy lập đi lập lại bài Lời
Cầu Nguyện Linh Cảm sau đây : ÷
Vì
vô minh dày đặc con lang thang trong
luân hồi sanh tử,
giờ đây nương vào
con đường ánh sáng
quang minh của
Pháp Giới Thể Tánh Trí,
cầu xin đức Phật Tỳ
Lô Giá Na đi trước mặt con,
người
phối hợp của ngài là Hoàng Hậu
Hư Không Kim Cương đi phía sau con ;
xin giúp con
vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến
trạng thái Phật đà toàn thiện.” ÷
Bằng cách đọc lời
cầu nguyện linh cảm này với lòng sùng mộ sâu sắc, người chết sẽ tan vào trong ánh sáng cầu vồng trong tim của
đức Phật Tỳ
Lô Giá Na và người
phối hợp của ngài, và
trở thành một
báo thân Phật trong cõi Trung Ương, cõi
Hiển Lộ Vô Lượng (the central Realm, The Densely Arrayed). ÷
Nếu ngay cả sau khi nghe đọc lời chỉ bày nhưng vì sự
sân hận và tấm màn
vô minh điên đảo, ông ta
sợ hãi các ánh sáng và
tia sáng, và
tìm cách trốn thoát, và nếu ông ta vẫn
mê lầm dù sau khi đọc lời
cầu nguyện, thì vào ngày thứ hai, ông ta cùng với
nghiệp bất thiện đưa đến
địa ngục, sẽ được bộ nhóm các deities (
Bồ tát thần) của Phật
Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasattva) đến
tiếp dẫn. Cho nên, để chỉ bày cho người chết, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời này : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe
cẩn thận, không được phân tán. Vào ngày thứ hai, một ánh sáng trắng,
thành phần tinh khiết của nước sẽ chiếu sáng,
đồng thời đức
Kim Cương Tát Đỏa-A Súc Bệ Phật từ cõi Toàn Lạc Phương Đông màu xanh
xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu xanh, ngài cầm trong tay một
Kim cương sử năm nhánh, ngài ngự trên ngai voi, đang ôm người
phối hợp là
Phật Mẫu Locana. Ngài được tháp tùng bởi hai vị
Bồ tát là
Địa Tạng Vương (Ksitigarbha) và
Di Lặc (Maitreya) cùng với hai vị nữ
Bồ tát là Lasya và Puspa, cho nên có sáu tướng Phật
xuất hiện. ÷
“Ánh sáng trắng của
sắc uẩn trong tánh
thanh tịnh căn bản của nó là
Đại Viên Cảnh Trí (
trí huệ giống như cái gương), thứ ánh sáng trắng chói chang,
quang minh,
trong suốt, từ tim của Phật
Kim Cương Tát Đỏa và người
phối hợp sẽ chiếu về hướng con và xuyên thủng con khiến mắt con không chịu nổi để thấy ánh sáng đó.
Cùng lúc, và cùng với ánh
sáng trí huệ đó, có ánh sáng màu khói, êm dịu, của
chúng sanh địa ngục cũng chiếu rọi về hướng con và xuyên thủng con.
Cùng lúc đó, dưới
tác động của
sân hận, con sẽ sợ sệt
cố tránh né ánh sáng trắng sáng chói, con sẽ
cảm thấy một tình cảm
vui thích hướng về ánh sáng màu khói êm dịu của
chúng sanh địa ngục. Vào lúc đó, con
đừng sợ ánh sáng trắng
trong suốt,
rực rỡ,
quang minh, sắc sảo, mà hãy
nhận ra ánh sáng đó chính là
trí huệ. Với lòng sùng mộ
mong ước, con hãy để ánh sáng trắng đó thu hút con, và con hãy khẩn cầu với
ý nghĩ rằng, ‘Đó là
tia sáng của lòng
đại bi của Phật
Kim Cương Tát Đỏa Thiêng Liêng, con xin
quy y nương
dựa vào ánh sáng đó.’ Chính ngài
Kim Cương Tát Đỏa đang
tiếp dẫn con trong nẻo đường bardo đầy sự
kinh hoàng ; đó chính là cái móc câu bằng
tia sáng của lòng
đại bi của đức
Kim Cương Tát Đỏa, cho nên con hãy
cảm thấy là đang mong cầu nó. ÷
“Con đừng hưởng vui thú trong ánh sáng màu khói êm dịu của
chúng sanh địa ngục. Đó là nẻo đường mời gọi của các tấm màn
vô minh điên đảo của con, do
sân hận mãnh liệt đã
tích tụ lại. Nếu con bị nó thu hút lôi kéo, con sẽ rơi xuống
địa ngục, chìm vào vũng lầy chứa đầy sự
đau khổ không chịu nổi và chẳng cách nào thoát ra được. Nó là
chướng ngại ngăn chặn
con đường giải thoát cho nên con đừng nhìn nó, mà hãy
buông bỏ thù hận. Đừng để nó
lôi cuốn con, đừng
thương tiếc nó. Con nên
cảm thấy là đang
mong ước ánh sáng trắng
quang minh rực rỡ và với sự tập
trung tâm cao độ vào
đức Phật Kim Cương Tát Đỏa, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây : ÷
Vì thù hận cao độ con lang thang trong
sanh tử,
giờ đây nương vào
con đường ánh sáng
quang minh của
Đại Viên Cảnh Trí,
cầu xin đức Phật Kim Cương Tát Đỏa đi trước mặt con,
người
phối hợp của ngài,
đức Phật Mẫu Locana đi sau lưng con ;
xin giúp con
vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến
trạng thái Phật đà toàn thiện.” ÷
Bằng việc đọc lời
cầu nguyện linh cảm này với lòng
sùng bái sâu sắc, ông ta sẽ tan nhập vào ánh sáng cầu vồng trong tim của
đức Phật Kim Cương Tát Đỏa và người
phối hợp của ngài và trở nên một
báo thân Phật trong Cõi Toàn Lạc phương Đông. ÷
Tuy nhiên ngay cả sau khi
nghe lời chỉ bày này, một số người vì
kiêu mạn và những tấm màn
vô minh điên đảo, họ sợ cái móc câu làm bằng
tia sáng lòng
đại bi và họ tránh né. Cho nên vào ngày thứ ba, họ cùng với nẻo đường ánh sáng của
cõi người sẽ được nhóm các thần của
đức Phật Bảo Sanh đến
tiếp dẫn. Cho nên, để
chỉ dẫn cho người chết lần nữa, người nên gọi tên ông ta và nói những lời này : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe
cẩn thận không được phân tán. Vào ngày thứ ba, một
tia sáng vàng,
yếu tố thanh khiết của đất, sẽ chiếu sáng và
cùng lúc đó,
đức Phật Bảo Sanh từ Cõi
Vinh Quang phương Nam màu vàng sẽ
xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu vàng, ngài cầm một viên
ngọc như ý trong tay, ngồi trên ngai con ngựa, đang ôm người
phối hợp là
Phật Mẫu Mamaki. Ngài được tháp tùng bởi hai
Bồ tát là Aøkasagarbha (
Hư Không Tạng Bồ tát) và Samanbhadra (
Phổ Hiền Bồ tát) và hai nữ
Bồ tát là Mala và Dhupa, do đó có sáu tướng Phật
từ không gian của ánh sáng cầu vồng
xuất hiện. ÷
“Ánh sáng vàng của
thọ uẩn trong tánh
thanh tịnh căn bản của nó là
Bình Đẳng Tánh Trí (the wisdom of equality), màu vàng sáng chói,
trang hoàng với những dĩa ánh sáng
quang minh,
trong suốt, sáng đến độ mắt không chịu nổi, từ tim của
đức Phật Bảo Sanh và người
phối hợp chiếu về hướng con và
xuyên qua tim con, khiến cho mắt con không thể chịu nổi khi nhìn nó.
Cùng lúc và cùng với ánh
sáng trí huệ đó, có thứ ánh sáng xanh da trời êm dịu của
cõi người cũng
xuyên qua tim con, dưới
tác động của
ngã mạn, con sẽ sợ và
cố tránh né ánh sáng vàng
trong trẻo, sắc bén, con sẽ
cảm thấy có tình cảm vui thú bị
lôi cuốn hướng về ánh sáng xanh dịu của
cõi người. Ngay lúc đó, con
đừng sợ ánh sáng vàng chói lọi,
trong suốt, sắc bén
quang minh, con hãy
nhận ra nó chính là
trí huệ. Hãy
để tâm con
an trú trong nó,
buông xả trong một
trạng thái vô-tác, và
mong ước được nó kéo con vào. Cho dù con không
cảm thấy rất sùng mộ và con không đọc lời khẩn cầu
cảm ứng, nhưng nếu con
nhận ra nó chính là tính sáng chiếu
tự nhiên của
tự tâm con, thì tất cả các
hình tướng, các ánh sáng và các
tia sáng sẽ nhập làm một – bất ly – với con, và con sẽ đạt tới
giác ngộ. Nếu con không thể
nhận ra nó là tính sáng chiếu
tự nhiên của tâm con, thì với lòng thiết tha sùng mộ, con hãy khẩn cầu với
ý nghĩ rằng, ‘Đó là tia ánh sáng lòng
đại bi của
đức Phật Bảo Sanh, con xin
quy y nương tựa vào ánh sáng đó.’ Đó là cái móc câu bằng tia ánh sáng lòng
đại bi của
đức Phật Bảo Sanh, nên con hãy
cảm thấy đang
ao ước mong cầu nó. ÷
“Con đừng hưởng vui thú trong ánh sáng xanh êm dịu của
cõi người. Đó là nẻo đường ánh sáng rất
cám dỗ của những
xu hướng thói quen không có
ý thức, do sự
ngã mạn cao độ của con kết tụ lại. Nếu con bị nó
lôi cuốn vào, con sẽ rơi vào
cõi người và kinh qua sanh, lão, bệnh, tử, khổ đau, và con không bao giờ
thoát khỏi vũng
bùn lầy lội của
sanh tử. Nó là
chướng ngại ngăn cản con đường giải thoát, cho nên con đừng nhìn nó, con hãy
buông bỏ ngã mạn, hãy
buông bỏ các
xu hướng thói quen không có
ý thức của con. Đừng để nó thu hút, đừng
thương tiếc nó. Con hãy
cảm thấy đang
mong ước ánh sáng vàng
rực rỡ quang minh, và với sự tập trung
nhất tâm cao độ nghĩ đến
đức Phật Bảo Sanh, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây :
Vì
kiêu mạn quá mức con lang thang trong
sanh tử,
giờ đây nương vào
con đường ánh sáng
quang minh của
Bình Đẳng Tánh Trí,
cầu xin đức Phật Bảo Sanh đi trước mặt con,
người
phối hợp của ngài,
đức Phật Mẫu Mamaki đi sau lưng con ;
xin giúp con
vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến
trạng thái Phật đà toàn thiện.” ÷
Bằng việc đọc lời khẩn cầu linh cảm này với sự
sùng bái sâu sắc, ông ta sẽ tan nhập vào ánh sáng cầu vồng trong tim của
đức Phật Bảo Sanh và người
phối hợp của ngài và trở nên một
báo thân Phật trong cõi phương Nam, Cõi
Vinh Quang. ÷
Với sự khai thị chỉ bày như cách này thì
chắc chắn được giải thoát, dù những người
căn cơ yếu cũng có thể được.
Tuy nhiên sau khi được chỉ bày như thế này trong nhiều lần, cũng có những người đã bỏ qua các cơ hội
may mắn, chẳng hạn như những người đã làm điều
quá ác độc hay đã
thoái hóa trong việc
hành trì samaya những người đó sẽ không
nhận ra được lời khai thị. Vì bị
rối loạn bởi lòng tham và những tấm màn
vô minh điên đảo, họ sẽ
sợ hãi các
âm thanh và ánh sáng và họ sẽ trốn đi, cho nên vào ngày thứ tư, những người đó cùng với nẻo đường ánh sáng của quỷ đói do lòng tham và
keo kiệt bủn xỉn làm nên, tất cả sẽ được nhóm các thần của
đức Phật A Di Đà (The Blessed Amitabha) đến
tiếp dẫn họ. Để chỉ bày cho người chết lần nữa, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời này :
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe
cẩn thận không được phân tán. Vào ngày thứ tư, một ánh sáng đỏ – đó là
yếu tố tinh khiết của lửa, sẽ chiếu sáng và
đồng thời đức Phật A Di Đà từ cõi phương Tây màu đỏ, Cõi
Cực Lạc (The Blissful) sẽ
xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu đỏ, ngài cầm
hoa sen trong tay, ngài ngự trên ngai con chim công, ngài đang ôm người
phối hợp là
Phật Mẫu Pandaravasini. Ngài được tháp tùng bởi hai vị
Bồ tát là đức
Quán Thế Âm (Avalokitesvara) và đức
Văn Thù Sư Lợi (Manjusri) và hai vị nữ
Bồ tát là Gita và Aloka, khiến cho từ trong
không gian ánh sáng cầu vồng có sáu tướng Phật
xuất hiện. ÷
“Ánh sáng đỏ của
tưởng uẩn trong tánh
thanh tịnh căn bản của nó là
Diệu Quan Sát Trí (wisdom of discrimination), màu đỏ
rực rỡ, được
trang hoàng bởi những dĩa ánh sáng
quang minh, rõ rệt, sắc bén, óng ánh từ tim của
đức Phật A Di Đà và người
phối hợp chiếu tới và
xuyên qua tim con khiến con không chịu nổi khi nhìn nó. Con
đừng sợ ánh sáng đó.
Cùng lúc và cùng với ánh
sáng trí huệ đó, có một thứ ánh sáng vàng êm dịu của các quỷ đói cũng sẽ chiếu tới. Con đừng
thích thú nó ; con hãy
buông bỏ tham muốn và
thương tiếc. ÷
“Vào lúc đó, dưới
tác động của lòng
tham muốn quá mức, con sẽ
sợ hãi lẩn tránh ánh sáng đỏ
rực rỡ, sắc bén ; con sẽ
cảm thấy sự
vui thích và bị thu hút về ánh sáng vàng êm dịu của quỷ đói. Chính vào lúc đó, con
đừng sợ hãi ánh sáng đỏ, sắc bén
sáng suốt,
quang minh,
trong suốt, con hãy
nhận ra chính nó là
trí huệ. Hãy
để tâm con
an trú trong nó,
buông xả trong
trạng thái vô tác. Với lòng
chân thành mong cầu được thu hút vào nó. Nếu con
nhận ra nó chính là tánh
sáng tỏ tự nhiên của riêng con thì dù con không
cảm thấy có sự sùng mộ và dù con không đọc lời khẩn cầu linh cảm, thì tất cả các
hình tướng và ánh sáng và
tia sáng sẽ nhập làm một – bất ly – với con, và con sẽ đạt tới
giác ngộ. Nếu với cách này mà con không thể
nhận ra nó, thì với lòng sùng mộ, con hãy khẩn cầu với
ý nghĩ rằng, ‘Đó là tia ánh sáng lòng
đại bi của
đức Phật A Di Đà, con xin
quy y nương tựa vào ánh sáng đó.’ Đó là cái móc câu bằng
tia sáng lòng
đại bi của
đức Phật A Di Đà. Con hãy
cảm thấy có lòng sùng mộ và con đừng
trốn thoát. Dù con trốn bỏ đi, nó vẫn sẽ ở – bất ly – với con. ÷
“Con
đừng sợ hãi, con đừng bị ánh sáng vàng êm dịu của các quỷ đói thu hút con. Đó là nẻo đường ánh sáng của những
xu hướng thói quen không có
ý thức do sự
tham lam quá độ của con
tích tụ lại. Nếu con bị nó
lôi cuốn, con sẽ rơi vào cõi quỷ đói và con sẽ
trải qua những điều
bất hạnh không
chịu đựng nổi về đói và khát. Nó là
chướng ngại ngăn cản con đường giải thoát, cho nên con đừng để nó
lôi cuốn vào, con hãy
buông bỏ những
xu hướng thói quen không có
ý thức của con. Con đừng
thương tiếc nó. Con hãy
cảm thấy đang
mong ước ánh sáng đỏ
quang minh rực rỡ và với sự tập trung
nhất tâm cao độ hướng về
đức Phật A Di Đà và người
phối hợp của ngài, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây : ÷
Vì
tham muốn quá độ con lang thang trong
sanh tử,
giờ đây nương vào
con đường ánh sáng
quang minh của
Diệu Quan Sát Trí,
cầu xin đức Phật A Di Đà đi trước mặt con,
người
phối hợp của ngài là
Phật Mẫu Pandaravasini đi sau lưng con ;
xin giúp con
vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến
trạng thái Phật đà toàn thiện.” ÷
Bằng cách đọc lời khẩn cầu linh cảm này với lòng
sùng bái sâu sắc, người chết sẽ tan nhập vào trong ánh sáng cầu vồng trong tim của
đức Phật A Di Đà Thiêng Liêng, đức
Vô Lượng Quang, với người
phối hợp của ngài và
trở thành một
báo thân Phật trong cõi phương Tây, Cõi
Cực Lạc. ÷
Bằng cách này thì không thể nào
không giải thoát được ;
tuy nhiên sau khi khai thị như vậy cũng còn những
chúng sanh hữu tình không thể
từ bỏ những
xu hướng thói quen vô ý thức vì những
tập nghiệp lâu đời và dưới
ảnh hưởng của tâm
ganh tỵ và
nghiệp ác độc, họ sợ những
âm thanh và ánh sáng ; cái móc câu bằng tia-ánh sáng lòng
đại bi không câu bắt họ được nên họ lang thang xuống tới ngày thứ năm trong
trạng thái bardo. Đến đây, nhóm các thần của
đức Phật Bất Không Thành Tựu cùng với những tia-ánh sáng của lòng
đại bi sẽ đến
tiếp dẫn họ, và còn có nẻo đường-ánh sáng của các Atula (các bán thiên
ganh tỵ) do các cảm tính
ganh ghét tạo nên, cũng sẽ đến mời dụ họ. Cho nên, để chỉ bày cho người chết lần nữa, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời sau đây : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe
cẩn thận không được phân tán. Vào ngày thứ năm, một thứ ánh sáng xanh lá cây, đó là
yếu tố tinh khiết của không khí, sẽ chiếu sáng và
đồng thời đức Phật Bất Không Thành Tựu, vị
đứng đầu của nhóm từ cõi phương Bắc màu xanh lá cây, cõi Những Hành Động Tích Tập sẽ
xuất hiện trước mặt con. Thân ngài màu xanh lá cây, ngài cầm một
kim cương sử đôi trong tay và ngồi trên ngai các thần điêu Ca-lâu-la (shang-shang birds) bay lượn trên bầu trời, ngài đang ôm người
phối hợp là
Phật Mẫu Samaya-Tara. Ngài được
hộ tống bởi hai
Bồ tát là
Kim Cương Thủ (Vajrapani) và Sarvanivaranaviskambhin và hai vị
Bồ tát là Gandha và Naivedya, khiến cho
từ không gian ánh sáng cầu vồng
xuất hiện sáu tướng Phật. ÷
“Ánh sáng màu xanh lục của
hành uẩn trong tánh
thanh tịnh căn bản của nó là
Thành Sở Tác Trí, màu xanh lục
quang minh,
rực rỡ,
trong sáng sắc bén và
đáng sợ, được
trang hoàng bằng những dĩa ánh sáng, từ tim của
đức Phật Bất Không Thành Tựu và người
phối hợp chiếu thẳng đến và
xuyên qua tim con khiến cho mắt con không
chịu đựng nổi để nhìn nó. Con
đừng sợ nó. Nó là động tác phô diễn
tự nhiên của
tự tâm con, cho nên con hãy
an trú trong
trạng thái vượt khỏi
vô tác vô ưu trong đó không có đây kia, không có thương ghét.
Đồng thời cùng với ánh
sáng trí huệ có một thứ ánh sáng đỏ êm dịu của các Atula do sự
ganh ghét gây ra cũng sẽ chiếu sáng đến con. Con hãy
thiền định sao
cho không có khác biệt giữa thương và ghét. Nhưng nếu con thiếu
sáng suốt thì cách
đơn giản là con đừng hưởng vui thú trong ánh sáng đỏ êm dịu đó. ÷
“Vào lúc đó, dưới
ảnh hưởng của lòng
ganh ghét mãnh liệt, con sẽ
sợ hãi và trốn khỏi ánh sáng xanh lá cây chói lọi sắc bén, mà con sẽ
cảm thấy vui sướng bị thu hút về hướng ánh sáng đỏ êm dịu của các Atula. Ngay lúc đó, con
đừng sợ ánh sáng xanh lục
quang minh, sắc bén,
rực rỡ,
trong suốt, mà hãy
nhận ra nó chính là
trí huệ. Hãy để cho tâm con
an trú trong nó, được
buông xả, trong một
trạng thái vô tác và với lòng sùng mộ con hãy khẩn cầu với
ý nghĩ rằng, ‘Đó là
tia sáng lòng
đại bi của
đức Phật Bất Không Thành Tựu, con xin
quy y nương tựa vào ánh sáng đó.’ Nó là cái móc câu bằng
tia sáng lòng
đại bi của
đức Phật Bất Không Thành Tựu, được gọi là
Thành Sở Tác Trí, cho nên con hãy
mong ước nó và đừng lẩn tránh nó. Cho dù con muốn lẩn tránh thì nó vẫn ở – bất ly – với con. ÷
“Con
đừng sợ ánh sáng xanh lục đó, con đừng để cho ánh sáng đỏ êm dịu của các Atula thu hút con. Đó là
con đường dẫn dụ của nghiệp được
tích tụ bởi sự
ganh tỵ mãnh liệt của con. Nếu con bị ánh sáng đỏ êm dịu
lôi cuốn, con sẽ rơi vào cõi Atula và con sẽ kinh qua sự
bất hạnh đau khổ không thể
chịu đựng nổi do những cuộc
đánh nhau, những
mâu thuẫn. Đó là
chướng ngại cản trở con đường giải thoát, cho nên con đừng để nó
lôi cuốn con vào, con hãy
từ bỏ các
xu hướng thói quen không có
ý thức. Con hãy
cảm thấy đang
mong chờ ánh sáng xanh lá cây chói lọi
rực rỡ và với sự tập trung
nhất tâm cao độ hướng về
đức Phật Bất Không Thành Tựu và người
phối hợp, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây : ÷
Vì
ganh tỵ mãnh liệt con lang thang trong
sanh tử,
giờ đây nương vào
con đường ánh sáng
quang minh của
Thành Sở Tác Trí,
cầu xin đức Phật Bất Không Thành Tựu đi trước mặt con,
người
phối hợp của ngài là
Phật Mẫu Samaya-Tara đi sau lưng con ;
xin giúp con
vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến
trạng thái Phật đà toàn thiện.” ÷
Bằng cách đọc lời khẩn cầu linh cảm này với lòng sùng mộ sâu sắc, người chết sẽ tan nhập vào ánh sáng cầu vồng trong tim của
đức Phật Bất Không Thành Tựu và người
phối hợp, và
trở thành một
báo thân Phật trong cõi phương Bắc, cõi những Hành Động
Thành Tựu. ÷
Dù cho các
thiện nghiệp của ông ta có
yếu kém, nhưng với sự chỉ bày như thế này ở trong nhiều giai đoạn, nếu ông ta không
nhận ra trong thời điểm này thì sẽ cũng
nhận ra ở thời điểm khác, cho nên ông ta không thể nào mà không
được giải thoát. Nhưng cả khi được chỉ bày
giáo pháp này trong nhiều lần nhưng có những người mà họ đã quá quen với nhiều
xu hướng thói quen không có
ý thức trong
thời gian lâu dài và đã không bao giờ quen với những linh ảnh
thanh tịnh của
năm trí, thì họ sẽ bị những
xu hướng thói quen xấu ác của họ kéo họ lùi lại dù họ đã được chỉ cho thấy, khiến cho cái móc bằng
tia sáng lòng
đại bi không câu bắt họ được, họ trở nên hoảng hốt
sợ hãi các ánh sáng và các
tia sáng, họ lang thang xuống các cõi thấp. Nên, vào ngày thứ sáu, các vị Phật trong Năm Bộ với các vị
phối hợp, các thần
Bồ tát tùy tùng sẽ
xuất hiện cùng một lúc, và
đồng thời các ánh sáng của sáu cõi cũng sẽ
cùng lúc chiếu sáng. ÷
Để khai thị cho người chết, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời này : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe
cẩn thận. Không được phân tán.
Cho đến hôm qua, mặc dù con đã được chỉ bày mỗi khi ánh sáng của từng vị Phật trong năm bộ
xuất hiện, nhưng con đã
bối rối phân vân vì
ảnh hưởng của các
xu hướng thói quen xấu, nên hôm nay con còn ở lại đây. Nếu con đã
nhận ra được tánh chiếu sáng
tự nhiên của các
trí huệ của năm bộ Phật đó chính là phóng tưởng
của riêng con, thì con lẽ ra đã tan nhập được vào ánh sáng cầu vồng trong thân của một trong năm bộ Phật và đã
trở thành một
báo thân Phật, nhưng vì con đã không
nhận ra nên
cho đến giờ phút này con còn
tiếp tục đi lang thang. Cho nên, giờ đây con hãy nhìn
cẩn thận không được phân tán. ÷
“Giờ đây tất cả năm bộ Phật sẽ cùng
xuất hiện và cái gọi là bốn
trí huệ kết hợp sẽ đến
tiếp dẫn con, con hãy
nhận ra bốn
trí huệ đó. Này
thiện nam (
tín nữ), bốn thứ ánh sáng màu của bốn
yếu tố tinh khiết sẽ chiếu sáng ; cùng một lúc
đức Phật Tỳ
Lô Giá Na và người
phối hợp từ Cõi Trung Ương –
Cõi Giới Hiển Lộ Khắp Nơi (the Central Realm, All-pervading Circle) sẽ
xuất hiện ngay
trước mặt ;
đức Phật Kim Cương Tát Đỏa và vị
phối hợp và đoàn
tùy tùng từ cõi phương đông – Cõi Toàn Lạc (Complete Joy) sẽ
xuất hiện ;
đức Phật Bảo Sanh và vị
phối hợp cùng đoàn
tùy tùng từ cõi phương nam, Cõi
Vinh Quang (The Glorious) sẽ
xuất hiện ;
đức Phật A Di Đà với vị
phối hợp và đoàn
tùy tùng từ cõi
Cực Lạc Liên Hoa tây phương sẽ
xuất hiện ; và
đức Phật Bất Không Thành Tựu với vị
phối hợp và đoàn
tùy tùng từ cõi phương bắc, cõi Những Hành Động
Thành Tựu (Perfected Actions) sẽ
xuất hiện,
từ không gian của ánh sáng cầu vồng. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), ngoài các vị Phật đó của năm bộ còn có các vị thần xung nộ
canh giữ các cổng cũng sẽ
xuất hiện như : Vijaya, thần Chiến Thắng ; Yamantaka, kẻ Hủy Diệt Cái Chết ; Hayagriva thần Cổ Ngựa ; và Amrtakundali, thần Bình Đựng Rượu
Cam Lồ ; và các
nữ thần canh giữ cổng như : Ankusa,
nữ thần Cái Móc Câu ; Pasa,
nữ thần Cái
Thòng Lọng ; Srnkhala,
nữ thần Dây xích ; và Ghanta,
nữ thần Cái Chuông ;
Sáu vị Thánh
Thiêng liêng cũng sẽ
xuất hiện (the Blessed Ones) như : Indra vị Thánh một trăm hiến tế (Indra of the hundred sacrifices) tức là vị thánh của các vị trời ; Vemacitra, có tên là Vị
Áo Choàng Rực Rỡ (Splendid Robe) tức là vị thánh của các Atula ;
Sư Tử Vương Sakyas (Lion of the Sakyas), tức là vị thánh của
con người ; Dhruvasinha, có tên
Sư Tử Kiên Cường (Steadfastlion), tức là vị thánh của
súc sanh, Jvalamukha, vị có tên Miệng Rực Lửa (Flaming mouth), tức là vị thánh của các quỷ đói ; và Dharmaraja có tên
Pháp Vương (Dharma King) vị thánh của
chúng sanh địa ngục. Hai vị Phụ và Mẫu
Toàn Thiện (The All Good Father and Mother) của tất cả chư Phật là Samantabhadra và Samantabhadri cũng sẽ
xuất hiện. Bốn mươi hai thần ở dạng
báo thân sẽ nổi lên từ bên trong tim của chính con và
xuất hiện trước mặt con ; các vị là
hình tướng thanh tịnh của các phóng tưởng của con, cho nên con hãy
nhận ra các vị đó. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), các
cõi giới đó cũng không có mặt ở nơi nào khác, mà nằm trong bốn
phương hướng của tim con và hướng thứ năm là
trung tâm tim, và giờ đây các vị nổi lên từ bên trong tim con và
xuất hiện trước mặt con. Các
hình ảnh hiện thân của chư vị cũng không từ nơi nào khác đến, nhưng là trò phô diễn nguyên sơ tự phát của tâm con, cho nên con hãy
nhận ra các vị theo cách này. Này
thiện nam (
tín nữ), các
hình ảnh đó không lớn không nhỏ, mà cân đối
hoàn hảo. Mỗi vị có riêng các sắc phục
trang hoàng, màu, tư thế đứng, ngai,
biểu tượng. Các vị được bố trí rộng ra thành năm cặp, mỗi cặp đều được bao vòng quanh bằng
vầng hào quang của năm ánh sáng màu.
Toàn bộ mạn đà la – các thần
nam nữ của các bộ – sẽ
xuất hiện trọn bộ, tất cả
cùng lúc tức thời. Con hãy
nhận ra các vị đó, bởi vì họ là những yidam
thần bổn tôn của con. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), các tia-ánh sáng của bốn
trí huệ từ trong tim của chư Phật trong năm bộ và các vị
phối hợp, sẽ chiếu sáng từng tia một lên tim con, rất đẹp và rõ, giống như các chùm
tia sáng mặt trời chiếu tới. ÷
“Trước hết,
Pháp giới thể tánh trí, đó là một tấm vải đan bằng các tia ánh sáng trắng
quang minh,
rực rỡ đáng
kinh ngạc, từ tim của
đức Phật Tỳ
Lô Giá Na sẽ chiếu sáng lên tim con. Trong tấm vải dệt bằng các tia ánh sáng này, một cái dĩa trắng
lóng lánh sẽ
xuất hiện, rất
rực rỡ trong sáng, giống như một cái gương hướng mặt xuống, được
trang hoàng xung quanh bằng năm dĩa giống như vậy, và năm dĩa này đến lượt được trang trí cũng bằng những cái dĩa và những dĩa nhỏ hơn, cứ thế sao
cho không có chỗ nào là
trung tâm hay ngoại vi. ÷
“Từ tim của
đức Phật Kim Cương Tát Đỏa, trên tấm vải màu xanh da trời
quang minh của
Đại viên cảnh trí, sẽ
xuất hiện một cái dĩa xanh giống như một cái chén màu lam ngọc, hướng mặt xuống, được
trang hoàng bằng những cái dĩa và những cái dĩa nhỏ hơn. ÷
“Từ tim
đức Phật Bảo Sanh, trên tấm vải vàng của
Bình đẳng tánh trí quang minh, sẽ
xuất hiện một cái dĩa vàng giống như một cái chén vàng hướng mặt xuống, được
trang hoàng bằng những cái dĩa và những cái dĩa nhỏ hơn. ÷
“Từ trong tim
đức Phật A Di Đà, trên tấm vải đỏ
rực rỡ của
Diệu quan sát trí quang minh, sẽ
xuất hiện một cái dĩa đỏ
lóng lánh giống như một cái chén đỏ màu
san hô hướng mặt xuống, chiếu sáng bằng ánh
sáng trí huệ sâu sắc, rất
rực rỡ trong sáng, được
trang hoàng xung quanh bằng năm dĩa giống như vậy, rồi chính năm dĩa này được trang trí bằng những dĩa và những dĩa nhỏ hơn, sao
cho không có chỗ nào là
trung tâm hay ngoại vi. ÷
“Chúng sẽ chiếu sáng lên tim con. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), những thứ này cũng đã nổi lên từ trò phô diễn tự phát của
tự tâm con, chúng đã không đến từ nơi nào khác ; cho nên con đừng nên
ưa thích chúng, con
đừng sợ chúng, nhưng con ở yên thư giãn trong một
trạng thái thoát khỏi ý niệm. Trong
trạng thái đó tất cả các
hình ảnh xuất hiện và các tia-ánh sáng sẽ nhập làm một với con và con sẽ đạt tới
giác ngộ. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), ánh sáng xanh lục của
Thành sở tác trí không
xuất hiện bởi vì
năng lực trí huệ của con chưa đủ chín mùi. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), điều này được gọi là
kinh nghiệm của bốn
trí huệ được
kết hợp, đó là lối
dẫn đường của đức
Kim Cương Tát Đỏa. Vào lúc này, con hãy nhớ đến những gì mà vị thầy (guru) của con đã giảng trước đây về sự chỉ bày khai thị. Nếu con nhớ được
ý nghĩa của lời khai thị, con sẽ có
lòng tin vào những
kinh nghiệm trước đó của con và do đó, con sẽ
nhận ra chúng, giống như cuộc hội ngộ của mẹ và con, hay giống như gặp lại bạn cũ. Như thể đoạn dứt được
nghi ngờ, con sẽ
nhận ra các phóng tưởng riêng của con, và
đi vào con đường bất biến thanh tịnh của
pháp tánh ; và thông qua
lòng tin đó một
trạng thái thiền định tương tục sẽ khởi lên, và con sẽ tan nhập vào trong một dạng
đại trí huệ tự
hiện hữu, và con sẽ trở nên một
báo thân Phật, không bao giờ rơi
trở lại. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), cùng với các ánh
sáng trí huệ, còn có các ánh sáng của sáu cõi
bất tịnh giả ảo sẽ chiếu sáng : ánh sáng trắng êm dịu của các vị trời, ánh sáng đỏ êm dịu của các Atula, ánh sáng xanh da trời êm dịu của
cõi người, ánh sáng xanh lục êm dịu của các
súc sanh, ánh sáng vàng êm dịu của các quỷ đói và ánh sáng màu khói êm dịu của
chúng sanh địa ngục. Sáu ánh sáng êm dịu này sẽ cùng chiếu sáng với các ánh
sáng trí huệ
thanh tịnh. Vào lúc đó, con đừng nắm bắt hay bị
lôi cuốn bởi bất kỳ ánh sáng nào, con chỉ ở yên, thư giãn trong một
trạng thái không bị
ý niệm kiềm hãm. Nếu con
sợ hãi các ánh
sáng trí huệ
thanh tịnh và bị
lôi cuốn vào các ánh sáng
bất tịnh của sáu cõi, con sẽ nhận lấy thân của một
chúng sanh trong sáu cõi và con sẽ trở nên
kiệt quệ bởi vì không bao giờ có được một lối thoát ra khỏi
đại dương đau khổ của
sanh tử. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), nếu con không được thầy con khai thị chỉ bày, con sẽ
sợ hãi các
hình ảnh và các ánh
sáng trí huệ
thanh tịnh đó, và sẽ bị thu hút vào các ánh sáng
bất tịnh của cõi
sanh tử ; chớ làm thế, con hãy
cảm thấy hết lòng sùng mộ các ánh
sáng trí huệ
thanh tịnh, sắc bén
rực rỡ. Với lòng sùng mộ, con hãy nghĩ rằng, ‘Các tia-ánh
sáng trí huệ và
đại bi của chư vị
Thiêng Liêng tức là chư Phật trong năm bộ vì lòng
đại bi đã đến nắm giữ con ; con
quy y vào các ngài.’ Con đừng
ham thích các ánh sáng của sáu cõi giả ảo, con đừng
thương tiếc các ánh sáng đó, nhưng với sự tập trung
nhất tâm cao độ vào chư Phật trong năm bộ và các vị
phối hợp, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây : ÷
Khi vướng vào năm độc con lang thang trong
sanh tử,
nay nương vào
con đường ánh sáng
quang minh của bốn
trí huệ kết hợp,
cầu xin các đấng
Điều Ngự, Năm Bộ,
đi trước mặt con,
chư vị của Năm Bộ đi sau lưng con ;
hãy cứu con
thoát khỏi các lối đi ánh sáng của sáu cõi
bất tịnh,
xin giúp con
vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con đến năm
cõi Phật tịnh độ.” ÷
Bằng cách đọc lời khẩn cầu linh cảm này, người
thượng căn nhận ra các phóng tưởng riêng của ông ta và khi hòa nhập với tánh
bất nhị ông ta
trở thành một vị Phật ; người
trung căn nhận ra chính mình thông qua lòng thiết tha sùng mộ và ông ta đạt tới
giải thoát ; ngay cả người
hạ căn cũng
tránh khỏi sự
tái sanh vào sáu cõi nhờ ở
năng lực tịnh hóa của lời khẩn cầu đó, và cùng với sự
hiểu biết ý nghĩa của bốn
trí huệ kết hợp, ông ta đạt tới
giác ngộ bằng lối đi của Phật
Kim Cương Tát Đỏa. Với sự khai thị
rõ ràng chính xác theo cách này, rất nhiều
chúng sanh hữu tình sẽ
nhận ra và
được giải thoát. ÷
Nhưng cũng có một số người, như những người
hạ căn ở những nơi man rợ và những người
độc ác họ không hề có
kinh nghiệm về
Phật Pháp và những người đã để sự
hành trì samaya bị
thoái hóa, giờ đây, tất cả những người đó đã bị nghiệp làm cho họ
mê lầm, không
nhận ra khi được chỉ bày và lang thang
đi xuống. Cho nên vào ngày thứ bảy, các vị Nắm Giữ
Trí Huệ Sâu Sắc sẽ từ Cõi
Hư Không Thanh Tịnh đến
tiếp dẫn họ, và
cùng lúc đó, họ cũng sẽ gặp
con đường ánh sáng của
súc sanh do
cảm xúc vô minh sản sinh ra. Vào lúc đó, để khai thị người chết lần nữa, người nên gọi tên ông ta và nói những lời này : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe
cẩn thận không được
xao lãng. Vào ngày thứ bảy một thứ ánh sáng nhiều màu,
thanh tịnh sẽ chiếu sáng vào trong
tâm không có
ý thức (uncon-sciousmind) của con, và các vị Vidyadharas[12]* Nắm Giữ
Trí Huệ Sâu Sắc (
Trì Minh) từ Cõi
Hư Không Thanh Tịnh sẽ đến
tiếp dẫn con. Ở
trung tâm một mạn đa là chứa đầy ánh sáng cầu vồng một vị có tên là Vidyadhara
Vô Song Toàn Phát tức là chúa tể
Hoa Sen của Vũ Điệu sẽ
xuất hiện, thân ngài sáng
rực rỡ năm màu, ngài đang ôm người
phối hợp là Dakini Đỏ, ngài đang khiêu vũ tay cầm một cái dao cong và một sọ người chứa đầy máu, mặt và tư thế đang nhìn bầu trời. ÷
“Từ phía
đông mạn đà la một vị có tên là Vidyadhara
Thiết lập trong
Thập Địa[13]** sẽ
xuất hiện, màu trắng với một gương mặt tươi cười
rạng rỡ, đang ôm người
phối hợp là Dakini Trắng, ngài đang khiêu vũ tay cầm một cái dao cong và một sọ người đầy máu, mắt và tư thế đang nhìn chăm chăm vào bầu trời. ÷
“Từ phía nam
mạn đà la một vị có tên là Vidyadhara Chúa Tể Cuộc Sống sẽ
xuất hiện, màu vàng, với
hình tướng đẹp, đang ôm vị
phối hợp là Dakini Vàng, ngài đang khiêu vũ tay cầm cái dao cong và một sọ người đầy máu, tư thế và mắt đang nhìn chăm chăm vào bầu trời. ÷
“Từ phía tây
mạn đà la một vị có tên là Vidyadhara Đại Ấn (The great symbol) sẽ
xuất hiện, màu đỏ, với gương mặt cười
rạng rỡ, đang ôm người
phối hợp là Dakini Đỏ, ngài đang khiêu vũ tay cầm cái dao cong và một cái sọ người đầy máu, tư thế và mắt đang nhìn chăm chăm vào bầu trời. ÷
“Từ phía bắc
mạn đà la một vị có tên là Vidyadhara Khởi Lộ
Tự Nhiên sẽ
xuất hiện, có màu xanh lục, ngài
biểu lộ cùng lúc hai nét mặt
giận dữ và
mỉm cười, ngài đang ôm người
phối hợp là Dakini Xanh, đang khiêu vũ tay cầm cái dao cong và một sọ người đầy máu, tư thế và mắt đang nhìn chăm chăm vào bầu trời. ÷
“Ngoài các vị Vidyadharas đó ra sẽ còn
xuất hiện vô số các đám dakinis : dakinis của tám nghĩa địa, dakinis của bốn bộ, dakinis của
tam giới, dakinis của
mười phương, dakinis của hai mươi bốn nơi
hành hương, các
nam nữ anh hùng chiến thắng và
tùy tùng, và tất cả
nam nữ hộ pháp mang sáu trang sức làm bằng xương với trống, kèn làm bằng xương đùi, trống bằng sọ người, các tấm phướn làm bằng da của thanh niên, trướng làm bằng da người, các đan-ten làm bằng da người, hương nhang làm bằng thịt người,
vô số các nhạc cụ khác nhau, tràn ngập khắp miền
vũ trụ, họ múa
quay cuồng làm cho các nhạc cụ
rung động thành nhạc như cơ hồ làm bể đầu, họ khiêu vũ theo kiểu khác nhau, tất cả chư vị sẽ đến
tiếp dẫn những ai đã
giữ gìn sự
hành trì samaya và họ sẽ
trừng phạt những ai đã để sự
hành trì đó biến mất. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), trong cõi không có
ý thức,
trí huệ uyên
nguyên thanh tịnh chiếu sáng bằng ánh sáng
ngũ sắc giống như những sợi chỉ màu xoắn lại nhau, phát sáng chói chang, lung linh,
trong trẻo,
quang minh sắc bén, kinh rợn,
trí huệ đó từ tim của năm vị chúa tể Vidyadharas sẽ chiếu tới và
xuyên qua tim con khiến mắt con không chịu nổi nó.
Đồng thời, ánh sáng xanh lục êm dịu của
súc sanh cũng sẽ chiếu cùng với ánh
sáng trí huệ. Ngay lúc đó, dưới
ảnh hưởng của tâm
mê lầm do những
xu hướng không có
ý thức gây nên, con sẽ
sợ hãi và né tránh ánh sáng
ngũ sắc và con sẽ
ưa thích ánh sáng êm dịu của
súc sanh. Lúc này, con
đừng sợ ánh sáng
ngũ sắc sắc bén
rực rỡ ; con
đừng sợ nó, mà hãy
nhận ra nó chính là
trí huệ. ÷
“Từ trong ánh sáng
toàn bộ âm thanh tự phát của
pháp như tiếng rền vang của ngàn
tiếng sấm vỡ. Ánh sáng làm quay vòng, làm rền vang
tiếng sấm và
vang dội lại với những tiếng hô xông trận, và
âm thanh xuyên thấu rất lớn của các
mật chú xung nộ. Con
đừng sợ nó, con đừøng lẩn tránh, con đừng
kinh hãi. Con hãy
nhận ra nó là trò phô diễn của tâm con, phóng tưởng
của riêng con. Con đừng
ưa thích ánh sáng xanh lục êm dịu của
súc sanh, con đừng
thương tiếc nó ; nếu con bị nó thu hút, con sẽ rơi vào cõi
si mê của
súc sanh và con sẽ kinh qua sự
chịu đựng khổ đau cùng cực vì
ngu xuẩn, câm miệng không nói ; làm
nô lệ, và từ cõi đó không có lối nào để thoát ra ; cho nên con đừng
ưa thích nó. Con hãy
cảm thấy đang
mong đợi ánh sáng
quang minh trong trẻo, có năm màu, và con hãy tập trung
nhất tâm vào chư vị Vidyadharas
thiêng liêng, tức là các vị thầy
thiêng liêng, với
ý nghĩ rằng, ‘Chư vị Vidyadharas này cùng với các vị
điều ngự, các dakinis đã đến để
tiếp dẫn con vào Cõi
Hư Không Thanh Tịnh (the Pure Realm of Space).
Cầu xin tất cả chư vị
nghĩ tưởng đến các
chúng sanh hữu tình như con, những
chúng sanh đã không
tích tụ phước đức và đã không được
tiếp dẫn của
vô số các
Bồ tát thần của Năm bộ Phật trong
quá khứ hiện tại và
vị lai đã ra tay
cứu độ. Xin hãy
thương xót cho kẻ như con ! Giờ đây, con
cầu xin tất cả chư vị Vidyadharas hãy đừng để con rơi xuống thấp hơn nữa, hãy câu giữ con lại bằng cái móc câu của lòng
đại bi và kéo con lên Cõi
Hư Không Thanh Tịnh.’ ÷
“Với sự tập trung
nhất tâm cao độ, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm này : ÷
Nguyện cầu chư vị Vidyadharas
thiêng liêng hãy nghĩ đến con
và với lòng
đại từ hãy dẫn dắt con đi trên đường đạo.
Khi vướng vào các
xu hướng mãnh liệt con phải lang thang trong cõi
sanh tử,
nay nương vào
con đường ánh sáng
rực rỡ của
trí huệ uyên nguyên,
nguyện cầu chư vị Vidyadharas và các vị
điều ngự đi trước mặt con,
các vị
phối hợp, các Dakinis đi sau lưng con ;
giúp con
vượt qua nẻo đường bardo nguy hiểm
và mang con tới Cõi
Hư Không Thanh Tịnh.” ÷
Bằng cách đọc lời khẩn cầu linh cảm này với lòng
sùng bái sâu sắc, người chết sẽ tan nhập vào ánh sáng cầu vồng trong tim của các vị Vidyadharas
thiêng liêng và được sanh ra trong Cõi
Hư Không Thanh Tịnh,
chắc chắn không thể
nghi ngờ được. Và cũng vậy, tất cả
các loại bạn hữu
tu tập nhờ kết quả việc này mà
nhận ra được và tất cả đều
được giải thoát, ngay cả những người dù có những
xu hướng mê muội xấu ác,
chắc chắn cũng sẽ
được giải thoát ở đây. ÷
Đến đây
chấm dứt phần đầu của tập luận “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” : sự khai thị chỉ bày
linh quang trong suốt giai đoạn bardo ở thời điểm
đối diện cái chết và sự chỉ bày
trong suốt giai đoạn
bardo bình yên của
Pháp tánh. ÷
iti ÷ samaya ÷ rgya rgya rgya ÷
Giờ đây là phần giảng về cách thức mà bardo của các thần xung nộ
xuất hiện. ÷
Từ trước tới lúc này đã có bảy giai đoạn trong nẻo đường nguy hiểm của thời bardo của các thần bình yên, và nhờ vào sự chỉ bày ở từng mỗi giai đoạn, nên dù ông ta đã không
nhận ra ở giai đoạn này thì sẽ
nhận ra ở giai đoạn khác và có
vô số cơ hội đạt tới
giải thoát xảy ra. Mặc dù nhiều người
được giải thoát như vậy, nhưng
chúng sanh hữu tình nhiều
vô số kể,
nghiệp bất thiện rất mạnh, tấm màn
vô minh điên đảo rất dày và
nặng trĩu. Các
xu hướng mê muội kéo dài rất lâu và cái vòng
luân hồi vô minh và
mê lầm này không bị xé rách cũng không tăng thêm, cho nên có rất nhiều
chúng sanh không
được giải thoát mà phải lang thang xuống dưới nữa dù họ đã được chỉ bày theo lối này một cách
chính xác. ÷
Sau khi đã gặp các thần bình yên, chư vị Vidyadharas và dakinis, đến lượt chư vị này lại
biến thành ra năm mươi tám thần xung nộ, uống máu, rực lửa
xuất hiện. Giờ đây họ không giống như trước đó ; đây là bardo của các thần xung nộ nên người chết sẽ bị
áp đảo bởi nỗi
sợ hãi cao độ và trở nên rất khó
nhận ra.
Tâm không còn
tự chủ và
cảm thấy kiệt quệ ngất xỉu nhưng nếu còn có một ít sự
nhận biết thì
sự giải thoát sẽ dễ dàng, bởi vì quá đỗi
sợ hãi nên
tâm không có
thời gian để
xao lãng và vô tình, nên tâm tập trung
nhất tâm. ÷
Nếu giờ đây, người chết không được sự
chỉ dẫn của pháp này thì dù có vốn
hiểu biết bằng
đại dương cũng
vô ích. Vào thời điểm này ngay cả những vị thầy
tuân thủ giới luật tu viện và các
đại học giả cũng đều
mê lầm và sẽ không
nhận ra nên họ sẽ
tiếp tục lang thang trong cõi
sanh tử. Những người tầm thường lại càng
trầm trọng hơn ; khi lẩn tránh vì sự
sợ hãi cao độ này, họ sẽ rơi xuống những cõi thấp hơn và chịu những nỗi khổ đau. Trong khi đó một
hành giả tu tập Kim Cương thừa, dù là người
tu tập yếu kém nhất trong số người
yếu kém thì cũng sẽ
nhận ra các thần uống máu đó chính là thần mệnh yidam ngay khi họ thấy, cũng giống như họ gặp lại bạn cũ, nên họ tin vào các thần đó và khi nhập vào – bất ly – với các thần, họ sẽ
trở thành một vị Phật.
Bí quyết là, khi còn ở
cõi người, vị
hành giả Kim Cương thừa đã
quán tưởng các
hình tướng của các thần uống máu này, họ đã
thờ cúng các thần đó, và cho dù họ chỉ có nhìn qua các
hình ảnh được vẽ trong tranh hay tượng thờ,
vân vân, nhưng họ sẽ
nhận ra các
hình tướng xuất hiện lúc này đây và họ đạt tới
giải thoát. ÷
Mặc dù các
học giả các vị thầy, khi còn sống, đã có rất nhiều
nỗ lực trong việc
tuân theo giới luật khi
hành trì pháp, và họ rất
thông hiểu trong việc
giảng giải kinh luận, nhưng khi họ chết cũng không có những dấu hiệu nào như là ngọc
xá lợi,[14]* ánh sáng cầu vồng,
vân vân. Khi còn sống, họ chê bai các tantras, họ không
để tâm đến các tantras, họ không biết tới các thần của tantra, do đó họ không thể
nhận ra các thần khi thấy
xuất hiện trong bardo. Nên khi bất
thình lình thấy các linh ảnh mà trước đây họ không bao giờ thấy, họ cho đó là
kẻ thù và họ
cảm thấy thù hận với các chư vị, và do đó họ
đi xuống các cõi thấp hơn. Đó là
lý do tại sao mặc dù các
học giả các người
tu hành tuân thủ giới luật đã là những người tốt nhưng họ không
tu tập tantra nên các dấu hiệu như ngọc
xá lợi, ánh sáng cầu vồng không thấy
xuất hiện ở họ. ÷
Còn
đệ tử của
Kim Cương thừa (tantra) dù cho ông ta là người kém nhất, dù ông ta
thô bạo lỗ mãng,
vô học khi còn sống, thậm chí ông ta đã không có khả năng
tu tập tantra nhưng chỉ cần ông ta có
lòng tin đối với các tantra, ông ta không hề
nghi ngờ hay
bất tín tí nào, thì ông ta sẽ đạt
giải thoát ở chỗ này ; nên mặc dù ông ta đã
cư xử hành động không theo
truyền thống đời thường nhưng khi ông ta chết
ít nhất cũng có một dấu hiệu như ngọc
xá lợi hay ánh sáng cầu vồng
xuất hiện. Đó là bởi vì
giáo pháp Kim Cương thừa này có oai lực rất lớn lao. ÷
Các vị du-già
Kim Cương thừa có
trình độ tâm linh trên trung bình, những người đó đã
thực hành quán tưởng và
thực hành hoàn tất và đã trì tụng các
tâm chú,
vân vân, sẽ không lang thang xuống
xa hơn trong bardo
pháp tánh, nhưng ngay khi họ ngưng thở, chư vị Vidyadharas, các vị
điều ngự và các dakinis sẽ
tiếp dẫn họ đến Cõi
Hư Không Thanh Tịnh. Những dấu hiệu cho
quả vị này sẽ
xuất hiện như là bầu trời
trong sáng, họ sẽ tan nhập vào ánh sáng cầu vồng, như là mưa hoa, mùi hương thơm,
âm thanh các nhạc cụ
nghe được trong không trung, các tia ánh sáng, ngọc
xá lợi,
vân vân. ÷
Cho nên những người như các
triết gia, những người
giữ giới luật, những
đệ tử theo
Kim Cương thừa nhưng để cho việc
thực hành samaya bị
biến chất và tất cả những người
bình thường, sẽ không còn
phương tiện nào khác ngoài
bộ giáo huấn : “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này. Các thiền giả đã
tu tập phép Đại Ấn và
Đại Toàn Thiện[15]* và
vân vân, sẽ
nhận ra linh quang trong giai đoạn bardo ở thời điểm
đối diện cái chết và họ đạt tới
pháp thân (dharmakaya) nên đối với họ, không
cần phải đọc bộ : “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này. ÷
Nếu họ
nhận ra linh quang trong suốt giai đoạn bardo ở thời điểm
đối diện cái chết, họ sẽ đạt tới
pháp thân. Nếu họ
nhận ra trong suốt giai đoạn bardo của
pháp tánh khi các thần bình yên và xung nộ
xuất hiện họ sẽ đạt tới
báo thân (sambho-gakaya). Nếu họ
nhận ra trong suốt giai đoạn bardo
thác sanh (the bardo of becoming) họ sẽ đạt tới
hóa thân (nirmanakaya) và được sanh ra trong một
hoàn cảnh tốt hơn ở đó họ sẽ
kinh nghiệm được
giáo pháp này ; và vì quả của hạnh nghiệp sẽ
tiếp tục ở đời
tái sanh nên đó là
lý do tại sao
giáo pháp “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này là một pháp
đưa tới giác ngộ mà không
thiền định, một pháp giúp
giải thoát chỉ nhờ vào sự nghe một pháp bằng
phương tiện thiện xảo tiếp dẫn người
phạm tội lỗi lớn có thể
đi vào con đường mật truyền, một
pháp chỉ trong khoảnh khắc
chấm dứt vô minh, một pháp
vi diệu đưa đến sự
giác ngộ tức thời và toàn triệt, khiến cho
chúng sanh hữu tình khi tiếp cận
giáo pháp này rồi thì không thể nào sa đọa xuống cõi thấp hơn. Cả hai pháp : “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” và “Giải Thoát Bằng Cách Đeo và Mặc (vào
tử thi)”[16]* cần được đọc lớn tiếng vì hai pháp này
kết hợp với nhau như một
mạn đà la bằng vàng được khảm bằng màu ngọc lam. ÷
Giờ đây sau khi được giảng cho nghe “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” là
hết sức cần thiết, người hãy chỉ bày cách thức mà bardo của các thần xung nộ
xuất hiện. Người hãy gọi tên người chết ba lần rồi hãy nói những lời này : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), con hãy lắng nghe không được
xao lãng.
Mặc dầu bardo của các thần bình yên đã
xuất hiện nhưng con không
nhận ra, nên con
tiếp tục lang thang tới đây. Bây giờ vào ngày thứ tám các thần xung nộ uống máu sẽ
xuất hiện. Con hãy
nhận ra các vị đó, không được phân tán. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), một vị có tên là Heruka Phật Vĩ Đại
Vinh Quang (Glorious Great Buddha-Heruka)[17]** sẽ nổi lên từ trong đầu con và
xuất hiện trước mặt con rất rõ nét và rất thực : thân ngài màu rượu nho với ba đầu sáu tay và bốn chân soải vươn ra, gương mặt bên phải màu trắng, gương mặt bên trái màu đỏ và gương mặt ở giữa màu rượu nho ; thân ngài sáng rực như một khối ánh sáng, chín con mắt ngài nhìn chằm chặp vào con với một khí thế xung nộ, chân mày giống như một tia chớp sáng, răng ngài lóe sáng ánh màu đồng, ngài cười lớn với tiếng “a-la-la” và “ha-ha” và phát ra những tiếng huýt sáo lớn như “shoo-oo !” Tóc màu vàng đỏ bay dốc ngược lên và sáng rực, những sọ người khô,
mặt trăng và
mặt trời kết thành vương miện bao quanh đầu ngài, thân ngài được
trang hoàng bằng những con rắn màu đen với các đầu lâu còn tươi, ba tay bên phải tay thứ nhất cầm một bánh xe, tay giữa cầm một cái rìu, tay cuối cầm một cái gươm ; ba tay bên trái tay đầu cầm cái chuông, tay giữa cầm cái lưỡi cày tay cuối cầm cái tách bằng sọ người ; người
phối hợp của ngài là Krodhisvari Phật ôm thân ngài, tay phải của bà choàng qua cổ ngài, tay trái của bà cầm một sọ người đầy máu
đưa tới miệng ngài ; từ trong cổ họng ngài phát ra những
âm thanh ầm ầm như
tiếng sấm, những ngọn lửa
trí huệ bắn ra từ các sợi lông
kim cương đang sáng rực trên
toàn thân ngài ; ngài đứng trên cái ngai do các con chim thần garudas (kim xí điểu) đang khiêng ; ngài đứng ở tư thế một cặp chân cong lại và một cặp chân kia duỗi vươn ra. ÷
“Con
đừng sợ ngài, đừng
kinh hãi, đừng hoảng hốt. Con hãy
nhận ra ngài chính là
hình tướng của
tự tâm con. Ngài là vị yidam (bổn tôn) của con, cho nên con
đừng sợ hãi. Ngài thật sự là
Phật Tỳ Lô Giá Na cùng với người
phối hợp, cho nên con
đừng sợ. Nếu con
nhận ra con sẽ
được giải thoát ngay tức khắc.” ÷
Khi được nghe như vậy người chết sẽ
nhận ra yidam (
thần bổn tôn) và khi nhập làm một – bất ly – với yidam thì người chết sẽ
trở thành một
báo thân Phật. ÷
Nhưng nếu ông ta vẫn
sợ hãi yidam và lẩn tránh, như vậy ông ta không
nhận ra, và rồi, ngày thứ chín, sự
biểu lộ của bộ
Kim Cương với
hình tướng đang uống máu sẽ đến
tiếp dẫn người chết, nên người hãy chỉ bày cho ông ta lần nữa, gọi tên ông ta và đọc những lời này : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe
cẩn thận không được
xao lãng. Vào ngày thứ chín, ảnh
hiển lộ của bộ
Kim Cương gọi là Heruka
Kim Cương với
hình tướng đang uống máu, sẽ nổi lên từ phía đông của đầu con và sẽ
xuất hiện trước mặt con : thân ngài màu xanh da trời đậm, ngài có ba đầu sáu tay và bốn chân dang rộng ra, gương mặt bên phải màu trắng, gương mặt bên trái màu đỏ, gương mặt ở giữa màu xanh da trời ; với sáu tay, tay thứ nhất bên phải cầm một
kim cương sử, tay giữa cầm một cái tách bằng sọ người, tay cuối cầm một cái rìu, tay thứ nhất bên trái cầm một cái chuông, tay giữa cầm một cái tách bằng sọ người, tay cuối cầm một lưỡi cày ; người
phối hợp là Kim Cương-Krodhisvari ôm thân ngài, tay phải của bà quàng qua cổ ngài, tay trái của bà đang cầm một cái sọ người đầy máu
đưa tới miệng ngài. ÷
“Con
đừng sợ ngài, đừng
kinh hãi, đừng hoảng hốt. Hãy
nhận ra ngài chính là
hình tướng của
tự tâm con. Ngài là vị yidam của con, cho nên con
đừng sợ. Ngài thực sự là
đức Phật Kim Cương Tát Đỏa cùng với người
phối hợp, cho nên con hãy
chí thành sùng mộ. Nếu con
nhận ra thì
lập tức được giải thoát.” ÷
Khi được nghe như vậy ông ta sẽ
nhận ra yidam và khi nhập làm một – bất ly – với yidam, ông ta sẽ
trở thành một
báo thân Phật. ÷
Nhưng với những người mà
nghiệp ác xấu quá lớn sẽ
sợ hãi và lẩn tránh yidam, và họ sẽ không
nhận ra, rồi thì vào ngày thứ mười, ảnh
hiển lộ của bộ
Bảo Sanh với
hình tướng đang uống máu, sẽ
xuất hiện để
tiếp dẫn họ. Cho nên để chỉ bày cho người chết lần nữa, người nên gọi tên người chết và đọc những lời này : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe không được
xao lãng. Vào ngày thứ mười, ảnh
hiển lộ của bộ
Bảo Sanh tên là Heruka
Bảo Sanh với
hình tướng đang uống máu sẽ từ phần phía nam của đầu con
xuất hiện trước mặt con : thân ngài màu vàng đậm với ba đầu sáu tay và bốn chân dang rộng ra, gương mặt bên phải màu trắng, gương mặt bên trái màu đỏ, gương mặt ở giữa sáng rực màu vàng đậm ; với sáu tay, tay thứ nhất bên phải cầm một viên ngọc, tay giữa cầm cái đinh ba có ba đầu người ở trên, tay cuối cầm một cái chùy, ba tay bên trái tay thứ nhất cầm cái chuông, tay giữa cầm một tách bằng sọ người, tay cuối cầm đinh ba ; người
phối hợp là Ratna-Krodhisvari đang ôm thân ngài, tay phải của bà choàng qua cổ ngài, tay trái của bà cầm một cái sọ người đầy máu đưa đến miệng ngài. ÷
“Con
đừng sợ ngài, đừng
kinh hãi, đừng hoảng hốt. Hãy
nhận ra ngài chính là
hình tướng của
tự tâm con. Ngài là yidam của con, cho nên con
đừng sợ hãi. Ngài thực sự là
đức Phật Bảo Sanh cùng với người
phối hợp, cho nên con hãy
cảm thấy như đang
mong đợi ngài. Nếu con
nhận ra con sẽ tức thì
được giải thoát.” ÷
Khi được nghe như vậy, ông ta sẽ
nhận ra yidam và khi nhập làm một – bất ly – với yidam, ông ta sẽ
trở thành một vị Phật. ÷
Nhưng nếu ngay cả khi được chỉ bày như vậy nhưng ông ta bị các
xu hướng ác độc,
mê muội kéo ông ta lùi lại phía sau và ông ta
sợ hãi, lẩn tránh nên không
nhận ra yidam, thậm chí khi ông ta thấy Yamantaka, ông ta cũng không
nhận ra, nên vào ngày thứ mười một, ảnh
hiển lộ của bộ
Hoa Sen với
hình tướng đang uống máu sẽ đến để
tiếp dẫn ông ta. Cho nên để chỉ bày cho ông ta lần nữa, người nên gọi tên người chết và đọc những lời sau : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe
cẩn thận, đừng
xao lãng. Vào ngày thứ mười một, ảnh
hiển lộ của bộ
Hoa Sen, được gọi là Heruka-Hoa Sen
Thiêng Liêng, với
hình tướng đang uống máu, từ phần phía tây của đầu con sẽ nổi lên và
xuất hiện trước mạët con rất rõ nét trong dạng
liên kết với người
phối hợp của ngài. Thân ngài màu đỏ đậm với ba đầu sáu tay và bốn chân dang rộng ra ; gương mặt bên phải màu trắng, gương mặt bên trái màu xanh da trời và gương mặt giữa màu đỏ đậm ; với sáu tay, tay thứ nhất bên phải cầm một
hoa sen, tay giữa cầm một đinh ba có ba đầu người ở trên, tay cuối cầm một cây gậy. Tay thứ nhất bên trái cầm một cái chuông, tay giữa cầm một tách bằng sọ người đang chứa đầy máu, tay cuối cầm một cái trống ; người
phối hợp là Padma-Krodhisvari ôm thân ngài, tay phải của bà choàng qua cổ ngài, tay trái bà đang cầm một sọ người đầy máu
đưa tới miệng ngài. ÷
“Con
đừng sợ ngài, đừng
kinh hãi, đừng hoảng hốt. Con hãy
vui sướng, hãy
nhận ra ngài chính là
hình tướng của
tự tâm con. Ngài là yidam của con, cho nên con
đừng sợ, đừng
kinh hãi. Ngài thực sự là
đức Phật A Di Đà Thiêng Liêng cùng người
phối hợp, cho nên con hãy
cảm thấy mong đợi ngài. Nếu con
nhận ra thì
ngay lập tức con sẽ
được giải thoát.” ÷
Khi được nghe như vậy ông ta sẽ
nhận ra hình tướng đó là yidam và khi được nhập làm một – bất ly – với yidam, ông ta sẽ
trở thành một vị Phật.