Đại Giải Thoát
Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo
CHÁNH VĂN
(Tiếp theo)
Nhưng nếu ngay cả khi được chỉ bày như thế mà vẫn bị các
xu hướng ác độc mê muội kéo ông ta lùi lại sau và ông ta
sợ hãi lẩn tránh cho nên ông ta không
nhận ra yidam, rồi thì, vào ngày thứ mười hai, ảnh
hiển lộ của bộ Nghiệp với
hình tướng đang uống máu sẽ đến cùng với các vị thiên gauris,[18]* vị thiên pisacis có đầu
súc vật, các
thiên nữ hành giả yoginis đến
tiếp dẫn người chết. Nếu người chết không
nhận ra, ông ta sẽ
sợ hãi, cho nên để chỉ bày cho ông ta lần nữa, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời sau : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe
cẩn thận, không được
xao lãng. Khi ngày thứ mười hai đến, ảnh
hiển lộ của bộ Nghiệp được gọi là Heruka-Nghiệp
Thiêng Liêng với
hình tướng đang uống máu từ phần phía bắc của đầu con và nổi lên
trước mặt con rất rõ nét trong dạng
liên kết với người
phối hợp ; thân ngài màu xanh lá cây đậm với ba đầu sáu tay và bốn chân dang rộâng ; gương mặt bên phải màu trắng, gương mặt bên trái màu đỏ, gương mặt ở giữa màu xanh lá cây đậm
huyền diệu, ba tay bên phải tay thứ nhất cầm kiếm, tay giữa cầm đinh ba có ba đầu người ở trên, tay cuối cầm cây gậy, ba tay bên trái tay thứ nhất cầm chuông, tay giữa cầm tách sọ người tay cuối cầm lưỡi cày ; người
phối hợp là Karma-Krodhisvari ôm thân ngài, tay phải của bà choàng qua cổ, tay trái của bà cầm một sọ người đầy máu
đưa tới miệng ngài. ÷
“Con
đừng sợ ngài, đừng
kinh hãi, đừng hoảng hốt. Hãy
nhận ra ngài chính là
hình tướng của
tự tâm con. Ngài là yidam của con, nên con
đừng sợ. Ngài thực sự là
đức Phật Bất Không Thành Tựu cùng với người
phối hợp, nên con hãy
cảm thấy thiết tha sùng mộ. Nếu con
nhận ra thì
ngay lập tức con
được giải thoát.” ÷
Khi được nghe như vậy ông ta sẽ
nhận ra yidam và khi được nhập làm một – bất ly – với yidam, ông ta sẽ
trở thành một vị Phật. ÷
Thông qua sự khai thị hướng dẫn của vị thầy (guru), ông ta sẽ
nhận ra các ảnh
hiển lộ chính là các phóng tưởng của tự mình, trò chơi phô diễn của tâm, và ông ta sẽ
được giải thoát. Cũng giống như trông thấy một con
sư tử nhồi bông chẳng hạn : ông ta sẽ rất sợ
nếu không biết nó đích thực là
sư tử nhồi bông, nhưng nếu có người chỉ
cho biết nó là cái gì thì ông ta sẽ
ngạc nhiên và không còn sợ nữa. Ở đây cũng vậy, ông ta sẽ
kinh hãi hoảng hốt khi các vị yidam uống máu
xuất hiện với
thân hình khổng lồ, chân tay chiếm đầy cả
không gian, nhưng ngay khi ông ta được hướng dẫn
cho biết, ông ta sẽ
nhận ra các vị đó chính là phóng tưởng của chính ông ta hay là các yidam ; lúc đó
linh quang mà ông ta đã
thiền định về nó trước đây và
linh quang tự hiện hữu đã lộ ra
sau khi chết, hai thứ
linh quang mẹ và con đó sẽ nhập làm một và cũng giống như gặp lại một người mà mình đã từng
quen biết rất rõ, lúc này đây
linh quang vốn tự-giải thoát của
tự tâm ông ta
tự nhiên hiển lộ ra
trước mặt ông ta và ông ta tự
giải thoát. ÷
Nhưng nếu ông ta không được hướng dẫn pháp này thì dù là người tốt ông ta cũng rời khỏi nơi này và
tiếp tục lang thang trong
sanh tử. Lúc đó, tám
thiên nữ gauris và pisacis xung nộ với nhiều đầu sẽ từ trong đầu ông ta nổi lên và
xuất hiện trước ông ta, nên để chỉ bày cho ông ta lần nữa, người hãy gọi tên người chết và đọc những lời sau đây : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe
cẩn thận không được
xao lãng. Tám vị
thiên nữ áo trắng gauris sẽ từ bên trong đầu của con nổi lên và
xuất hiện trước mặt con. Con
đừng sợ các vị đó. ÷
“Từ góc phía đông của đầu con một gauri trắng sẽ
xuất hiện trước mặt con, tay phải cầm một thi thể có hình cây côn, tay trái cầm cái tách hình sọ người chứa đầy máu. Con
đừng sợ. Từ góc phía nam, một gauri màu vàng cầm cung bắn ra một mũi tên ; từ phía
tây thiên nữ Pramoha màu đỏ cầm một
biểu ngữ bằng con quái vật ở biển ; từ phía bắc
thiên nữ Vetali cầm một
kim cương sử và một tách bằng sọ người đầy máu ; từ phía đông
nam thiên nữ Pukkasi màu cam tay phải cầm nắm ruột, tay trái đưa nắm ruột đó vào miệng ăn ; từ phía tây
nam thiên nữ Ghasmari màu xanh lá cây đậm tay trái cầm tách sọ người đầy máu tay phải dùng cái
kim cương sử khuấy cái tách đựng máu ; từ phía tây bắc
thiên nữ Candali màu vàng úa đang xé tách đầu và thân người tay phải cầm quả tim tay trái đưa thân người vào miệng ; từ phía đông bắc
thiên nữ Smasani màu xanh đậm cũng đang xé tách đầu ra khỏi thân người và ăn ; tám
thiên nữ gauris ở tám hướng đang vây
quanh năm vị Herukas uống máu sẽ từ trong đầu con nổi lên
xuất hiện trước mặt con. Con
đừng sợ chư vị đó. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe không được
xao lãng.
Theo sau chư vị đó còn có tám vị pisacis từ những nơi
thiêng liêng sẽ nổi lên và
xuất hiện trước mặt con. ÷
“Từ phía đông
thiên nữ Sinhamukha màu nho, đầu
sư tử, bắt chéo tay trước ngực, đang ngậm một
tử thi trong miệng và lắc lư cái bờm
sư tử của mình ; từ phía
nam thiên nữ Vyaghrimukha màu đỏ, đầu cọp, hai tay bắt chéo thả thõng xuống, đôi mắt nhìn trừng, đang nhe răng ra ; từ
hướng tây thiên nữ Srgalamukha màu đen, đầu con cáo cầm lưỡi dao cạo bên tay phải và chùm ruột bên tay trái đang ăn chùm ruột và liếm máu ; từ phía bắc
thiên nữ Svanamukha màu xanh đậm, đầu chó sói hai tay đỡ một
tử thi đưa sát miệng mắt nhìn
trừng trừng ; từ phía đông
nam thiên nữ Grdhramukha, màu vàng úa, đầu kên kên mang một
tử thi lớn vắt qua vai và cầm bộ xương trên tay ; từ phía tây
nam thiên nữ Kankamukha màu đỏ đậm, đầu con diều hâu, mang bộ da lớn trên vai ; từ phía tây bắc
thiên nữ Kakamukha màu đen, đầu quạ, cầm tách sọ người bên tay trái một thanh kiếm bên tay phải đang ăn tim và phổi ; từ phía đông bắc
thiên nữ Ulumukha màu xanh đậm, đầu con cú, cầm chùy vajra bên tay phải và cây kiếm bên tay trái và đang ăn. Tám
thiên nữ pisacis này của những nơi
linh thiêng đang vây
quanh năm vị Herukas uống máu sẽ từ bên trong đầu của con nổi lên và
xuất hiện trước mặt con. Con
đừng sợ chư vị đó. Con hãy
nhận ra bất cứ cái gì
xuất hiện đều là vở tuồng diễn kịch của tâm, đó là những phóng tưởng của tự con. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), bốn
thiên nữ (goddesses) của bốn cổng cũng sẽ từ trong bộ óc của con nổi lên và
xuất hiện trước mặt con, nên con hãy
nhận ra các vị đó. ÷
“Từ góc phía đông của đầu con,
thiên nữ Ankusa màu trắng, đầu cọp, cầm một cây gậy và một tách sọ người đầy máu sẽ nổi lên và
hiện ra trước mặt con ; từ góc phía
nam thiên nữ Pasa màu vàng, đầu heo, cầm dây
thòng lọng ; từ góc phía
tây thiên nữ Srnkhala màu đỏ, đầu
sư tử cầm một dây xích bằng sắt ; từ góc phía bắc
thiên nữ Ghanta, màu xanh lá cây, đầu rắn, cầm một quả chuông ; bốn vị
thiên nữ này ở bốn cổng sẽ từ trong đầu con nổi lên và
hiện ra trước mặt con. Con hãy
nhận ra chư vị chính là những yidams. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ),
theo sau ba mươi vị herukas xung nộ, sẽ có hai mươi tám
thiên nữ hành giả yoginis sẽ
luân phiên nổi lên từ trong đầu con và
hiện ra trước mắt con với nhiều đầu khác nhau và mang nhiều
biểu tượng khác nhau. Con
đừng sợ chư vị đó, hãy
nhận ra bất cứ cái gì
hiện ra đầu là vở tuồng diễn kịch của tâm, tức là các phóng tưởng của tự con. Lúc này là lúc tới thời điểm quan trọng, hãy nhớ tới lời
giáo huấn của vị thầy của con. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), từ phía đông, sáu
thiên nữ yoginis ở phía đông sẽ từ trong đầu con nổi lên và
hiện ra trước mặt con : Raksasi, Nữ Quỷ, màu cam, đầu rắn, cầm
hoa sen trong tay ; Mahadevi,
Đại Thiên nữ, màu xanh lá cây đậm, đầu báo đang cầm một đinh ba ; Lobha, Bà
Tham lam, màu xanh, đầu con chó mongoose, đang cầm một bánh xe ; Kumari, Trinh nữ, màu đỏ, đầu con gấu vàng, đang cầm ngọn giáo ngắn ; và Indrani, màu trắng với đầu con gấu nâu, đang cầm một bó ruột người trong tay. Con
đừng sợ chư vị
thiên nữ đó. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), từ phía nam có sáu
thiên nữ yoginis phía nam từ trong đầu con nổi lên và
hiện ra trước mặt con : Vajra màu vàng, đầu heo, cầm lưỡi dao cạo trong tay ; Santi có tên Hòa bình, màu đỏ, có đầu con quái vật ở biển, cầm một cái lọ trong tay ; Amrta có tên Rượu tiên
Bất tử, màu đỏ, đầu con bò cạp, cầm cành
hoa sen ; Candra tên
Mặt Trăng, màu trắng, đầu chim ưng cầm
chùy kim cương ; Danda, có tên là Chùy, màu xanh lá cây đậm, đầu báo, cầm một cái chùy ; và Raksasi, Nữ Quỷ, màu vàng đậm, đầu con cọp, cầm một sọ đầy máu. Con
đừng sợ sáu
thiên nữ yoginis đó. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), từ phía tây, sáu
thiên nữ yoginis phía tây sẽ từ trong đầu con nổi lên và
hiện ra trước mặt con : Bhaksini, có tên Thực khách, màu xanh lá cây đậm, có đầu con kên kên cầm chùy ; Rati, tên
Hoan lạc, màu đỏ, đầu ngựa, cầm cái thân
tử thi to ; Mahabala, tên
Đại lực, màu trắng, có đầu con chim thần garuda, cầm chùy ; Raksasi, Nữ Quỷ, màu đỏ, đầu chó, đang cắt với một dao cạo bằng
kim cương ; Kama, tên
Ham muốn, màu đỏ, có đầu con chim đầu rìu, đang gương cung bắn ; và Vasuraksa, tên
Nữ thần Che Chở sự
Thịnh Vượng, màu xanh lá cây đậm, đầu con nai, cầm một cái lọ. Con
đừng sợ các
thiên nữ yoginis đó. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), từ phía bắc sáu yoginis phía bắc sẽ từ trong đầu con nổi lên và
hiện ra trước mặt con : Vayudevi, có tên
Thiên nữ của Gió, màu xanh da trời, đầu chó sói đang phe phẩy lá cờ ; Nari, tên Đàn bà, màu đỏ, đầu trâu, cầm một cây gậy ; Varahi, tên Lợn cái, màu đen, đầu lợn, cầm một dây
thòng lọng kết bằng những cái răng ; Vajra, màu đỏ, với đầu con quạ, cầm một miếng da trẻ con ; Mahahastini, tên Voi, màu xanh lá cây đậm, đầu voi, cầm một
tử thi lớn và đang uống máu
tử thi đó ; và Varunadevi,
Thủy Thiên nữ, màu xanh, đầu rắn, cầm một
thòng lọng những con rắn. Con
đừng sợ những
thiên nữ yoginis đó. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), bốn yoginis ở các cổng sẽ từ trong đầu con nổi lên và
hiện ra trước mặt con : từ phía đông, Vajra trắng, đầu con tu hú, cầm một móc sắt ; từ phía nam, Vajra vàng, đầu con dê, cầm một
thòng lọng ; từ phía tây, Vajra đỏ, đầu
sư tử, cầm một xâu chuỗi sắt ; từ phía bắc, Vajra màu xanh lá cây đậm, đầu rắn, cầm một cái chuông : bốn
thiên nữ yoginis ở các cổng nổi lên từ trong đầu con và
xuất hiện ra
trước mặt con. ÷
“Hai mươi tám
thiên nữ yoginis này
tự nhiên xuất hiện từ vở tuồng phô diễn của
hình tướng tự-hiện hữu của các thần xung nộ herukas, nên con hãy
nhận ra các vị đó. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ),
pháp thân xuất hiện dưới dạng các thần bình yên, một phần của
tánh Không ; con hãy
nhận ra pháp thân.
Báo thân xuất hiện ở dưới dạng các thần xung nộ, một phần của
linh quang, nên con hãy
nhận ra báo thân đó. Nếu vào lúc này năm mươi tám vị
chư thiên uống máu từ trong đầu của con nổi lên và
xuất hiện trước mặt con, thì con nên biết rằng bất cứ cái gì
xuất hiện đều khởi lên từ sự “quán-chiếu-thấu-suốt” tỏa sáng của tự con, và con sẽ
lập tức trở thành một
quả vị Phật bất ly với các thần uống máu đó. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), nếu với cách này mà con không
nhận ra được, con sẽ
sợ hãi chư vị, con sẽ lẩn tránh và
tiếp tục chịu đựng thêm nhiều
đau khổ. Nếu với cách này mà con không
nhận ra, con sẽ thấy các vị thần uống máu như là các Thần Chết và do đó con sẽ
sợ hãi họ. Con sẽ
kinh hãi, hoảng hốt mất khả năng
nhận biết. Các phóng tưởng của con đều sẽ
biến thành các quỷ sứ và con sẽ lang thang trong
sanh tử. Nhưng nếu con không sợ cũng không
ưa thích thì con sẽ không
lưu lạc trong
sanh tử. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), các thần bình yên và xung nộ ở mức cỡ lớn nhất to bằng cả
vũ trụ, ở mức cỡ trung bình to bằng
núi Tu Di, ở mức cỡ nhỏ nhất cao bằng mười tám thân mình
chúng ta chồng lên nhau ; nên con
đừng sợ họ. Tất cả
hiện tượng hiện ra với dạng ánh sáng và
hình ảnh ; nên bằng việc
nhận ra rằng mọi cái
xuất hiện này đều chính là sự tỏa sáng
tự nhiên của
tự tâm con, thì sự tỏa sáng
của riêng con sẽ nhập làm một bất ly với những ánh sáng và
hình ảnh đó và con sẽ
trở thành một vị Phật. Này con, bất cứ cái gì con thấy dù nó rất
đáng sợ nhưng hãy
nhận ra nó chính là phóng tưởng của tự con ; hãy
nhận ra nó chính là
linh quang, tức là sự chiếu sáng
tự nhiên của
tự tâm con. Nếu con
nhận ra như vậy, con sẽ
trở thành một vị Phật ngay lúc đó, không
nghi ngờ gì cả. Và
ngay lập tức cái gọi là sự
giác ngộ tức thì
trọn vẹn sẽ khởi lên. Hãy nhớ lấy ! ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), giờ đây nếu con không
nhận ra và vẫn
sợ hãi thì tất cả các thần bình yên sẽ
xuất hiện ở dưới dạng Mahakala và tất cả các thần xung nộ sẽ
xuất hiện dưới dạng Vua Pháp, tức là Thần Chết và con sẽ lang thang trong cõi
sanh tử cùng với tất cả các phóng tưởng của con có đầy
hình ảnh quỷ sứ. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), nếu con không
nhận ra các phóng tưởng
của riêng con thì dù cho con có
tu tập Pháp trong một thiên niên kỷ và biết tất cả
kinh điển và tantras con cũng không
trở thành một vị Phật. Nhưng nếu con
nhận ra được các phóng tưởng
của riêng con thì với một
bí mật và với một lời thôi con cũng sẽ
trở thành một vị Phật. ÷
“Nếu con không
nhận ra các phóng tưởng của con, thì các phóng tưởng sẽ
xuất hiện dưới dạng Vua Pháp, tức Thần Chết trong bardo
pháp tánh ngay lúc con chết. Kích cỡ lớn nhất của các Thần Chết to bằng
núi Tu Di ; chư vị đó sẽ đến chiếm trọn
vũ trụ. Với răng cắn vào môi dưới, mắt
lóng lánh như
thủy tinh, tóc búi lại trên đầu, bụng rất lớn nhưng cổ rất nhỏ, đang cầm quyển ghi chép các
hành nghiệp và la lớn “Đánh” và “Giết”, họ tách đầu ra khỏi thân, liếm óc, moi ra các
ngũ tạng : họ đến với những kiểu cách như vậy, đông nghẹt cả
vòm trời. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), khi các phóng tưởng
hiện ra như vậy, con
đừng sợ hãi. Con đang có một thân
tinh thần gồm các
xu hướng mê muội nên cho dù con có
bị giết bị chặt làm nhiều khúc thì con không thể chết được. Con thật sự là tướng
tự nhiên của
tánh Không nên không
cần phải sợ. Các Thần Chết cũng nổi lên từ
tự tâm chiếu sáng của con, các vị đó không có thể xác
cụ thể.
Tánh Không không thể bị hại bởi
tánh Không. Con hãy
tin chắc rằng các thần bình yên và xung nộ ở bên ngoài các herukas uống máu, các thần có đầu
súc vật cho tới ánh sáng cầu vồng, các
hình tướng trông rất dễ sợ của các Thần Chết và
vân vân đều không có thật (
vô tự tánh), tất cả đều nổi lên từ tuồng phô diễn tự phát của tâm con. Nếu con thấu hiểu điều này thì
toàn bộ sự
sợ hãi sẽ
tự nhiên tan biến và khi được hòa nhập một cách bất ly, con sẽ
trở thành một vị Phật. Nếu bằng cách này mà con
nhận ra thì các vị đó là những yidam của con. ÷
“Với sự chờ mong thiết tha, con hãy nghĩ rằng, ‘Chư vị đã đến trong nẻo đường bardo hiểm nguy này để
tiếp dẫn tôi. Tôi xin
quy y vào các ngài.’ Con hãy nhớ đến
Tam Bảo. Con hãy nhớ đến vị yidam của con, con hãy gọi tên ngài, hãy
cầu khẩn ngài với những lời như sau : ‘Con đang lang thang trong cõi bardo, xin hãy cứu con
thoát khỏi nơi này, xin hãy nắm bắt con với lòng
đại bi, ôi ! Ngài yidam
quý báu.’ Con hãy gọi tên vị thầy và khẩn cầu ngài : ‘Con đang lang thang trong cõi bardo nên xin thầy cứu con, với lòng
đại bi xin đừng
ruồng bỏ con.’ Với sự
mong đợi con hãy
cầu khẩn các thần uống máu và đọc lời khẩn cầu linh cảm như sau : ÷
Khi đang có những
xu hướng mê muội quá mạnh, con lang thang trong cõi
sanh tử,
nay nương vào ánh
linh quang để
buông bỏ mọi
sợ hãi,
con
cầu xin Chư Vị
Thiêng Liêng, các thần bình yên và xung nộ hãy
đi trước mặt con,
các
thiên nữ xung nộ, là các Nữ Chúa của
Hư Không, hãy đi sau lưng con ;
xin giúp con
vượt qua nẻo đường bardo hiểm nguy
và mang con đến
trạng thái Phật đà toàn thiện.
Khi đã rời xa bạn bè yêu quý. Con đang lang thang
một mình,
những
hình tướng rỗng không của các phóng tưởng riêng của con
hiện ra,
cầu xin chư
Phật phát ra oai lực của lòng
đại bi của các ngài,
sao cho các sự khiếp sợ trong bardo không xảy ra.
Khi năm ánh sáng
quang minh của
trí huệ chiếu sáng,
không chút sợ sệt,
cầu xin sao cho con tự
nhận ra mình ;
khi các
hình tướng của chư vị
bình an và xung nộ
hiện ra,
cầu xin sao cho con
nhận ra bardo một cách tự tin không sợ sệt.
Khi con chịu
đau khổ vì lực
ác nghiệp,
cầu xin vị yidam của con tẩy sạch tất cả nỗi khổ đó ;
khi âm vang
pháp tánh gầm thét như ngàn
tiếng sấm,
cầu xin toàn bộ âm thanh đó
trở thành âm thanh lục tự.[19]*
Khi con bị nghiệp của mình lôi kéo không
nơi nương tựa,
cầu xin Đại Bi Vương là
nơi nương tựa của con ;
khi con
chịu đựng nghiệp của những
xu hướng mê muội,
cầu xin cho
đại định của
hỷ lạc và
linh quang hiện lên.
Cầu xin cho năm
đại không nổi lên như các
kẻ thù,
cầu xin cho con thấy được các cõi của năm bộ Phật. ÷
“Con hãy đọc lời khẩn cầu
thiêng liêng với lòng sùng mộ sâu sắc. Tất cả nỗi
sợ hãi sẽ tan biến và
chắc chắn con sẽ thành một vị Phật
báo thân, cho nên điều này rất quan trọng, không được
xao lãng.” ÷
Những lời này nên lập đi lập lại ba đến bảy lần. Dù cho
tội lỗi nặng bao nhiêu, dù các nghiệp còn
tồn tại có xấu ác đến bao nhiêu thì cũng không thể nào
không giải thoát được. Nhưng với những gì đã chỉ bày mà họ vẫn không
nhận ra thì họ sẽ phải lang thang trong bardo thứ ba, đó là bardo
thác sanh (bardo of becoming), do đó sự chỉ bày của
bộ giáo huấn này sẽ hướng dẫn rất
chi tiết sau đây. ÷
Dù rất
thông thạo hay dù ít
thông thạo trong
thiền định,
đa số người ta vì quá sợ đã bị
lầm lẫn trong giai đoạn bardo ngay lúc
đối diện cái chết, nên người ta không có
phương tiện nào khác ngoài bộ “Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này. Đối với những ai đã
thiền định nhiều thì giai đoạn bardo
pháp tánh đến bất
thình lình khi tâm rời khỏi thân. Những ai đã
nhận ra được
tự tâm mình và đã
kinh nghiệm được khi còn sống thì họ sẽ rất mạnh mẽ khi
linh quang xuất hiện trong suốt giai đoạn bardo ngay lúc
đối diện cái chết, do đó
tu tập trong suốt cuộc đời là điều quan trọng nhất. Và những ai mà khi còn sống đã
thiền định quán tưởng và những
thực hành hoàn tất về các
thần bổn tôn của
kim cương thừa thì họ sẽ rất mạnh mẽ khi các linh ảnh thần bình yên và xung nộ
xuất hiện trong suốt giai đoạn bardo
pháp tánh. Do đó việc
tu tâm cho thật
thông suốt với bộ “Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe Trong Bardo” này là tối ư quan trọng, nhất là khi còn sống. ÷
Bộ giáo huấn này cần được thiết tha
tu tập, cần được toàn triệt, cần được đọc lớn, cần được khắc cốt ghi tâm, cần được
tu tập ba lần một ngày không
bỏ sót lần nào ;
ý nghĩa của từng lời của tập luận này cần được
minh bạch trong tâm mình, lời lẽ và nghĩa của
bộ giáo huấn phải không bị quên dù có trăm kẻ sát nhân
thình lình xuất hiện rượt đuổi con. Bởi vì
bộ giáo huấn này được gọi là “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” nên ngay cả những người đã phạm vào năm
trọng tội thì cũng sẽ
chắc chắn được giải thoát nếu họ
nghe được bộ này, do đó cần đọc lớn trong đám đông, cần được
phổ biến rộng. ÷
Giả như người ta chỉ nghe
bộ giáo huấn này có
một lần và chưa hiểu được, nhưng vì ở trong
trạng thái bardo tâm trở nên
sáng suốt gấp chín lần so với lúc thường cho nên khi ấy,
bộ giáo huấn này sẽ được nhớ đến
toàn bộ, không quên một chữ. Cho nên
bộ giáo huấn này cần đọc
toàn bộ khi còn sống, cần nên đọc bên cạnh tất cả người bệnh đang nằm, bên cạnh tất cả những người đang chết, cần được
phổ biến sâu rộng. ÷
Gặp được
bộ giáo huấn này là một sự
may mắn vĩ đại ; rất khó gặp ngoại trừ những người mà họ đã tẩy sạch
vô minh và
tích tụ công đức. Nếu ai
nghe được giáo huấn này và không chút
nghi ngờ thì sẽ
được giải thoát, do đó
giáo huấn này cần được
quý trọng lớn lao vì nó rút ra được
tinh túy của tất cả pháp. ÷
Đến đây
chấm dứt sự khai thị Bardo
pháp tánh gọi là “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe”,
một
giáo lý bardo mà nó
giải thoát chỉ nhờ vào việc nghe và thấy. ÷
sarvamangalam ÷
Thành tâm tôn kính các vị
thiêng liêng :
chư thầy, chư vị yidam và chư dakini ;
cầu xin chư vị gây ra
sự giải thoát trong bardo.
Nương theo “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe”
phần bardo
pháp tánh đã được giảng trước rồi
giờ đây lời nhắc nhở của Bardo
thác sanh đã tới. ÷
Mặc dầu Bardo
pháp tánh đã được hướng dẫn nhiều lần ở trước, nhưng trừ những người
thông thạo trong
thiền định về pháp và có những nghiệp tốt, còn lại gồm những người có nghiệp xấu và vì sợ sệt, nên sự
nhận biết trở nên rất khó cho những ai đã không
thông thạo trong
thiền định hay cho những ai rất xấu ác. Nên
trong khoảng từ ngày thứ mười trở đi họ nên được nhắc nhở chỉ bày lại nữa với những lời sau đây : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe cho khéo và hãy thấu hiểu. Hàng
chúng sanh ở
địa ngục, các vị trời và “thân bardo” đều được sanh ra một cách
tự nhiên, tự động. Khi các thần bình yên và xung nộ
hiện ra trong bardo
pháp tánh, con đã không
nhận ra họ nên con gần như bất tỉnh vì quá sợ trong năm ngày rưỡi, nhưng khi con
hồi tỉnh lại,
tâm thức của con trở nên
minh bạch và một cái thân giống như cái thân trước khi chết của con khởi dậy. Trong
kim cương thừa nói về thân đó như sau : ÷
Với thân
vật chất trước đó và sau này của giai đoạn bardo
thác sanh,
đầy đủ các
giác quan hoàn chỉnh, đi đây đó không bị
cản trở,
có được
quyền năng kỳ diệu do nghiệp đem tới,
được thấy bởi con mắt
thanh tịnh của
chư thiên có cùng
bản chất. ÷
“Ở đây chữ ‘trước đó’ có nghĩa rằng vì nghĩ nhớ đến nên con có được một thân giống như cái thân bằng thịt và máu của con trước đây, nhưng thân này tỏa sáng được và có những nét dáng của thân ở độ tuổi
tốt đẹp nhất. Đây là
kinh nghiệm của một thứ thân
tinh thần, nên nó được gọi là thân
tinh thần của
kinh nghiệm bardo. Vào lúc này nếu con sắp sửa
tái sanh làm một vị trời, con sẽ kinh qua cõi
chư thiên,
cũng thế khi con sắp
tái sanh ở bất cứ cõi nào, như cõi Atula,
cõi người,
súc sanh, quỷ đói,
địa ngục thì con sẽ có
kinh nghiệm của cõi đó. Do đó, chữ ‘trước đó’ có nghĩa rằng khi nghĩ nhớ
trong suốt bốn ngày rưỡi mà con có được thân
vật chất của những ký ức
hồi tưởng về thân trước kia của con và chữ ‘sau này’ có nghĩa rằng sau đó con sẽ có được những
kinh nghiệm về cõi mà con sắp sửa
tái sanh ; do vậy mới nói ‘trước đó’ và ‘sau này’. ÷
“Lúc này đây bất cứ phóng tưởng nào nổi lên, con cũng đừng
đi theo chúng hay
ưa thích chúng hay
thương tiếc chúng. Nếu con
ưa thích hay
thương tiếc chúng con sẽ lang thang trong sáu cõi và
chịu đựng khổ đau. ÷
“Mặc dầu các phóng tưởng của bardo
pháp tánh đã
hiện ra liên tục cho tới hôm qua nhưng con đã không
nhận ra chúng, nên con đã phải
lưu lạc tới đây. Giờ đây nếu con có khả năng
thiền định không
tán loạn, con hãy
an định trong
tâm trần trụi
thanh tịnh, (đó là)
tánh Không –
linh quang mà thầy con đã chỉ bày cho con, (tâm đó) được
buông xả trong
trạng thái vô thủ
vô tác. Con sẽ đạt tới
giải thoát và không
đi vào một mẫu thai. ÷
“Nếu con không thể
nhận ra, con hãy
quán tưởng vị yidam của con hay vị thầy của con ở cao
lưng chừng trên đầu con và con hãy
cảm thấy sự
thành tâm sùng mộ sâu sắc. Điều này rất ư quan trọng. Hãy
quán tưởng liên tục, không được
tán loạn.” ÷
Cho nên người nói như vậy. Nếu người chết
nhận ra điều này ông ta sẽ
được giải thoát và không còn lang thang trong
sáu nẻo luân hồi. Nhưng với
ảnh hưởng của nghiệp xấu ác thì rất khó
nhận ra điều đó, nên người nên nói nhưng lời sau đây : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe với
tâm không tán loạn. ‘Đầy đủ các
giác quan hoàn chỉnh’ có nghĩa rằng cho dù khi còn sống con đã bị mù, điếc, què quặt
vân vân nhưng giờ đây trong thời bardo, mắt con thấy được, tai
nghe được, tất cả các
giác quan trở nên
minh mẫn không khuyết tật ; cho nên nóùi là đầy đủ các
giác quan hoàn chỉnh. Đây là dấu hiệu cho thấy con đã chết và đang lang thang trong
trạng thái bardo, cho nên con hãy
nhận ra, hãy nhớ đến những lời
chỉ dẫn này. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), ‘không bị cản trở’ có nghĩa vì con đang là thân
tinh thần và tâm con bị lìa khỏi
nơi nương tựa, con không có thân
vật chất, cho nên giờ đây ngay cả
núi Tu Di con cũng có thể đi qua đi về được, hay bất kể nơi nào ngoại trừ mẫu thai và tòa
kim cương.[20]* Đây là dấu hiệu rằng con đang lang thang trong cõi bardo
thác sanh, nên con hãy nhớ đến lời dạy của vị thầy và con khẩn cầu đức
Đại Bi Vương (tức
Quán Thế Âm Bồ tát). ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), ‘có được
quyền năng kỳ diệu do nghiệp’ đem tới có nghĩa rằng giờ đây con có
quyền năng kỳ diệu từ
nghiệp lực tương ứng với tác hành của con chứ không phải từ
thiền định hay
công đức. Con có thể dạo quanh bốn châu lục và
núi Tu Di trong khoảnh khắc, hễ con
nghĩ tưởng một nơi nào thì
lập tức con ở ngay nơi đó, con có thể đi nhanh bằng
thời gian một người vừa đưa tay ra rồi thụt tay vào tức thì. Giờ đây con có khả năng
thực hiện các hành động không chút
cản trở, con có thể làm mọi điều con nghĩ tới, không có việc gì con không thể làm. Nhưng các
quyền năng đủ mọi dạng này không
thích hợp, con đừng nghĩ đến các
quyền năng đó ; con hãy
nhận ra, và khẩn cầu vị thầy của con. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), ‘được thấy bởi con mắt
thanh tịnh của các
chư thiên có cùng bản chất’ có nghĩa rằng trong
trạng thái bardo những ai sắp sanh cùng cõi sẽ thấy được nhau, cho nên những ai sắp sanh ra làm
chư thiên sẽ thấy được nhau. Cũng theo cách đó bất cứ chỗ nào trong sáu cõi
sanh tử họ sắp sanh vào thì những ai cùng
bản chất sẽ trông thấy được nhau. Cho nên con đừng tiếc nuối các cõi đó mà hãy
thiền định về đức
Đại Bi Vương. ‘Được thấy bởi con mắt
thanh tịnh của các chư thiên’ cũng còn có nghĩa là được thấy bằng con mắt
thiêng liêng thanh tịnh của các thiền giả trong
đại định thật sự chứ không chỉ riêng con mắt đến từ
công đức của các vị trời mà thôi. Nhưng các thiền giả không phải lúc nào cũng thấy ; nếu họ tập trung
thiền định họ sẽ thấy, nhưng nếu họ không
thiền định hay nếu
sự thiền định bị phân tán thì họ không thấy. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), với một loại thân như thế này, con sẽ thấy
gia đình nhà cửa của con như thể con đã từng gặp họ trong một
giấc mộng nhưng mặc dù con nói với họ con chẳng thấy họ
trả lời ; con sẽ thấy
bà con quyến thuộc khóc lóc, nên con sẽ nghĩ rằng, ‘Tôi chết rồi, tôi sẽ làm gì ?’ và con sẽ
cảm thấy một nỗi đau
dữ dội giống như nỗi đau của con cá đang lăn trên cát nóng. Nhưng giờ đây sự
đau khổ không có
ích lợi gì. Nếu con có vị thầy, con hãy khẩn cầu ngài, hay con khẩn cầu vị yidam, đức
Đại Bi Vương. Dù con quá
quyến luyến bà con thân thích cũng chẳng ích gì, cho nên con đừng
quyến luyến. Con hãy khẩn cầu đức
Đại Bi Vương và sẽ không có
đau khổ hay
sợ hãi. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), vì bị
gió nghiệp thổi tung lên, và vì không có chỗ bám trụ (không còn có thân) nên tâm của con cưỡi một cách bất lực trên con ngựa của ngọn
gió nghiệp – con như thể một chiếc lông bị thổi
quay cuồng di chuyển không ngừng. Con sẽ nói với những
bà con đang khóc, ‘Tôi đang ở đây, đừng khóc nữa’, nhưng họ không
nhận biết con, nên con nghĩ, ‘Tôi đã chết’ và giờ đây con sẽ
cảm thấy nỗi đau
kinh khủng. Chớ
đau khổ như vậy.
Trong suốt thời gian này sẽ có một làn khói mỏng màu xám tợ như ánh sáng mờ đục buổi bình minh
mùa thu, chẳng phải ban ngày chẳng phải ban đêm. Kiểu
trạng thái bardo này sẽ kéo dài trong một, hai, ba, bốn, năm, sáu, hay bảy tuần, lên tới bốn mươi chín ngày. Nỗi
đau khổ trong bardo
thác sanh được nói là thường kéo dài trong hai mươi mốt ngày nhưng điều này không
hoàn toàn chắc chắn bởi vì nó
tùy thuộc vào
ảnh hưởng của nghiệp. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), vào lúc cơn lốc xoáy rất lớn của nghiệp, một cơn lốc
đáng sợ, không thể
chịu đựng được,
quay cuồng dữ dội, từ phía sau đẩy con tới. Con
đừng sợ cơn lốc đó, đó chính là phóng tưởng
mê lầm của con. Bóng tối đen dày đặc rất
kinh hãi, không chịu nổi, sẽ đi đằng
trước mặt con cùng với những tiếng kêu
rùng rợn như tiếng thét ‘Đánh và Giết’. Con
đừng sợ những điều đó. Đối với ai đã làm những điều ác ghê gớm thì nhiều con quỷ
ăn thịt tươi sẽ
hiện ra do bởi nghiệp của họ, các con quỷ mang nhiều vũ khí khác nhau, la lớn những tiếng hô xông trận như ‘Giết’ và ‘Đánh’ và
vân vân. Con sẽ
cảm thấy như con bị
thú dữ đang rượt đuổi con cùng với
kẻ thù lớn như những trận mưa tuyết, bão, bóng tối đen cũng đang bám theo con. Có những
âm thanh như núi sụp đổ, nước lũ ở hồ sông đổ ập tới, trận lửa cháy rào, những ngọn gió xoắn
dữ dội. Vì quá sợ, con sẽ
chạy trốn vào nơi nào có thể trốn được, nhưng con bị khựng lại bởi ba
vực thẳm đáng sợ trước mắt con, màu trắng, đỏ, đen và con gần như bị rơi vào đó. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), đó không phải là các
vực thẳm có thật, đó là tham, sân, si. Giờ đây con hãy
nhận ra đây là bardo
thác sanh, con hãy gọi tên đức
Đại Bi Vương : ‘Ôi ! Đức
Đại Bi Vương, thầy con,
Tam Bảo, xin đừng để con (tên) rơi vào
địa ngục.’ Con hãy khẩn cầu một cách tha thiết như vậy ; con đừng quên. ÷
“Đối với những người đã
tích tụ phước đức, rất
đạo đức, đã
tu tập pháp một cách
chân thành thì đủ mọi sự
thọ dụng toàn diện sẽ
tiếp dẫn họ, và họ sẽ
kinh nghiệm được đủ tất cả mọi
phúc lạc và
hạnh phúc. Đối với những người
mê muội thờ ơ, những người chẳng thiện chẳng ác, họ sẽ
không kinh qua sự
sung sướng hay
đau khổ và chỉ có sự
thờ ơ lãnh đạm, sự
mê muội hiện ra với họ. Cho dù bất cứ điều gì nổi lên, này
thiện nam (
tín nữ), dù bất
cứ sự vui thú nào, hay đối tượng được
mong ước nào đó
hiện ra, con cũng đừng
quyến luyến chúng, hay
thương tiếc chúng. Con hãy
cúng dường những thứ đó cho vị thầy và
Tam Bảo. Con hãy
buông bỏ sự
tham luyến, sự
mong ước trong tim con. Và nếu
kinh nghiệm về sự
bàng quan khởi lên được mà không có sự vui hay khổ thì con hãy
an định tâm con trong
trạng thái Đại Ấn của sự không
thiền định không-tán-loạn. Điều này rất quan trọng. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), vào lúc này, những chiếc cầu, những đền thờ,
tu viện, nhà tranh, cái tháp,
vân vân sẽ là nơi trú ngụ của con trong chốc lát nhưng con không ở đó lâu được. Bởi vì tâm con bị tách rời khỏi thân nên con không thể
cư ngụ ổn định, con
cảm thấy tức giận và
lạnh lùng và thức của con trở nên
nhẹ bổng như không khí,
di chuyển rất nhanh, thay đổi
liên tục, không
thường hằng. Rồi thì, con sẽ nghĩ rằng, ‘Than ôi ! Tôi chết rồi ! Giờ đây tôi làm gì ?’ và
đang khi suy nghĩ như vậy lòng con sẽ bất ngờ trở nên trống rỗng và lạnh lẽo, và con
cảm thấy một nỗi đau sâu sắc,
vô tận. Bởi vì con phải
tiếp tục lang thang không ổn định ở một nơi nào, nên con đừng bận tâm với đủ loại khởi niệm của mình mà con hãy
an định tâm mình trong
trạng thái căn bản của tâm. ÷
“Giờ đây là lúc con chẳng còn gì để ăn ngoại trừ những
thực phẩm được cúng cho ăn và cũng không
ý thức rõ rệt về bạn bè. Đây là dấu hiệu thân
tinh thần đang lang thang trong giai đoạn bardo
thác sanh. Vào lúc này
nghiệp lực sẽ xác định niềm vui hay nỗi đau. Con sẽ thấy
quê nhà họ hàng bạn bè, con sẽ thấy thi thể của con, con sẽ nghĩ rằng, ‘Giờ đây tôi đã chết, tôi nên làm gì đây ?’ Thân
tinh thần sẽ đang ở trong
tình trạng đau đớn cùng cực nên con nghĩ rằng, ‘Giờ đây tại sao không đi tìm một cái thân ?’ và con kinh qua sự
tìm kiếm mọi nơi để có một cái thân. Bởi vì phải
trải qua một
thời gian lâu trong bardo
pháp tánh nên dù con có muốn
đi vào thi thể con đến chín lần nhưng lúc đó nếu đang là
mùa đông thì thi thể đã đóng băng, nếu đang mùa hè thi thể bị thối rữa hay
gia đình đã chi thiêu táng hay chôn trong mộ hay cho chim ăn nên chẳng tìm được chỗ để nhập vào, con sẽ rất
tuyệt vọng, và có
cảm giác như bị các tảng đá núi đè ép thân con.
Chịu đựng đau đớn như vậy là bardo
thác sanh, dù con đi tìm một cái thân thì cũng chẳng
tìm thấy gì ngoài sự
đau đớn, cho nên con hãy cắt đứt sự luyến tiếc đi tìm một cái thân và con hãy
an định trong
trạng thái vô tác không
tán loạn.” ÷
Khi được khai thị chỉ bày theo cách này,
sự giải thoát khỏi bardo sẽ đạt tới được. Nhưng nếu vì
nghiệp lực xấu ác, nên bất
chấp sự chỉ bày như vậy, ông ta cũng không thể nào
nhận ra, thì người nên gọi tên người chết và nói những lời sau đây : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ) (tên), hãy lắng nghe. Chính vì nghiệp mà con phải chịu
đau đớn như thế này, nên con không thể
đổ lỗi cho ai khác được. Đó là nghiệp của con, giờ đây con nên thiết tha khẩn cầu
Tam Bảo thì con sẽ được
che chở. Nếu con không khẩn cầu giống như thế, và không biết
sự thiền định Đại Ấn, con cũng không biết
thiền định về vị yidam của con, thì bây giờ
thiện tâm ở trong con sẽ thu thập tất cả các
thiện hạnh của con và đếm bằng những hòn sỏi trắng, và
ác tâm ở trong con sẽ thu thập tất cả các
ác hạnh của con và đếm bằng những hòn sỏi đen. Vào lúc này con sẽ
sợ hãi kinh khủng, con sẽ run lên và con sẽ nói láo rằng, ‘Tôi không có tội’ và Thần Chết sẽ nói, ‘Ta sẽ nhìn vào cái kính chiếu nghiệp’, khi vị thần ấy nhìn vào kính đó tất cả những
thiện hạnh và
ác hạnh của con sẽ
lập tức hiện ra trong gương
phân biệt rất
rõ ràng, nên dù con có nói láo cũng
vô ích. Rồi Thần Chết sẽ cột chặt dây thừng quanh cổ con và siết chặt, cắt đứt đầu con, xé rách tim con, moi ruột con ra, liếm óc con, uống máu con,
ăn thịt tươi của con, gặm xương con ; nhưng con không chết dù thân con bị cắt ra làm nhiều mảnh nhưng con sẽ
trở lại nguyên vẹn. ÷
“Việc bị cắt xé thân
tái diễn nhiều lần làm cho con
đau đớn vô cùng, cho nên con
đừng sợ khi những hòn sỏi trắng được đếm, con đừng nói láo và con
đừng sợ Thần Chết. Bởi vì con có thân do thức sanh nên con không thể chết cho dù con
bị giết, bị cắt lìa ra. Con thực sự là
hình tướng rỗng không
tự nhiên, đó là các phóng tưởng
mê lầm của riêng con, và con là sự rỗng không, tức là một thân
tinh thần – của những
xu hướng định kiến mê muội.
Tánh Không không thể làm hại
tánh Không được, cái không
tự tánh không thể làm hại cái không
tự tánh được. Các Thần Chết,
chư thiên, các
linh hồn quỷ dữ, quỷ đầu bò,
vân vân (thấy) ở bên ngoài đều không có
thực thể nào khác ngoài những phóng tưởng
mê lầm của riêng con, con hãy
nhận ra điều này. Ngay lúc này đây, con hãy
nhận ra mọi thứ chỉ là bardo. ÷
“Con hãy
thiền định về
đại định của Đại Ấn (the Samadhi[21]* of the Great Symbol). Nếu con không biết cách
thiền định, con hãy nhìn kỹ vào
thực chất của cái làm con sợ và con sẽ thấy
tánh Không, (tức là) không có
bản chất nào cả (
vô tự tánh) : đây là
pháp thân. Nhưng
tánh Không này không phải là sự phủ định (không có gì cả),
bản chất của nó dễ gây
sợ hãi, đó là tâm với sự
tỉnh giác (
nhận biết sáng suốt) vĩ đại và sự
sáng tỏ tuyệt vời, đây là tâm của
báo thân.
Tánh Không và
linh quang không hề tách rời nhau,
bản chất của
tánh Không là
linh quang và
bản chất của
linh quang là
tánh Không. Giờ đây tánh Không-linh quang không tách rời này, cái
tâm trần trụi này được lột bỏ không
che đậy, và trụ trong
trạng thái vô sanh của nó : đây là svabhavikakaya.[22]*
Năng lực tự nhiên của nó nổi lên khắp
mọi nơi không hề ngăn ngại : đây là
hóa thân đại bi (compassionate nirmanakaya). ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), con hãy thấy như vậy đó, không được
tán loạn. Ngay khi con
nhận ra, con sẽ đạt tới sự
giác ngộ trọn vẹn trong bốn thân. Đừng bị phân tán. Đây là đường ranh
phân chia, nơi mà chư Phật khác với
chúng hữu tình. Chính trong khoảnh khắc này, người ta nói rằng : ÷
Chính
trong một niệm họ bị chia biệt,
cũng chính
trong một niệm,
giác ngộ viên mãn. ÷
“Từ trước đến hôm qua, con đã bị
tán loạn nên
mặc dầu có biết bao nhiêu
trạng thái bardo
hiện ra nhưng con đã không
nhận ra được và con quá sợ. Giờ đây nếu con bị
tán loạn nữa thì sợi dây
đại bi sẽ bị cắt đứt và con sẽ đi tới một nơi không có cơ hội
giải thoát, cho nên con hãy
cẩn thận.” ÷
Với sự chỉ bày như thế này, cho dù trước đó không
nhận ra, nhưng giờ đây người chết sẽ
nhận ra và đạt tới
giải thoát. Nếu ông ta là người tu
tại gia không biết cách
thiền định như vậy, thì người nên nói những lời sau đây : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), nếu con không biết cách
thiền định như thế nào, con hãy nhớ đến Phật, Pháp, Tăng và
Đại Bi Vương và con hãy
cầu khẩn chư vị. Con hãy
thiền định rằng tất cả các phóng tưởng
kinh hãi đó đều là
Đại Bi Vương hay vị yidam của con. Con hãy nhớ đến vị thầy và
pháp danh pháp tự của con khi còn sống và con nói cho vị Vua Pháp tức Thần Chết biết tên đó. Dù con có rơi xuống vực con cũng không
bị thương ; nên con hãy xả bỏ sự kinh sợ.” ÷
Được chỉ bày bằng những lời này dù trước đó ông ta không
được giải thoát thì giờ đây ông ta sẽ
được giải thoát ở đây. Nhưng rất có khả năng ông ta không thể
nhận ra và không
được giải thoát nên người cần
nỗ lực lần nữa, gọi tên ông ta và nói những lời sau đây : ÷
“Những
kinh nghiệm hiện tại sẽ ném con vào trong các
trạng thái trong đó sự
vui thích và sự buồn khổ thay thế nhau
liên tục trong từng
sát na như một cỗ máy bắn đá, nên giờ đây con đừng tạo ra bất kỳ sự
ham muốn hay
sân hận nào cả. ÷
“Nếu con sắp được sanh ra trong một
cõi giới cao hơn, vào lúc các
kinh nghiệm của
cõi giới đó
hiện ra nhưng
đồng thời bà con thân thuộc ở nơi con vừa rời bỏ đang giết nhiều
súc vật để cúng lễ cho con nên con sẽ khởi lên những khởi niệm
bất tịnh, con sẽ
cảm thấy sự tức
giận dữ dội và chính sự việc đó sẽ khiến con
thác sanh vào
cõi địa ngục. ÷
“Nếu con
quyến luyến tài sản của con đã bỏ lại phía sau, hay con luyến tiếc những
tài sản đó vì nghĩ rằng người khác đang làm chủ hay hưởng thụ chúng, con sẽ nổi cơn tức giận họ, và điều này sẽ
chắc chắn khiến con
thác sanh vào
cõi địa ngục hay cõi quỷ đói mà lẽ ra con sắp sanh vào cõi cao hơn. Dù con có luyến tiếc các
tài sản con đã bỏ lại thì con cũng không thể
lấy lại được đâu ; như vậy chẳng ích gì cho con, nên con hãy
buông bỏ sự
ham muốn luyến tiếc
tài sản, con hãy
từ bỏ chúng, con hãy các lập một
quyết định cương quyết. Dù ai đang hưởng
tài sản đó con cũng đừng sanh tâm
ham của cải, con hãy bỏ qua nó. Với sự tập trung
nhất tâm con hãy nghĩ rằng con đang
cúng dường tài sản cho vị thầy và
Tam Bảo và hãy an trụ trong
trạng thái không
tham luyến. ÷
“Khi
nghi lễ ‘kankani’ cho người chết được tụng đọc cho con và phép ‘tịnh hóa khỏi
đi vào các cõi thấp’ và
vân vân được
cử hành vì
ích lợi của con, nhờ vào một thức
siêu nhiên và
tinh vi do nghiệp phát sinh, con sẽ thấy các
nghi lễ này
thực hiện một cách
giải đãi, không
thanh tịnh,
lơ là và còn nhiều sự bất kính nữa, với
thái độ cẩu thả, không giữ đúng các
giới luật, các
thệ nguyện thiêng liêng của
hành giả kim cương thừa, con sẽ thấy
mất lòng tin ở họ vì họ thiếu
đức tin, con
nhận biết được ở họ những hành động
tội lỗi vì sợ những điều
bất tịnh trong khi
cử hành nghi lễ và rồi con nghĩ rằng, ‘Than ôi ! Họ đang lừa dối tôi,
chắc chắn họ đang lừa dối tôi !’ Vì nghĩ như vậy con sẽ buồn vô hạn,
tuyệt vọng,
hoàn toàn không còn
cảm thấy sự sùng mộ thuần tịnh, con sẽ
mất lòng tin, và điều này
chắc chắn khiến con
đi vào cõi thấp hơn. Điều này không chỉ
vô ích mà còn có hại cho con, cho nên dù các bạn
đồng đạo đang
cử hành tang lễ không
nghiêm chỉnh,
bất tịnh con hãy bỏ qua chuyện đó, và với
lòng thành kính
chân thật con nghĩ rằng, ‘À ! Các phóng tưởng của tôi ắt hẳn
bất tịnh chứ các kinh của Phật làm sao có thể
bất tịnh ?
Sự thể này là do các phóng tưởng
bất tịnh của riêng tôi, cũng giống như trông thấy những vết dơ trên gương mặt của mình ở trên gương. Đối với những người này, thân của họ là
Tăng đoàn, lời của họ là Pháp
thiêng liêng, và tâm của họ là tánh của Phật do đó tôi
quy y vào họ.’
Suy nghĩ được như vậy rồi thì bất cứ việc gì được làm ở nơi lễ tang cũng sẽ trở nên có lợi cho con, nên theo cách này điều rất quan trọng là làm sao có được những khởi niệm
thanh tịnh, con không được quên điều này. ÷
“Nếu con sắp sanh ra một trong
ba cõi thấp hơn, vào lúc các
kinh nghiệm của cõi đó
hiện ra khi đó
bà con quyến thuộc ở nơi con đã ra đi đang
cử hành các
nghi lễ tang chế rất nghiêm túc, tinh sạch có
hiệu lực, các vị thầy tế lễ là những người đang
tu tập thánh pháp với tâm, khẩu, ý
hoàn toàn thanh tịnh, con sẽ
cảm thấy sự
hoan hỷ tràn ngập khi thấy
buổi lễ như vậy và như vậy sẽ khiến con
lập tức được sanh ra trong cõi cao hơn cho dù lẽ ra con sắp sanh vào cõi thấp ; cho nên việc
cử hành lễ
thanh tịnh rất có
ích lợi. Cho nên điều rất quan trọng là đừng có những
tư tưởng bất tịnh mà nên
cảm thấy một sự
sùng tín trọn vẹn và không
thành kiến (
vô tư) ; con hãy
cẩn thận như vậy. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), nói
tóm lại giờ đây trong
trạng thái bardo vì không có cái thân làm chỗ trụ lại nên tâm con rất nhẹ rất dễ
di chuyển và bất cứ khởi niệm nào nổi lên trong tâm dù thiện hay ác đều rất mãnh liệt, cho nên con đừng nghĩ tới những
hành vi độc ác mà hãy nhớ tới sự
tu tập công đức. Nếu con không có sự
tu tập, con hãy
cảm thấy sự thiết tha
sùng tín cùng với những
tư tưởng trong sạch. Con hãy khẩn cầu vị yidam của con và đức
Đại Bi Vương với sự tập trung cao độ, con hãy đọc lời khẩn cầu linh cảm sau đây : ÷
Khi
xa lìa bạn bè
thân thuộc và lang thang
một mình,
các
hình tướng trống rỗng của các phóng tưởng của con
hiện ra,
cầu xin chư Phật
ban cho oai lực
đại bi của các ngài,
để cho những nỗi khiếp sợ của bardo không đến.
Khi con chịu khổ đau vì
nghiệp lực bất thiện,
cầu xin vị yidam của con tẩy sạch mọi khổ đau ;
khi
âm thanh pháp tánh ầm ầm như ngàn cơn sấm nổ,
cầu xin tất cả
trở thành âm thanh của
lục tự.
Khi con bị nghiệp kéo đi chẳng có nơi nào
quy y nương tựa,
cầu xin đức
Đại Bi Vương là chỗ
quy y nương tựa của con ;
khi con chịu
đau khổ vì các
xu hướng tập nghiệp mê muội,
cầu xin đại định của
an lạc và
linh quang hiện lên. ÷
Con hãy đọc lời khẩn cầu này rất tha thiết ;
chắc chắn nó sẽ dẫn dắt con trên
con đường đạo. Con hãy
tuyệt đối tin tưởng rằng nó không hề
sai lầm, điều này rất ư quan trọng.” ÷
Khi được đọc cho nghe như vậy, người chết sẽ nhớ tới, sẽ
nhận ra và do đó sẽ đạt tới
giác ngộ. Nhưng dù người đọc đi đọc lại nhiều lần mà ông ta rất khó khăn để
nhận ra được vì bị
ảnh hưởng của quá nhiều
nghiệp bất thiện nên việc đọc lại nhiều lần nữa là rất có lợi. Người hãy gọi tên người chết lần nữa và nói những lời sau đây : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), nếu con đã không thấu hiểu những gì đã qua đi từ trước đến giờ, thì từ giờ trở đi cái thân của con trước khi chết sẽ trở nên mỗi lúc mờ nhạt dần và cái thân sắp
tái sanh sẽ trở nên càng lúc càng rõ, cho nên con sẽ
cảm thấy buồn và nghĩ rằng, ‘Tôi đang phải
chịu đựng tình cảnh đau khổ thế này thôi thì tôi sẽ đi tìm và
chấp nhận bất cứ loại thân nào hiện ra’, và rồi con sẽ đi
lung tung đi tới,
đi lui, hướng đến bất cứ cái gì
hiện ra. Sáu thứ ánh sáng của sáu cõi
sanh tử sẽ chiếu sáng, và ánh sáng của
cõi giới mà con sắp
tái sanh vì nghiệp của mình sẽ chiếu sáng nhất. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), hãy lắng nghe. Nếu con hỏi sáu ánh sáng đó thế nào thì hãy lắng nghe : ánh sáng trắng dịu là của
cõi trời, ánh sáng đỏ dịu là của cõi Atula, ánh sáng xanh da trời là của
cõi người, ánh sáng xanh lục là của cõi
súc sanh, ánh sáng vàng là của cõi quỷ đói, ánh sáng màu khói xám là của
cõi địa ngục. Ngay lúc đó thân con sẽ nhận lấy màu của cõi mà con sắp sanh ra. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), vào lúc này điểm tối ư quan trọng của
bộ giáo huấn này như sau : dù cho ánh sáng nào chiếu rõ hơn, con cứ
thiền định ánh sáng đó là
Đại Bi Vương. Hãy
thiền định vào
ý tưởng rằng khi ánh sáng
hiện ra thì đó chính là
Đại Bi Vương. Đây là điểm
cốt lõi sâu sắc nhất, nó rất quan trọng và
ngăn ngừa tái sanh. ÷
“Hãy
thiền định rất lâu vào bất cứ vị thần nào, vào vị yidam của con, hãy
thiền định vị yidam đó chính là một linh ảnh không hề có bất kỳ
bản chất thật
của riêng nó, giống như một ảo huyễn. Đây gọi là thân huyễn
thanh tịnh. Rồi thì hãy để vị yidam biến mất các đường nét từ ngoài vào trong và
an định một lúc trong
trạng thái không thể nghĩ bàn của tánh Không-linh quang, không trụ ở đâu cả. Hãy
thiền định lại nữa vào vị yidam, rồi
thiền định lại nữa vào
linh quang. Hãy
thiền định xen kẽ như vậy và sau đó cũng
để tâm của con biến mất các đường nét từ ngoài vào trong. Bất cứ ở đâu có
hư không ở đó có tâm, và bất cứ ở đâu có tâm ở đó có
pháp thân ; con hãy
an định trong
trạng thái đơn thuần và
vô ngã của
pháp thân.” ÷
Trong
trạng thái này, sự
tái sanh được ngăn lại và ông ta sẽ
trở thành một vị Phật. Nhưng với những người
tu tập kém yếu và những người đã không
thuần thục trong
thiền định, họ sẽ không hiểu, và vẫn
lầm lẫn, họ sẽ lang thang vào cửa mẫu thai, cho nên những lời khai thị hướng dẫn này cho việc
đóng cửa mẫu thai là rất quan trọng. Người nên gọi tên người chết và nói những lời sau đây : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), nếu con đã không
nhận ra những gì đã xảy ra trước đây
thì giờ đây con sẽ
cảm thấy rằng con đang
di chuyển đi lên đi xuống đi qua đi lại do
nghiệp lực lôi kéo nên ngay lúc này con hãy
thiền định Đại Bi Vương, con nhớ như vậy ! ÷
“Bấy giờ, con sẽ
kinh nghiệm giống như
mô tả trước, như là gió xoáy, bão tuyết, mưa đá,
xung quanh tối đen và nhiều người
săn đuổi con và con sẽ lẩn tránh họ. Những ai khi còn sống không
tu tập công đức sẽ
cảm thấy rằng họ đang phải lẩn tránh nơi khổ đau, còn những ai có
công đức họ sẽ
cảm thấy rằng họ đang đến nơi
hoan hỷ. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), vào lúc này tất cả những biểu hiện về nơi chốn, xứ sở nơi mà con sắp
tái sanh sẽ
hiện ra, nên con hãy lắng nghe
cẩn thận không được
xao lãng bởi vì ở đây có nhiều điều
chỉ dẫn cốt lõi sâu sắc. Cho dù trước đây con đã không hiểu được những
bí quyết để
nhận biết nhưng giờ đây ngay cả một người dù
tu tập rất
yếu kém cũng sẽ
nhận ra được vào lúc này, cho nên con hãy lắng nghe. ÷
“Vào lúc này điều rất quan trọng là phải
hết sức chú ý đến
phương pháp đóng cửa lối vào mẫu thai. Có hai
phương pháp : làm dừng lại
con người đi vào mẫu thai và
đóng cửa lối vào mẫu thai sắp nhận người vào. Sau đây là khai thị
chỉ dẫn việc ngăn chặn
con người đi vào mẫu thai : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ) (tên), con hãy
quán tưởng rõ ràng vị thần nào là vị bổn tôn của con, hãy
quán tưởng vị đó như là một linh ảnh không có
tự tánh riêng, giống
như ảo huyễn hay bóng của
mặt trăng trong mặt hồ. Nếu con không có vị yidam riêng cho mình thì chính đức
Đại Bi Vương là vị yidam của con ; con hãy
quán tưởng vị yidam một
cách sinh động rõ nét. Rồi thì hãy để vị yidam biến mất các đường nét từ ngoài vào trong và con
thiền định vào linh quang-tánh
Không không hề có bất kỳ đối tượng nào của niệm. Đây là
bí quyết sâu sắc ; người ta nói rằng bằng cách đó mẫu thai sẽ không được vào, nên hãy
thiền định theo cách này. ÷
“Nhưng nếu cách này không làm dừng con được và con đích thị sắp sửa
đi vào mẫu thai thì cũng có những hướng dẫn sâu sắc về cách
đóng cửa lối vào mẫu thai sắp nhận người vào, nên con hãy lắng nghe. Con hãy lập lại theo ta những lời trích từ “Những Câu Kệ Chánh về Bardo” : ÷
Giờ đây khi bardo
thác sanh hiện lên cho tôi,
tôi sẽ
thiền định tập trung
nhất tâmvà cố kéo dài quả của
thiện nghiệp,
đóng cửa lối vào mẫu thai và nghĩ đến sự từ khước ;
đây là lúc khi mà sự
kiên trì và niềm
thanh tịnh là rất
cần thiết,
hãy
buông bỏ ganh tỵ và
thiền định vào vị thầy cùng với người
phối hợp của ngài. ÷
Con hãy nói những lời này
rõ ràng lớn tiếng và
đánh thức tâm của con ; điều rất quan trọng là
thiền định về
ý nghĩa của lời kệ đó và đưa nó vào
thực hành. ÷
“Ý nghĩa của nó như thế này : ‘Giờ đây khi bardo
thác sanh hiện lên cho tôi’ có nghĩa rằng con giờ đây lang thang trong bardo
thác sanh. Biểu hiện của sự việc đó là : nếu con nhìn vào nước con sẽ không thấy bóng của con trong nước, thân của con không có bóng. Giờ đây con không có thân
vật chất bằng thịt và máu nhưng con đang là những biểu hiện của thân
tinh thần lang thang trong bardo
thác sanh. Nên giờ đây con phải
thiền định tập trung
nhất tâm là điều quan trọng nhất. Nó giống như điều khiển con ngựa bằng dây cương. Bất cứ việc gì mà con tập
trung tâm vào đó thì nó sẽ
hiện ra cho nên con chớ nghĩ đến các
hành vi ác độc, nhưng con hãy nghĩ đến pháp, đến
giáo lý, những lúc truyền giao
tâm pháp, những xác quyết đối với
kinh điển chẳng hạn như
bộ giáo huấn “Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này mà con đã nhận được lúc còn sống và con cố kéo dài các quả của
thiện nghiệp. Điều đó rất quan trọng. Con đừng quên, con đừng phân tán
tư tưởng. Giờ phút này là điểm phân ranh giữa hai đường
đi lên và
đi xuống ; đây là lúc mà nếu con rơi vào lười biếng thậm chí chỉ trong một chốc lát con cũng phải chịu khổ đau
mãi mãi ; đây là lúc khi mà, bằng sự tập trung
nhất tâm, con sẽ được
hạnh phúc mãi mãi. Hãy
thiền định tập trung
nhất tâm, hãy
nỗ lực kéo dài các quả của
thiện nghiệp. ÷
Bây giờ đến lúc
đóng cửa lối vào mẫu thai. Lời kệ nói :
Đóng cửa lối vào mẫu thai và nghĩ đến sự từ khước ;
đây là lúc khi mà sự
kiên trì và niệm
thanh tịnh là rất
cần thiết. ÷
Giờ đây thời điểm đã tới. Trước hết lối vào mẫu thai phải nên được đóng kín, có năm
phương pháp đóng kín nó, nên con hãy thấu hiểu các
phương pháp đó. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), vào lúc này những phóng tưởng về việc đàn ông đàn bà làm tình sẽ
hiện ra. Khi con thấy những phóng tưởng đó, con đừng
đi vào giữa hai người đó, mà con hãy
thiền định về người đàn ông và người đàn bà như là vị thầy và người
phối hợp của ngài. Bằng tâm ý con hãy phục lạy
sát đất và với sự thiết tha sùng mộ con hãy
cúng dường lễ vật và khẩn cầu nghe
giáo lý ; ngay khi con tập trung
hết sức cao độ vào
ý tưởng vừa
chỉ dẫn thì lối vào mẫu thai sẽ
chắc chắn được đóng lại. ÷
“Nhưng nếu cách này không đóng được lối vào mẫu thai, và con đích thị sắp bước vào mẫu thai thì con hãy
thiền định người thầy và vị
phối hợp của ngài như là vị yidam của con, hay như là đức
Đại Bi Vương cùng với người
phối hợp của ngài và bằng tâm ý con hãy
cúng dường lễ vật dâng lên chư vị đó. Với sự sùng mộ cao độ con hãy khẩn cầu chư vị đó
ban cho con những
chứng đắc tâm linh ; điều này sẽ đưa đến việc
đóng cửa lối vào mẫu thai. ÷
“Nhưng nếu cách này vẫn không đóng được lối vào mẫu thai, và con đích thị sắp bước vào một mẫu thai thì sau đây là cách hướng dẫn thứ ba để xoay lưng tránh mặt với
đam mê và
sân hận. Có bốn cách sanh : sanh từ trứng, sanh
từ tử cung, sanh
tự nhiên (
hóa sanh) và sanh từ ẩm ướt. Sanh từ trứng và sanh
từ tử cung là tương tợ nhau. Như trên đã nói sẽ có những phóng tưởng về việc giống đực và giống cái giao hợp và nếu con vào mẫu thai do
nghiệp lực đam mê và
sân hận ở thời điểm này, con sẽ được
tái sanh làm con ngựa, con chim, con chó,
con người và
vân vân, nghĩa là bất cứ con gì có thể được. Nếu con sắp sanh ra làm con đực con sẽ có
kinh nghiệm bản thân mình là con đực, con sẽ
cảm thấy tức giận mãnh liệt với người
cha con sẽ
tham muốn ghen tuông với người mẹ. Nếu con sắp sanh ra làm con cái con sẽ có
kinh nghiệm như
bản thân là con cái, con
cảm thấy ganh tức cao độ với người mẹ và
thèm muốn mãnh liệt với người cha. Điều này sẽ khiến con vào
con đường dẫn tới mẫu thai và con sẽ
kinh nghiệm lạc thú tự hữu giữa nơi tinh trùng và cái trứng
gặp nhau. Từ
trạng thái lạc thú đó con
ngất đi và
bào thai sẽ phát triển thon tròn cứ thế lớn lên
cho đến lúc hình thành một
thân thể và ra khỏi thai của mẹ. Con sẽ
mở mắt và có thể con
trở thành một con chó con ; từ một
con người kiếp trước giờ đây con là con chó nên con sẽ chịu
đau khổ trong một chuồng chó, hay con
trở thành một con lợn con ở trong chuồng lợn hay trong một tổ kiến hay ở trong hang lỗ của con sâu hay thứ con gì khác nữa ; con có thể sanh ra là con bò con dê con cừu
vân vân. Ở đây không có sự
trở về lại ; con sẽ không ngừng
chịu đựng tất cả các kiểu khổ đau
xuất phát từ một
trạng thái vô cùng vô minh ngu độn. Vòng
luân hồi như thế này cứ
loanh quanh trong sáu cõi
sanh tử, trong
địa ngục, trong cõi quỷ đói, và
vân vân, con sẽ bị
tra tấn hành hạ bởi vô vàn khổ đau không kể hết. Không có gì mãnh liệt và
kinh khủng hơn điều này. Than ôi ! Than ôi ! Những ai không nhận được những
giáo huấn thiêng liêng của vị thầy sẽ bị rơi xuống hố sâu
thăm thẳm của
sanh tử theo lối này đây và sẽ chịu khổ đau
vĩnh viễn với những nỗi
khổ không chịu đựng nổi, cho nên con hãy lắng nghe những lời của ta, con hãy hiểu thấu đáo lời hướng dẫn này trong số những lời chỉ bày của ta. ÷
“Đây này là lời hướng dẫn để đóng kín lối vào mẫu thai bằng cách xoay lưng lại với
đam mê và
sân hận, con hãy lắng nghe, hãy thấu hiểu. Lời kệ nói : ÷
Đóng cửa lối vào mẫu thai và nghĩ đến sự từ khước ;
đây là lúc sự
kiên trì và niệm
thanh tịnh là rất
cần thiết,
hãy
buông bỏ ganh tỵ và hãy
thiền định vào vị thầy và người
phối hợp của ngài. ÷
Như trên đã nói, con sẽ có những
ý tưởng ganh tỵ ; nếu con sắp sanh ra làm con đực con sẽ yêu mến người mẹ và ghét người cha ; và nếu con sắp sanh ra làm con cái con sẽ yêu cha ghét mẹ. Cho nên vào lúc này có một sự
chỉ dẫn vi diệu. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), khi
đam mê sân hận nổi lên giống
như vầy, con hãy
thiền định theo cách sau đây : ‘Than ôi ! Tôi là một
chúng sanh với nghiệp quá xấu ác đến nỗi từ trước đến giờ tôi đã lang thang như thế này trong
sanh tử do bởi tôi bám níu vào
dục vọng và
sân hận. Bây giờ nếu tôi còn
theo đuổi thức
tình dục vọng và
sân hận giống như vậy nữa, tôi sẽ
vĩnh viễn đi lang thang trong
sanh tử, và tôi sẽ
chìm đắm vào trong sâu thẳm của
đại dương đau khổ trong
thời gian rất lâu, nên bây giờ tôi sẽ không có thức
tình dục vọng hay
sân hận nữa. Than ôi ! Giờ đây tôi sẽ không bao giờ
cảm thấy dục vọng và
sân hận lại lần nữa.’ Bằng sự tập
trung tâm của con một cách cao độ và
nhất tâm vào
ý nghĩ đó, thì chính điều đó sẽ đóng kín lối vào mẫu thai, các tantras nói như vậy. Này
thiện nam (
tín nữ), đừng để bị phân tán ; hãy tập
trung tâm của con một cách
nhất tâm. ÷
“Nhưng nếu ngay cả sau khi làm vậy, lối vào mẫu thai vẫn không được đóng lại, và con sắp vào đó, thì sau đó nó sẽ phải được đóng lại bởi lời hướng dẫn về
bản chất như huyễn, không thực của mọi sự. Con hãy
thiền định theo cách này : ‘Than ôi ! Cha và mẹ, trận bão lớn, cơn gió xoáy, cơn sấm, các phóng tưởng
đáng sợ, tất cả những
hiện tượng hiện ra nhưng chúng
không thật. Tất cả các
thể chất đều giả, và
không thật. Chúng giống như một
ảo ảnh do quáng nắng trưa hè, chúng không
thường hằng, chúng không phải là không thay đổi. Như
vậy thì ham muốn có ích gì ? Như vậy
sợ hãi có ích gì ? Chỉ vì lầm tưởng coi cái không
hiện hữu thành ra cái
hiện hữu. Tất cả những sự việc này đều là phóng tưởng của tâm con, và bởi vì
tự tâm là huyễn và không
hiện hữu từ ngay khởi thủy, vậy từ đâu bên ngoài chúng nổi lên giống như thế này ? Trước đây tôi đã không hiểu được theo cách này và do vậy tôi đã tin cái không
hiện hữu thành có
hiện hữu, đã tin cái
không thật thành ra có thật, đã tin cái huyễn thành ra cái thật ; cho nên tôi đã lang thang trong
sanh tử rất lâu rồi. Giờ đây, nếu tôi không
nhận ra rằng chúng là những thứ huyễn thì tôi vẫn sẽ
tiếp tục lang thang trong
luân hồi sanh tử lâu hơn nữa và
chắc chắn sẽ rơi vào vũng lầy
đau khổ. Giờ đây tất cả những thứ đó giống như
giấc mộng, giống như những thứ huyễn, giống như những
tiếng vang, giống như
hoa đốm giữa
hư không, giống như quáng nắng trưa hè, giống như ảnh trong gương, giống
ảo ảnh thị giác, giống như
mặt trăng dưới nước, chúng
không thật cho dù trong một chốc lát.
Chắc chắn chúng không
chân thật, chúng là giả !’ ÷
“Bằng cách tập trung
nhất tâm vào điều xác tín này thì
niềm tin của con rằng mọi sự là thật sẽ bị
tiêu hủy và nếu một người tự
đáy lòng đã tin được theo cách như
vậy thì sự tin vào cái ngã sẽ mất
hiệu lực. Và nếu tự
đáy lòng con hiểu thấu đáo sự không
chân thật như
vậy thì lối vào mẫu thai sẽ
chắc chắn bị đóng lại. ÷
“Nhưng nếu ngay cả sau khi làm như
vậy mà niềm tin rằng mọi sự là thật vẫn không bị
tiêu hủy và lối vào mẫu thai vẫn không bị đóng lại và con sắp sửa
đi vào mẫu thai thì có sự hướng dẫn
vi diệu sau đây : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), nếu sau khi làm như
vậy mà lối vào mẫu thai không bị đóng
thì giờ đây nó phải được đóng lại bởi
phương pháp thứ năm này, đó là cách
thiền định vào
linh quang ; hãy
thiền định theo cách này : ‘Tất cả các
thể chất chính là
tự tâm của tôi và tâm này là
tánh Không,
vô sanh vô ngại.’ Khi nghĩ như vậy con hãy
để tâm tự nhiên và không bị tan lỗng, tự lưu lại trong
bản tánh của chính nó như nước được đổ vào nước, đích thị là chính nó, buông lỏng, rỗng rang, thư giãn. Bằng cách để cho nó
an định một cách
tự nhiên và buông lỏng, con được
bảo đảm là lối vào mẫu thai của bốn cách sanh sẽ
chắc chắn bị đóng lại.” ÷
Nhiều cách
chỉ dẫn chân thật và
vi diệu đã được giảng trên đây để
đóng cửa mẫu thai và dù người chết là
thượng căn,
trung căn hay
hạ căn cũng không thể nào không
được giải thoát sau khi nghe. Tại sao vậy ? Trước hết, vì
tâm thức trong
trạng thái bardo có được sự
nhận biết siêu phàm về mọi sự của
thế gian, nên người chết có thể nghe những gì ta nói ; thứ hai ngay cả khi ông ta bị điếc, mù khi sống,
thì giờ đây ông có đủ
giác quan lành lặn nên ông ta
nghe được hết những gì được nói ra ; thứ ba vì bị ngập chìm trong nỗi sợ
triền miên nên giờ đây ông ta đang
suy nghĩ một cách chăm chú không phân tán để xem phải làm gì nên ông ta sẽ lắng nghe ta nói những gì ; và thứ bốn vì không có thân làm chỗ nương tựa nên
tâm thức sẽ
đi thẳng đến chỗ mà sự tập trung
thiền định nhất tâm dẫn tới, cho nên rất dễ hướng dẫn. Tâm của ông ta giờ đây
sáng suốt gấp hơn chín lần so với lúc còn sống, nên dù rằng ông ta
ngu ngốc nhưng nhờ vào
nghiệp lực nên lúc này đây tâm của ông ta trở nên
sáng suốt đến nỗi tâm đó có thể
thiền định về bất cứ điều gì được giảng ; đây là những
lý do chủ yếu. Và bởi vì lý lẽ lày mà việc
cử hành những
nghi lễ cho người chết rất có
ích lợi. ÷
Cho nên điều rất quan trọng là phải
kiên nhẫn đọc
bộ giáo huấn “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này
trong suốt chín ngày. Nếu dù ông ta không
được giải thoát ở một cách chỉ bày này thì ông ta cũng sẽ đạt
giải thoát ở một cách chỉ bày khác. Đó là
lý do tại sao không phải chỉ một mà cần nhiều cách chỉ bày. ÷
Mặc dù vậy
vẫn có nhiều hạng người đã không quen tích tập
thiện hạnh và ngay từ xa xưa, họ đã cực kỳ
gian xảo trong những
việc làm xấu xa và do
ảnh hưởng của nhiều tấm màn
vô minh dày đặc mà họ không
được giải thoát cho dù đã được chỉ bày những cách thức
thiền định nói trên nhiều lần ; nên giờ đây, nếu lối vào mẫu thai đã không đóng được thì sau đây sẽ được giảng cho nghe một sự chỉ bày
vi diệu để chọn lối vào mẫu thai. Người nên khẩn cầu chư Phật chư
Bồ tát gia hộ và lập đi lập lại
lời nguyện quy y,[23]* rồi gọi tên người chết ba lần và đọc những lời sau đây : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ) (tên), con đã chết, bây giờ hãy lắng nghe !
Mặc dầu con đã được chỉ bày nhiều lần với những lời hướng dẫn ở trên nhưng con vẫn không hiểu được nên giờ đây, nếu lối vào mẫu thai không đóng được thì đã tới lúc con nhận lấy một cái thân. Không phải chỉ có một nhưng có nhiều những
chỉ dẫn vi diệu và
chân thật để con chọn một lối vào mẫu thai, nên con hãy hiểu thấu đáo và đừng bị phân tán. Hãy lắng nghe thật rõ với sự tập trung cao độ và hãy hiểu thấu đáo. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), ở châu lục mà con sắp sanh ra những dấu hiệu và những nét đặc trưng của nơi đó sắp
xuất hiện, nên con hãy
nhận ra chúng. Hãy
xem xét kỹ nơi con sắp sanh ra và hãy chọn châu lục. ÷
“Nếu con sắp sanh ở châu lục phía đông tức là
Đông Thắng Thần Châu (Thân
Quý Tộc) con sẽ thấy sẽ thấy những con ngỗng cái ngỗng đực bơi lượn trên một cái hồ. Hãy nghĩ đến việc từ chối đi đến nơi đó.
Mặc dầu nơi đó tràn đầy
hạnh phúc nhưng không có
đạo pháp được giảng dạy, nên còn đừng vào đó. ÷
“Nếu con sắp được sanh ra ở châu lục phía nam gọi là
Nam Thiệm Bộ Châu (Đảo Táo và
Hoa Hồng) con sẽ thấy những nhà cửa rất đẹp và rất
sang trọng.
Nếu có thể được con hãy vào nơi đó. ÷
“Nếu con sắp được sanh ra ở châu lục phía tây gọi là
Tây Ngưu Hóa Châu (
Thọ hưởng những con Bò
đáp ứng điều Ước) con sẽ thấy một cái hồ với những con ngựa đực ngựa cái quanh hồ. Con đừng đến đó. Con hãy
trở lại đây. Mặc dù nơi đó tràn đầy những điều
vui thích tột độ nhưng không có
đạo pháp giảng dạy, nên con đừng vào đó. ÷
“Nếu con sắp được sanh ra ở châu lục phía bắc gọi là Bắc Cu Lô Châu (
Âm Thanh Khó Chịu) con sẽ thấy một cái hồ với
gia súc hoặc cây cối. Con hãy
nhận ra những thứ đó chính là
dấu hiệu tái sanh và con đừng vào đó.
Mặc dầu nơi đó có
đời sống trường thọ và nhiều
phước đức nhưng không có
đạo pháp giảng dạy nên con đừng vào. ÷
“Nếu con sắp sanh làm một Atula (
chư thiên ganh tỵ) con sẽ thấy những cánh rừng nhỏ
xinh đẹp hay thấy một vật dường như là những bánh xe bằng lửa đang quay tròn.
Tuyệt đối đừng vào đó, hãy nghĩ đến sự chống đối lại. ÷
“Nếu con sắp sanh ra làm một
thú vật, con sẽ thấy như là đang đi
xuyên qua những hang đá đầy sương mù và những hang lỗ
dưới đất và các chòi tranh. Con đừng vào đó. ÷
“Nếu con sắp sanh ra làm một quỷ đói, con sẽ thấy những thân cây cụt ngọn và những
hình dáng màu đen chỉa đầu nhọn lên, những động và hang cạn và những đụn đất nhỏ màu đen. Nếu
đi vào đó con sẽ sanh ra làm quỷ đói và kinh qua đủ mọi khổ đau vì đói và khát, nên
tuyệt đối đừng đi đến đó, con hãy nghĩ đến sự chống đối
hết sức cương quyết. ÷
“Nếu con sắp sanh ra làm một
chúng sanh ở
địa ngục, con sẽ nghe những
chúng sanh có
nghiệp ác hát những
bài hát, hoặc con sẽ phải
đi vào một cách bất lực, hoặc con sẽ
cảm thấy rằng con đã
đi vào một vùng đất
tối tăm, với những căn nhà có màu đen màu đỏ, những cái hố đen và những
con đường màu đen. Nếu con vào đó con sẽ vào
địa ngục và kinh qua sự
đau khổ không
chịu đựng nổi vì sức nóng và lạnh mà từ đó con sẽ không bao giờ thoát ra được. Nên con đừng
đi vào những chỗ đó,
tuyệt đối không vào, hãy
hết sức cẩn thận. Lời kệ nói : ‘Hãy
đóng cửa lối vào mẫu thai và nghĩ đến sự từ khước’, giờ đây câu kệ này là rất
cần thiết. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), cho dù con không muốn đi, nhưng
bản thân không có quyền theo ý mình, con bất lực
bị bắt phải đi. Phía sau lưng những người có nghiệp
thù oán với con sẽ rượt đuổi con, phía
trước mặt những kẻ sát nhân và những kẻ
báo thù sẽ kéo lê con đi ; bóng tối, bão biển, giông tố
dữ dội,
âm thanh gầm thét, tuyết và mưa, bão mưa đá, bão tuyết sẽ thổi
cuồn cuộn xung quanh con, và con sẽ
chạy trốn những
cảnh tượng đó. Khi
chạy trốn, con cố tìm nơi ẩn nấp con sẽ tìm được sự
an toàn trong những nhà cửa
sang trọng mô tả ở trên hay là những chỗ núp trong hang trong lỗ
dưới đất giữa cánh rừng hay là trong những khoang lỗ tròn trong các
hoa sen và
vân vân. Khi được ẩn nấp ở đó, con sợ phải ra ngoài, và con sẽ nghĩ rằng, ‘Giờ đây tôi không thể ra khỏi nơi này’, và vì nỗi sợ phải rời nơi ẩn nấp, con sẽ trở nên
ưa thích nơi đó. Con sợ phải đối mặt với những
cảnh tượng quá sức kinh hãi của bardo nếu con phải ra ngoài, con
cảm thấy sợ
quá sức những cảnh đó ; và do đó con trốn ở trong nơi ẩn nấp và con nhận lấy một cái thân, dù nó có
tồi tệ, và như vậy con sẽ kinh qua đủ mọi khổ đau. Đó là một dấu hiệu cho thấy rằng
ma quỷ và các lực
độc ác bây giờ đang
cản trở con ; ngay lúc này có một sự hướng dẫn
vi diệu, nên con hãy lắng nghe và thấu hiểu. ÷
“Ở vào thời điểm đầy những
cảnh tượng kinh hoàng lúc này khi mà con đang bất lực bị những kẻ
báo thù rượt đuổi, con nên
lập tức tập
trung quán tưởng vị Heruka
Tối thượng Thiêng Liêng (The Blessed Supeme Heruka) hay vị Hayagriva hay vị Vajrapani, hay vị yidam của con nếu có, con
quán tưởng một trong chư vị đó, có một thân mình khổng lồ, tay chân dày đặc, đang đứng trong tư thế một hung thần khủng khiếp, vị thần đó đập tan các lực
ác độc thành ra tro bụi. Nhờ
lòng từ bi và sự
ban phước của vị đó mà con rời bỏ được kẻ
báo thù, con sẽ tự mình có khả năng chọn lựa lối vào mẫu thai. Đây là
bí quyết vi diệu chân thật của lời hướng dẫn, con hãy hiểu nó thấu đáo. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), các vị trời
thiền định (the gods of meditation) và
vân vân, được sanh ra thông qua
năng lực đại định (power of samadhi). Một hạng rất đông các
linh hồn độc ác như là quỷ đói,
vân vân, đã thay đổi
thái độ trong khi ở trong
trạng thái bardo, sau đó họ có khả năng
xuất hiện trong những tướng huyễn khác nhau của
ma quỷ đói và tự
chuyển hóa ra thành ra thân
tinh thần đó. Các quỷ đói ở tận đáy
đại dương và các quỷ đói bay
xuyên qua không gian và tất cả tám mươi ngàn
các loại quyền năng bất thiện,
vân vân, đã nhận lấy thân
tinh thần đó bằng cách thay đổi
thái độ. Vào lúc này, điều tốt nhất là
thiền định Đại Ấn
tánh Không nhưng con không thể làm thế được thì con hãy
tham dự vào trò chơi phô diễn của huyễn. Nhưng nếu con cũng không thể làm như thế được nữa thì
ít nhất cũng đừng
ưa thích cái gì cả, con chỉ việc
thiền định vào vị yidam, tức là đức
Đại Bi Vương và con sẽ
trở thành một
báo thân Phật trong
trạng thái bardo. ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), nếu con phải vào mẫu thai bằng cách này thông qua
nghiệp lực,
thì giờ đây, lời hướng dẫn để chọn lựa lối vào một mẫu thai sẽ được giảng dạy. Con hãy nghe đây ! Con đừng
đi vào khi bất cứ lối vào mẫu thai nào
hiện ra. Nếu những kẻ có
thù oán trước kia đi đến, thì con hãy
thiền định ngài Hayagriva. Bởi vì giờ đây con có được một thức
siêu nhiên rất nhạy, nên con sẽ biết được tất cả những nơi chốn
luân phiên hiện ra, con hãy biết chọn nơi
thích hợp. Ở đây có hai hướng dẫn hoặc siêu sanh vào một
cõi Phật thanh tịnh hoặc chọn một lối vào mẫu thai ở cõi
sanh tử bất tịnh, cho nên hãy hành động theo hướng dẫn này : ÷
“Siêu sanh vào
cõi Tịnh Độ nơi của những khả năng
thanh tịnh, được hướng dẫn như thế này : ‘Thật buồn thay tôi vẫn ở lại trong vũng lầy
sanh tử trong
vô lượng kiếp vô thủy vô chung và trong khi không biết bao nhiêu
chúng sanh khác đã đạt
quả vị Phật thì tôi vẫn không
được giải thoát. Từ giờ phút này trở đi tôi
cảm thấy chán ghét cảnh
luân hồi sanh tử này, tôi khiếp sợ nó, tôi quá
mệt mỏi chán chường với nó rồi. Đây đã tới lúc tôi phải
thoát khỏi sanh tử, cho nên tôi phải có được sự
hóa sanh trong một
hoa sen dưới chân
đức Phật A Di Đà trong cõi
cực lạc Tây phương.’ Với
ý nghĩ như vậy, con hãy tập
trung tâm con cao độ nghĩ đến cõi
Cực Lạc Tây Phương, cốt tử là có được
nỗ lực này. Hoặc nếu con chủ động được sự tập trung
nhất tâm cao độ, không
tán loạn, hướng về bất cứ cõi nào con
mong ước như cõi
Thanh Tịnh, cõi Toàn Lạc hay cõi Được
Thỏa Mãn Sâu Sắc, hay cõi Lá Liễu hay cõi Núi Cây Cọ Dừa hay cõi Lâu Đài Ánh Sáng
Hoa Sen trong vùng Uryan thì con
lập tức được sanh về cõi đó. Hay con mong muốn đi đến nơi ngự của Ngài
Di Lặc trong cõi
Phúc Lạc thì con hãy tập trung vào
ý nghĩ như sau : ‘Ngay lúc này đây trong
trạng thái bardo đã tới lúc để tôi đi
tới nơi ngự của Ngài
Pháp Vương Di Lặc trong cõi
Phúc Lạc, nên tôi đi đây’, và con sẽ được
hóa sanh trong tim của một
hoa sen trong nơi ngự của Ngài
Di Lặc. ÷
“Ngược lại, nếu con không thể làm như vậy và mong muốn
đi vào mẫu thai hay con thấy rằng con phải vào mẫu thai thì sau đây là lời hướng dẫn để con chọn lối vào mẫu thai ở cõi
sanh tử bất tịnh, con hãy lắng nghe. Như trên, với thức
siêu nhiên, con hãy nhìn vào cõi con sắp vào đó, và con hãy vào nơi nào có pháp Phật được giảng dạy. ÷
“Nếu con sắp phải
tự nhiên sanh vào một đống phân bẩn thỉu con sẽ
nhận thấy đống phân hôi hám đó lại bốc
mùi thơm ngọït và con sẽ
cảm thấy ưa thích nó như vậy con sẽ sanh vào đống phân ; cho nên dù cho bất cứ cái gì
hiện ra con đừng
tin tưởng nó, con hãy
chấm dứt các biểu hiện
ưa thích hay căm ghét và chọn một lối vào mẫu thai. ÷
“Lại nữa, điều rất quan trọng là tập trung
suy nghĩ như thế này : ‘Tôi sẽ sanh ra làm chúa tể
vũ trụ để làm điều
tốt lành cho tất cả
chúng sanh hữu tình, hãy làm một vị
Bà la môn như một cây sala
đại thọ hay làm con của một bậc
thành tựu hay sanh vào trong một
gia đình có
dòng truyền thừa Phật pháp thuần khiết hay trong một
gia đình có cha và mẹ có
đức tin và nhận lấy một thân với nhiều
công đức để có thể làm
lợi lạc cho tất cả
chúng sanh hữu tình, tôi sẽ làm
thiện hạnh.’ Khi tập trung vào
ý nghĩ như vậy con sẽ vào mẫu thai đó. Vào lúc này con nên tôn vinh mẫu thai mà con sắp sửa vào như là một lâu đài của
chư thiên và con hãy khẩn cầu chư Phật chư
Bồ tát mười phương, các vị
hộ mệnh gia hộ cho con,
đặc biệt là
Đại Bi Vương và con
đi vào mẫu thai với lòng khao khát được trao
truyền giáo pháp. ÷
“Dưới
ảnh hưởng của nghiệp rất có thể con phạm
sai lầm khi con chọn lối vào mẫu thai theo cách này bởi vì con sẽ lầm tưởng một lối vào mẫu thai tốt thành xấu và ngược lại, cho nên lại
một lần nữa giờ đây điểm cốt yếu của lời hướng dẫn rất quan trọng, con phải biết bằng cách làm như thế này : dù cho một lối vào mẫu thai
hiện ra là tốt nhưng con đừng tin nó như vậy và dù cho nó
hiện ra là xấu con cũng đừng
cảm thấy không ưa nó.
Bí quyết chân thật,
vi diệu,
rốt ráo là nhập vào trong
trạng thái bình đẳng vô thượng (
đại tự tại) trong đó không có tốt hay xấu,
chấp nhận hay chối bỏ,
ham thích hay căm ghét.” ÷
Nhưng ngoại trừ một số ít người có
kinh nghiệm trong việc này còn thì
đa số rất khó tránh được bệnh có những
xu hướng mê lầm xấu xa, không thể dứt bỏ được sự
ham thích hay
ganh ghét theo cách đó, và sẽ nhập vào mẫu thai của những kẻ
tội lỗi độc ác,
căn cơ thấp kém nhất
tồi tệ nhất như súc vật, cho nên để
ngăn ngừa người chết làm như vậy, người nên gọi tên ông ta và đọc những lời như sau : ÷
“Này
thiện nam (
tín nữ), nếu con không biết cách chọn lối vào mẫu thai và không thể dứt bỏ sự
ham thích và
ganh ghét thì khi bất cứ
kinh nghiệm nào đã nói trên nổi lên, con hãy khấn danh xưng
Tam Bảo và nguyện
quy y vào đấy. Con hãy khẩn
cầu Đại Bi Vương. Hãy
tiếp tục làm như vậy và giữ
lòng tin. Đừng
quyến luyến bịn rịn thương nhớ họ hàng bà con bạn bè, con cái mà giờ đây con đã để lại phía sau ; họ không thể nào giúp đỡ con được. Giờ đây con hãy
đi vào ánh sáng xanh da trời của
cõi người hay ánh sáng trắng của
cõi trời, con hãy
đi vào các lâu đài
châu báu và các vườn địa đàng.” ÷
Lời hướng dẫn này cần được lập lại bảy lần. Rồi thì người hãy khẩn cầu chư Phật và chư
Bồ tát và tụng bảy lần các bài : “Cầu Nguyện Trong Bardo
Che Chở Khỏi Sợ hãi”,
bài kệ : “Những Câu Kệ Chánh về Bardo” và “Giải
Thoát Khỏi Lối Đi Nguy Hiểm của Bardo”. Rồi, người nên đọc “Giải Thoát Thông Qua Việc Giúp
Giải Thoát Các Uẩn Một Cách Tự Nhiên” và bài “Kệ
Tu tập Hàng Ngày Giúp
Giải Thoát Các
Xu Hướng Mê Lầm Một Cách Tự Nhiên” ; người nên đọc một cách
rõ ràng rành rọt. ÷
Bằng
việc làm đúng, các
hành giả có
huệ quán cao nhất (yogins of highest insight) sẽ
thực hiện sự phóng xuất
tâm thức ngay trong giai đoạn bardo vào thời điểm
đối diện cái chết, họ không phải đi lang thang trong
trạng thái bardo vì họ bỏ qua
trạng thái bardo và đạt tới
giải thoát. Thấp hơn các
hành giả này là một số ít người đã có
kinh nghiệm và
nhận ra được ‘linh quang của
pháp tánh sau giai đoạn bardo’ vào thời điểm
đối diện cái chết và họ bỏ qua bardo và trở nên một vị Phật. Từ đây trở xuống, những người sẽ
được giải thoát tương ưng với
nghiệp quả của họ vào hoặc lúc này hoặc lúc khác khi các phóng tưởng về
hình ảnh thần bình yên và thần xung nộ
hiện ra trong giai đoạn bardo
pháp tánh trong suốt các
tuần lễ tiếp theo. Bởi vì sẽ có nhiều giai đoạn nên họ sẽ
nhận ra giai đoạn nào
thích hợp và đạt tới
giải thoát. ÷
Nhưng với những ai mà quả của
thiện nghiệp yếu kém, bị nhiều bức màn
vô minh che đậy, đã làm nhiều
ác nghiệp, thì họ phải lang thang xuống dưới tới giai đoạn bardo
thác sanh ; nhưng bởi vì có nhiều cách chỉ bày khai thị giống như các bậc của một cái thang, họ sẽ
nhận ra ở thời điểm này hay ở thời điểm khác và sẽ
được giải thoát. Nhưng những ai có quả
thiện nghiệp quá
yếu kém sẽ không
nhận ra trong suốt các giai đoạn ở trên và họ
bị khuất phục bởi nỗi
sợ hãi thì có một loạt các
chỉ dẫn liên tục luân phiên về việc
đóng cửa lối vào mẫu thai và việc chọn cửa vào mẫu thai, nên họ sẽ
nhận ra ở lúc này hay lúc khác và bằng việc đặt
lòng tin trọn vẹn vào đối tượng
thiền định, họ sẽ đạt quả
công đức vô lượng,
tối thượng. ÷
Ngay cả những ai ở mức thấp nhất trong nhóm
hạ căn, thấp ngang bằng
súc sanh, cũng được mang lên lại từ nơi các cõi thấp nhờ vào
công đức quy y (vào
Tam Bảo), họ sẽ được thân người
quý báu, không bị tật nguyền, với tất cả những
cơ duyên tự do và
tốt đẹp và
trong đời tái sanh họ sẽ được gặp một minh sư, một
thiện trí thức, họ sẽ được
chỉ dẫn giáo huấn và họ sẽ
được giải thoát. ÷
Nếu người nào nhận được
bộ giáo huấn khai thị này suốt trong giai đoạn bardo
thác sanh thì quả
thiện nghiệp sẽ được kéo dài lâu hơn cũng giống như đưa một cái ống mới lót vào một ống nước bị bể. Dù là ai có
phạm tội trọng cũng sẽ không
thể không được giải thoát khi nghe luận giảng này. Tại sao như vậy ? Bởi vì
trong suốt giai đoạn bardo, sự kêu gọi
câu thúc đầy lòng từ bi của tất cả chư Phật và chư thần bình yên và xung nộ và sự lôi kéo của các
năng lực bất thiện các quỷ dữ đều xảy ra cùng nhau nên bằng việc
nghe được luận giảng này vào lúc đó thì
thái độ của họ sẽ được
tác động bởi vì thân
tinh thần không có thân bằng thịt bằng máu. Tuy dù họ đã đi lang thang xa đến đâu trong
trạng thái bardo nhưng với thức
siêu nhiên rất nhạy của nghiệp họ sẽ thấy và
nghe được và họ sẽ đến. Đây là điều cực kỳ
lợi lạc bởi vì họ sẽ hiểu ngay và tâm họ bị
tác động tức thì. Cũng giống như cái máy bắn đá hay giống như một thân cây rất to, một trăm người khiêng không nổi, nhưng nếu bỏ xuống nước thì nó rất dễ
di chuyển ngay tức khắc ; đấy cũng giống như điều khiển con ngựa bằng dây cương. ÷
Cho nên, người hãy nên tiếp cận với tất cả những ai bị chết, nếu thi thể có ở đó, một người nên đọc tập luận nhắc nhở này, lập đi lập lại nhiều lần cho tới khi máu và đờm dãi từ mũi chảy ra.
Đồng thời thi thể cần được
để yên đừng
di động. Cần chú ý những việc như sau : đừng giết
súc vật để cúng tế người chết,
bà con bạn bè không nên than khóc bên cạnh thi thể gây
ồn ào, có thể khóc ở
nơi khác ;
gia đình bà con bất kỳ ai nên làm nhiều
phước đức càng tốt cho người chết. ÷
Ngoài việc đọc
bộ giáo huấn “Đại
Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” này cần nên đọc thêm
theo sau bằng một số
giáo huấn khác nữa. Nên đọc tập luận này
liên tục, thuộc lòng
ý nghĩa mỗi chữ mỗi câu, và khi cái chết
chắc chắn sẽ xảy ra, các dấu hiệu của cái chết đã được
nhận thấy và nếu
điều kiện cho phép, người sắp chết nên tự mình đọc lớn và tập
trung tâm trí vào đó, nhưng
nếu không thể làm như
vậy thì một
sư huynh nên đọc bộ này bởi vì khi nghe những lời nhắc nhở này người sắp chết sẽ
được giải thoát, không thể
nghi ngờ.
Bộ giáo huấn này không
cần tu tập, đây là sự chỉ bày sâu sắc
giải thoát qua việc được nghe, được thấy, được đọc.
Bộ giáo huấn này rất
vi diệu, có thể dẫn dắt những kẻ
đại ác đi vào con đường thâm mật. Nếu khi
chúng ta bị bầy chó dữ rượt đuổi mà
chúng ta vẫn còn nhớ được từng lời từng nghĩa của bộ này thì
chúng ta sẽ
được giải thoát ngay trong giai đoạn bardo của thời điểm
đối diện cái chết. Ngay cả chư Phật trong
ba đời quá khứ hiện tại vị lai muốn
tìm kiếm cũng không thể tìm được một
giáo lý tốt hơn bộ giáo huấn này. ÷
“Đại Giải Thoát Thông Qua Sự Nghe” là bộ giáo huấn
về bardo, một tinh hoa vi diệu thâm mật – giáo lý
giải thoát cho con người. Bản văn quý bảo này
được bậc thành tựu giả Karma Lingpa
tìm thấy trong núi Gampodar.
Cầu mong bộ giáo huấn này
làm lợi lạc cho đạo pháp
và cho tất cả chúng
sanh hữu tình. ÷
sarvamangalam ÷