Phụ Lục :
Những Trích Dẫn
Ai có thể thực hành Bardo Thošdošl.
Bardo Thošdošl là một phần của
truyền thống mật thừa và theo nguyên tắc, nó không được
nghiên cứu và
thực hành một cách
bừa bãi (không
phân biệt). Nhưng ngược lại với những
giáo huấn Bardo Thošdošl thì ai cũng
nghiên cứu được
tử thư. (
Tử thư trang 97)[24]*
Giáo huấn Bardo Thošdošl và
đặc biệt phần
thực hành “chuyển thức” là một
con đường đã được vạch sẵn cho những xứ sở mà ở đó không có những bậc thầy
thích hợp ngay bên cạnh. (
Tử thư trang 98)
Thực hành sử dụng Bardo Thošdošl.
Bardo Thošdošl luôn nhắc nhở
cần phải nhớ lại lời
giáo huấn vị
Lạt ma lúc ta còn sống. Việc này khác hẳn với một ký ức
đơn giản.
Chúng ta phải hiểu thật rõ từng chữ, từng sắc thái, từng
ý nghĩa của văn bản. Điều đó có nghĩa là không
đơn giản chỉ
nghiên cứu giáo huấn này bằng cách đọc qua vài lần, mà phải
thực hành nó đến khi nó có thể theo
chúng ta vào cả trong giấc ngủ. (
Tử thư trang 100)
Để
thực hành được Bardo Thošdošl cũng phải có một trái tim
dũng cảm, sẵn sàng để bài tập
biến đổi mình, và nhờ
thực hành lâu dài, bài tập
trở thành một bộ phận không tách rời ta. Có thể lúc chết dù sự
sợ hãi và
đau đớn tới gần, ta vẫn
thực hiện bài tập một cách
vững vàng. (
Tử thư trang 101)
Có thể nói những dấu hiệu sau đây, nói chung,
báo trước cái chết đang
đến gần : cảm nhận cơ thể nặng hơn lúc
bình thường, môi miệng khô đi, nhiệt lượng sống rời bỏ thân,
tâm trí tối sầm, đi đến bất tỉnh.
Tâm trí đi vào vùng ánh sáng trắng mờ (như buổi chiều tà hay bình minh). Ánh sáng mờ chuyển sang màu đỏ,
tâm trí như bao một màn
tối tăm. Đó là lúc “hơi thở bên ngoài đã ngừng nhưng
hơi thở bên trong chưa chấm dứt”. (
Tử thư trang 103)
Điều cực kỳ quan trọng là người sắp chết phải nhớ lại những hành động
tốt lành của mình để có thể đến với cái chết trong một tâm trạng
tin tưởng hoàn toàn đối với
cuộc đời đã qua của mình. Lúc đó một nụ cười yên tĩnh
hiện ra trên mặt người chết và thân xác
thoải mái trên giường. Chính vì
lý do này mà người
Tây Tạng tránh sự khóc lóc và
than vãn ở trong phòng người chết.
Thân nhân thường ở xa căn phòng người chết vì khi không thể nén được sự đau buồn họ có thể gây trở ngại cho sự chuyển tiếp của người chết sang
thế giới bên kia. (
Tử thư trang 104)
Đọc Bardo Thošdošl sau khi chết.
Khi
tâm thức người chết
đi vào trạng thái trung ấm thì
thoạt đầu người chết không
biết mình đã chết. Anh ta tưởng mình còn sống và
ngạc nhiên khi thấy
thế giới xung quanh khác lạ...
Tuy nhiên thể-trí ấy vẫn còn
liên lạc với thể xác và với
nơi sinh sống trước kia. Việc đọc Bardo Thošdošl ở đầu giường người chết hay ở nơi anh ta thường sinh sống có thể làm thể-trí ấy
nghe được. (
Tử thư trang 107)
Chuyển thức. (tiếng Tây Tạng là Phowa)
Vào lúc
xuất hiện những dấu hiệu
chắc chắn của cái chết, cần làm theo những hướng dẫn của
tài liệu, thì
sự giải thoát tức thì nhờ
thực hiện cách
chuyển thức. Người nào thực sự
thấm nhuần bài tập
chuyển thức và
thực hiện một cách
hoàn hảo bài tập ấy thì có thể
chắc chắn được giải thoát trong
trạng thái trung ấm.
Chuyển thức là một bước phát triển có
ý nghĩa của việc
thiền định về đức
A Di Đà, nó là sự chuẩn bị tốt nhất cho cái chết và
trạng thái trung ấm. (
Tử thư trang 108)
Lời bình Phần thứ nhất. (Tử thư)
“Tinh hoa của tâm trí” : Khi nào những
hoạt động của
tâm trí, những cuộc đối thoại
liên tục bên trong đều trở nên
lặng lẽ, khi
tâm trí trở nên
sáng suốt và không còn một
ý nghĩa nào làm
xáo trộn nó,
lúc ấy nó mới thật
hoàn toàn sáng rỡ. Có nhiều
phương pháp để
nhận biết bản chất thật của cuộc đối thoại bên trong ấy : chẳng hạn như tập trung vào một vài âm (không phải
thần chú), vào chùm sáng tuôn trào ra... Khái niệm “tinh hoa của tâm trí” đã nói ở đây là một
cố gắng để
diễn đạt khái niệm “rang-rig” của
Tây Tạng... “Cái gọi là “Tinh hoa của tâm trí” ấy có thể nói
xuất phát từ những
phạm trù ý thức”, mặc dù nó
vượt qua những
phạm trù này. Từng-lúc-một-của-ý-thức thường xác định một vật nào đó. Chính
thiền định giải phóng ý thức khỏi sự xác định ấy, khi ấy
sức mạnh của
ý thức hướng vào
nội tâm, vào bên trong của chính nó, cái rỗng không, chính là
tinh hoa của
tâm trí. Cái nhìn
trực giác hay “nhìn sâu sắc” ấy vào tận
trung tâm sâu thẳm của
thực thể tự nó, được đạt tới vào lúc ta đóng kín
con đường của
xu hướng,
thúc đẩy ý thức chạy ra bên ngoài, về phía đối tượng. Cái nhìn sâu sắc về
tinh hoa của
tâm trí ấy không phải cái nhìn
nhị nguyên tách rời khỏi
đối tượng nhận biết và đem đặt nó
trước mặt ; đó là một sự
hiểu biết, nó cảm nhận cái
tinh hoa của đối tượng
giống hệt như tinh hoa chứa đựng trong một cái nhìn sâu sắc.
Truyền thống Tây Tạng nói rằng cái nhìn đối tượng với cái chứa đựng bên trong nó cũng giống như giọt nước rơi vào trong nước. (
Tử thư trang 138)
Khái niệm “rang-rig” cũng
mô tả cuộc khảo sát
nội tâm bằng
Thiền định hay cái nhìn sâu sắc,
đồng thời (nó) cũng
mô tả cái
tinh hoa của “Trí huệ tự nó”. (
Tử thư trang 140)
Thân thể con người có ba đường kinh
vi tế xuyên qua, một ở
trung tâm và hai đường nữa ở hai bên phải, trái. Giống như cấu trúc một cây tre, chúng có những mắt (đốt) ngang, ngăn chặn sự tuôn chảy
tự do của dòng
sinh lực, dòng
sinh lực này
liên quan mật với “hơi thở của cuộc sống” và sự
hô hấp. Trong cả cuộc sống, ba đường kinh
vi tế này được
gắn liền với nhau bằng cách không cho
sinh lực chảy
tự do. Khi chết
sinh lực được
giải phóng và chảy vào đường kinh trung ương. Như văn bản đã chỉ rõ, người ta lật nghiêng người chết lại để đường kinh trung ương
thoát khỏi sức ép của hai kinh bên.
Chuyển thức.
Lúc này ta làm cho người chết
nhận biết được thông qua việc đọc nghe những gì
xuất hiện với anh ta : lúc này Bardo thứ nhất gọi là sự chiếu sáng của
Chân lý tự nó, sự
nhận biết Thân
Hư Không (
Pháp thân) không bị
biến dạng,
xuất hiện trong
tâm trí của tất cả
chúng sanh. Chính trong giai đoạn từ lúc sự
hô hấp bên ngoài
chấm dứt đến khi
chấm dứt dòng bên trong, chính lúc này Prajna tuôn vào đường kinh trung ương. Người ta thường nói Vía hay Thức của người chết bay đi.
Thời gian của quá trình này thay đổi. Nó
tùy thuộc vào
năng lực vật chất và
tâm linh người chết cũng như
trạng thái của những đường kinh
vi tế. Đối với những người mà
tâm trí được ổn định nhờ
thực hành (Thiền) Samatha (
thiền định để trấn an những
xúc động làm
rối loạn sự
sáng suốt của
tâm trí và đưa nó vào
trạng thái ổn định) và đối với những người có đường kinh mạnh mẽ thì
thời gian này có thể kéo dài.
Vì vậy cần
tích cực ứng dụng cách nói trên
cho đến khi một chất lỏng màu vàng
xuất hiện ở các khiếu. (
Tử thư trang 146)
Cái nhìn sâu sắc về ánh sáng cơ bản.
Cái nhìn sâu sắc là sự
nhận biết tức khắc theo
nghĩa đen, tức là không qua một khâu
trung gian nào. Vậy đó là
trực giác. Cái nhìn sâu sắc cơ bản giúp người chết hiểu được ánh sáng là
tâm trí. (
Tử thư trang 152)
Yidam : vị thần “bẩm sinh” của một người, một mặt lồng vào sự
hiện hữu của người đó trong mức độ
thâm sâu nhất nhưng mặt khác lại vượt lên
con người mà vị thần đó luôn ở bên cạnh để giúp đỡ và hướng dẫn. Thần Yidam bao trùm
bản chất của
con người thấm nhuần vào
con người nhưng
đồng thời lại
vượt qua con người bởi
sự kiện Yidam
đồng thời tham gia vào cái
thiêng liêng. (
Tử thư trang 153)
Ánh sáng cơ bản sắp
xuất hiện cho người. Hãy
nhận biết nó đúng như vậy : xin người hãy
đi vào thực hành. (Chú thích : Ánh sáng cơ bản là nguồn sáng làm
xuất hiện mọi
hiện tượng,
tư tưởng,
nhận thức, tất cả
mọi vật. Đó là sự
sáng suốt của
tâm trí dưới dạng ánh sáng). (
Tử thư trang 154)
Trong
trạng thái trung ấm thứ nhất tiếp
ngay sau khi chết, ta có thể rơi vào một
trạng thái vô thức rất tệ hại, đến mức bỏ qua mất khả năng tốt nhất để có được cái nhìn sâu sắc về
bản chất thật
xuất hiện sau khi chết. Trong giai đoạn này chỉ có những người đã
trải qua quá trình
tu hành nghiêm túc và đã có
kinh nghiệm mới có thể thấy được ánh sáng cơ bản trong
toàn bộ sự
thuần khiết của nó. Họ có thể làm cho
trạng thái trên đây kéo dài rất lâu trong khi đối với những người khác, như văn bản đã nói, chỉ bằng
thời gian khảy móng tay. (
Tử thư trang 159)
Trạng thái trung ấm của bản thể. Lời giới thiệu.
Điều tốt nhất là
nhận biết ánh sáng ngay trong giai đoạn đầu tiên của
trạng thái trung ấm... Trong
trạng thái trung ấm trong giai đoạn thứ hai gọi là thân huyễn
thanh tịnh,
tâm trí rất sáng ở trong
trạng thái phân vân không biết chết hay sống. Nếu
lúc ấy người chết hiểu được
giáo huấn, anh sẽ
nhận biết chân lý Mẹ hợp nhất với
chân lý con. (Chú thích :
chân lý con là một
chứng nghiệm mà người ta có
thể đạt được lúc còn sống.
Chân lý Mẹ là
chân lý tuyệt đối không hề thay đổi theo
thời gian). (
Tử thư trang 168)
Năm Bộ Phật. (Trí Huệ và Đại Bi – Dalai Lama)
Đất, nước, lửa, gió và
không gian với
tư cách là
yếu tố căn bản của dòng sống của
con người là những cấu thể đòi hỏi được tịnh hóa để cho sự
chuyển hóa thành năm vị Phật của năm bộ. Trong tiến trình cái chết,
sắc uẩn, thân xác
vật chất của
chúng ta tan rã, trong khi một
sắc uẩn vi tế hơn
đi theo chúng ta vào
trạng thái trung ấm cho đến sự khởi đầu của đời
tiếp theo. Đến nỗi rằng nếu
chúng ta xem xét sắc uẩn mà không đặt một tấm chắn giữa mức độ
vật chất và mức độ
vi tế,
chúng ta có thể nói đến nó như một dòng chuỗi
liên tục vô thủy vô chung. Trong
phương diện đã được tịnh hóa,
sắc uẩn là Phật Vairochana (Tỳ
Lô Giá Na). Về phần
tâm thức chúng ta phân biệt nơi nó có sáu thức và năm mươi mốt
yếu tố tâm thức, trong đó gồm năm
yếu tố có khắp
năm uẩn : uẩn
cảm thọ,
hình thức tịnh hóa của nó
biểu lộ trong Ratnasambhava (
Bảo Sanh Phật) ; uẩn
phạm trù hóa (
tưởng uẩn) mà
phương diện tịnh hóa biểu hiện nơi Amitabha (
A Di Đà Phật) ; uẩn của các hành, mà
phương diện tịnh hóa
biểu lộ nơi Amoghasiddhi (
Bất Không Thành Tựu Phật) và
cuối cùng uẩn của
tâm thức bổn nguyên mà
phương diện tịnh hóa là Akshobya (
A Súc Bệ Phật). Nếu các uẩn của
chúng ta được tạo thành bằng những
phương diện thô sơ và
vi tế thì các uẩn của
đức Phật của năm bộ
đặc biệt rất
vi tế và
phi thời gian.
Cái chết trong Phật giáo Tây Tạng.
(Trí Huệ và Đại Bi – Dalai Lama, NXB. Thiện Tri Thức.)
Sự khổ đau thực sự chính là
bản chất vô thường, khổ, trống không, và không tự ngã. Có hai loại
vô thường :
hiển lộ và
vi tế. Loại
vô thường vi tế này là một
hiện tượng được các nhà
bác học biết khá rõ khi họ
nghiên cứu những tiến trình của nó trong các hạt
căn bản. Những
quan sát cho phép họ
nhận ra rằng,
trái với vẻ bên ngoài, trong một đồ vật cứng đặc như một cái bàn, ở
bề ngoài thì giống như hôm qua nhưng có những
chuyển biến liên tục ở mức độ những hạt cơ bản tạo thành vật đó. Những hạt này tan rã từng khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, cũng
y như cách
hiện hữu trong khoảnh khắc của những
tri giác bên trong của chính người
quan sát. Điều
chúng ta gọi là
vô thường vi tế là tiến trình tan rã từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, trong khi
vô thường hiển lộ nói đến sự hủy diệt của một đồ vật hay cái chết
một sinh vật.
Nó căn cứ trên
quy tắc một sự
tương tục của
tâm thức sau khi
thân thể tan rã... Khi mà
niềm tin về sự
thường hằng bị lung lay, bạn đã
giảm bớt bao nhiêu sự
luyến ái của bạn ở
cuộc đời này ;
cho đến một ngày mà
tính cách vô thường của mọi
hình thức đời sống sẽ
thấm nhuần thường trực tâm thức bạn. Từ đó, bạn biết rằng trong
bản chất tất cả đều hướng đến sự tan rã và bạn sẽ ít
thương tổn hơn trong lúc đối mặt với cái chết. (
Trí Huệ và
Đại Bi trang 225)
Khi cái chết
đến gần, cần xoay những
tư tưởng về sự
thực hành.
Tình trạng tâm thức vào giờ phút này là
quyết định cho cái
tiếp theo. Những giây phút
cuối cùng này mang một
năng lực đến nỗi
công đức có được
trong suốt cuộc đời không sánh kịp. (
Trí Huệ và
Đại Bi trang 226)
Thời gian thân thể vật chất và
tâm thức kết hợp là
đời sống, sự tách lìa chúng tạo ra cái chết. Về ba mức độ
biểu lộ của thân và tâm, tức là mức độ thô, tế và rất
vi tế, cái chết là sự chia lìa giữa
tâm thức và thân xác bởi vì không có sự chia lìa giữa
tâm thức vi tế nhất và
yếu tố vật chất vi tế nhất.
Vật chất vi tế này chỉ là
năng lực bên trong – hay khí – dùng để chuyên chở
các loại tâm thức. (
Trí Huệ và
Đại Bi trang 227)
Giáo lý Dakinis. (dịch theo nguyên bản Dakinis Teachings trang 153)
Dù có nhiều điểm
then chốt sâu xa về thân, hãy cứ
thong dong và
thoải mái như con thấy
thuận tiện. Mọi thứ được
bao gồm trong một điều
đơn giản đó.
Dù có nhiều điểm
then chốt về khẩu như
theo dõi hơi thở và niệm chú, hãy ngừng nói chuyện và cứ làm như người câm. Mọi thứ đều được
bao gồm trong một điều
đơn giản đó.
Dù có nhiều điểm
then chốt về tâm như tập trung, xả, phóng tưởng, giải tán và tập trung vào bên trong, mọi thứ được
bao gồm trong một điều
đơn giản là
để tâm trí an nghỉ trong
trạng thái tự nhiên,
thoải mái, không
nghĩ tưởng tạo tác.
“Tâm không”
hoàn toàn ở trong
trạng thái đó. Nếu người ta hỏi : “Nó không là gì cả sao ?” thì như hơi nóng trong ánh sáng
mặt trời, nó vẫn lung linh và phát sáng. Nhưng nếu được hỏi : “Nó là một vật gì ?” thì nó không màu sắc và hình dạng để
nhận ra, mà
tuyệt đối trống không và
hoàn toàn tỉnh thức. Đó là
tính chất của tâm.
Đã
nhận ra nó là như vậy để xác tín về nó thì đó là thấy (kiến). Trụ vững trong
trạng thái yên tĩnh, không
nghĩ tưởng tạo tác hay
chấp thủ, đó là
thiền định. Trong
trạng thái đó, không
tham ái, thủ hay xả, mong cầu hay lo sợ, đối với bất cứ cảm thức nào của
lục căn thì đó là hành động...
Vào lúc sắp chết con nên
thực hành như sau đây :
Bởi đất tan trong nước, thể xác trở nên nặng và không thể tự
nâng đỡ. Bởi nước tan trong lửa, miệng và mũi khô đi. Bởi lửa tan trong gió, hơi nóng
thân thể biến mất. Bởi gió tan trong
tâm thức, chỉ có
thở ra khò khè và thở vô cạn cợt. Lúc đó con có
cảm giác như bị một quả núi lớn đè, bị nhốt trong bóng tối hay bị thả rơi vào
không gian. Tất cả những
kinh nghiệm này đều có những
tiếng sấm và những tiếng rít đi kèm. Cả bầu trời sẽ sáng
rực rỡ như một tấm gấm trải rộng...
Ở lúc này, nên biết :
Cảm giác bị đè không phải bị núi đè. Đó là
tứ đại của con đang tan rã.
Đừng sợ điều này !
Cảm giác bị nhốt trong bóng tối không phải là một thứ bóng tối nào, mà đó là
ngũ giác của con đang tan biến.
Cảm giác bị thả rơi vào
không gian không phải là bị thả rơi mà đó là
tâm trí của con không còn chỗ tựa vì thể xác và
tâm trí đã chia lìa và
hơi thở của con đã tắt. Tất cả những
kinh nghiệm về ánh sáng nhiều màu như cầu vồng chỉ là những
biểu lộ tự nhiên của tâm.
Hình ảnh những vị thần hiền và dữ đều là những
hình ảnh tự nhiên của tâm con. Tất cả những
âm thanh đều là những
âm thanh của chính con. Tất cả những ánh sáng đều là ánh sáng của chính con. Đừng
nghi ngờ về điều này. Nếu con
nghi ngờ con sẽ bị ném vào
luân hồi. Đã hiểu những điều đó chỉ là sự
biểu lộ, nếu con giữ
tỉnh táo trong
tánh không quang minh thì chính trong
trạng thái đó con sẽ đạt
ba thân và
giác ngộ. Bổn tôn (deity) nội tại là sự
hộ trì hiện tiền tâm con với
chánh niệm không
xao lãng. Từ đây trở đi,
cần phải không mong cầu hay lo sợ, bám giữ hay
chấp thủ đối với các đối tượng của
lục căn cũng như đối với sự
hấp dẫn,
hạnh phúc hay
đau khổ.
Sách Giáo lý Dakinis, Padmasambhava, trang 211.
Pháp giới thể tánh trí :
tổng tướng của tất cả chư Phật tức
bản tánh bổn
hữu vô niệm của con là cái
tinh túy bổn
nguyên không điều kiện, không do tạo tác,
vô sanh, bổn lai
thanh tịnh, vượt lên trên
sanh diệt.
Đại viên cảnh trí : dù
pháp giới không có
vật chất cụ thể. Tánh chất của nó là sáng (
quang minh) và các pháp
xuất hiện như bóng trong gương, không có
tự tánh và được
nhận thức trong khi không có
nghĩ tưởng gì cả.
Bình đẳng tánh trí :
pháp giới là tánh giác tự
hiện hữu không ngừng, và
trí huệ tánh giác này không có
nghĩ tưởng.
Tri giác là
vô sanh,
bất nhị,
tuyệt đối bình đẳng.
Diệu quan sát trí : không rời
trạng thái bình đẳng không
nhị nguyên này, những đặc tánh chung và riêng của của các
pháp không trộn lẫn và
rốt ráo trọn vẹn, những tạp khí
vô minh được
tiêu diệt, và
trí huệ toàn giác phát khởi mà không có sự
phiền não của
nghĩ tưởng.
Thành sở tác trí : là an nghỉ trong khi vẫn
nhận thức như vừa nói trên.
Trí huệ không tách lìa này là để
thành tựu và
hoàn thiện lợi ích của mình và người khác một cách
tự nhiên với sự
kiên trì.
Sách Tạng thư sống chết, Sogyal Rinpoche, trang 431.
Bản chất bấp bênh chóng qua của giai đoạn
trung ấm có thể là nguồn suối cho nhiều cơ hội
giải thoát, và tính bén nhạy của tâm trong Bardo này có thể hóa ra
lợi lạc cho
chúng ta.
Chúng ta chỉ cần nhớ đến những lời giảng dạy, chỉ cần có một
tư tưởng tích cực khởi lên trong tâm ta. Nếu ta nhớ đến một
giáo lý nào gợi cho ta
tự tánh tâm, nếu ta có dù chỉ một
xu hướng tu tập, hay sự
liên hệ sâu xa với sự
tu hành, ta cũng đủ nhờ
vậy mà giải thoát... Bởi thế trong Bardo này, bất cứ khi nào bạn có thể có lại sự
tỉnh giác dù chỉ trong thoáng chốc, thì bạn hãy
lập tức nhớ lại sự
tu tập, nhớ thầy hay vị Phật mà bạn thờ, và tha thiết
triệu thỉnh. Nhờ
năng lực ân sủng của bậc thầy hay Phật, tâm bạn sẽ
được giải thoát vào
trong khoảng không gian của
tâm giác ngộ. Sự
cầu nguyện khi còn sống dường như ít
hiệu quả nhưng trong cõi Bardo lại có
hiệu quả mãnh liệt
vô cùng.
Tuy nhiên sự
mô tả trên đây về Bardo
chứng tỏ thật rất khó mà tập
trung tâm vào giai đoạn này nếu ta không
thực tập từ trước. Hãy tưởng tượng ta dường như
tuyệt nhiên không nhớ bài chú nào lúc gặp
ác mộng ta
cảm thấy bất lực như thế nào thì trong
cảnh giới Bardo cũng khó như thế,
nếu không nói là khó hơn, để tập
trung tâm ý. Đó là
lý do tử thư luôn nhắc đi nhắc lại lời : “Đừng
tán loạn, đừng
xao lãng.”
Tử thư nhấn mạnh :
Đến đây là ngả rẽ giữa Phật và
hữu tìnhTrong một giây tâm
phân biệt, trong một giây tâm
toàn giác.
Sách “Tibetan Elders” trang 173.
Một người
nhận biết khả năng
tinh thần của ông ta khi nhìn vào các
vấn đề sinh tồn : sanh, lão, bệnh, tử và biết những
vấn đề này không thể thay đổi được. Nhưng điều ông ta có thể thay đổi chính là
thái độ riêng của ông ta, cách nhìn cuộc sống riêng của ông ta. Và đó chỉ ở mức
tâm linh tối thiểu. Khi cuộc sống
tâm linh thực sự bắt đầu, ông ta trở nên
quan tâm nhiều hơn sự
tăng trưởng riêng của ông ta. Khi sự
tăng tiến xảy ra trong cõi
tâm linh, trong cõi
tâm thức, thì ông ta
mở rộng sự
quan tâm của mình – không chỉ
gia đình hạn hẹp mà
quan tâm đến cả
xã hội và đến
toàn bộ chúng sanh. Cho dù ông ta không đang làm những hạnh nghiệp thiện,
ít nhất ông ta có phút giây có một
cảm giác rằng ôi chúa ôi ! có quá nhiều
chúng sanh đang
đau khổ, và tôi có khả năng phát triển
sức mạnh tâm linh cũng như
quyền lực sao cho một ngày nào đó tôi sẽ trở nên một trong những vị thầy vĩ đại có thể giúp họ. Sự
nhận thức này phải trong khuôn khổ “Pháp”. Pháp là nguồn gốc phát triển
tâm linh.
Cuối cùng nó mở ra một sự
quan tâm và lòng
đại bi đến toàn
vũ trụ. Đó mới là
cốt lõi (trái tim) của
vấn đề tâm linh.