. Ngoài những
Ở
Việt Nam,
Phật giáo đã có mặt từ rất sớm và
đồng hành cùng dân tộc suốt chiều dài
lịch sử dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước hơn 2.000 năm qua. Từ khi được truyền vào xứ sở ta,
Phật giáo đã được
bản địa hóa và
liên tục bản địa hóa ở
Việt Nam,
trở thành một phần quan trọng
trong đời sống
tinh thần của
con người Việt.
Văn hóa Phật giáo là một bộ phận không thể chia cắt của
văn hóa Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam không chỉ mang trong mình những
tinh hoa mang tính phổ quát của
Phật giáo thế giới mà còn mang tính dân tộc của người
Việt Nam.
Thực tế lịch sử đã
chứng minh một
cách sinh động
Phật giáo đã
dung hòa,
nâng đỡ, góp phần
xây dựng nên nền
văn hóa Việt Nam có tầm vóc với những
thành tựu to lớn trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Từ phong tục tập quán,
tín ngưỡng,
lễ nghi,
lễ hội cho đến kiến trúc,
điêu khắc; từ
lịch sử,
tôn giáo,
văn học cho đến hội họa,
âm nhạc, thiền đạo… Trong đó có thể thấy được
văn học Phật giáo là lĩnh vực
đạt được nhiều
thành tựu lớn, đã
gắn bó mật thiết và
nâng đỡ đời sống tinh thần của
con người Việt Nam hơn 2.000 năm qua.
Văn học Phật giáo Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ thứ II, nếu tính từ
tác phẩm Lý hoặc luận của
Thiền sư Mâu Bác viết khoảng những năm 196-198. Trong thế kỷ thứ III, có
kinh Pháp hoa tam muội do
Thiền sư Đạo Thanh dịch;
Lục độ tập kinh,
Lục độ yếu mục, Nê-hoàn phạm bối, Cựu tạp
thí dụ kinh… do
Thiền sư Tăng Hội
biên dịch, biên soạn… Như vậy, đến đầu thế kỷ XXI,
văn học Phật giáo Việt Nam đã
trải qua ngót 2.000 năm và
đạt được nhiều
thành tựu rực rỡ. Với bề dày
lịch sử như thế, từ đầu thế kỷ XX
đến nay, cùng với quá trình
hiện đại hóa nền
văn học nước nhà,
văn học Phật giáo Việt Nam được nhiều nhà
nghiên cứu văn học nói chung,
văn học Phật giáo nói riêng chú ý, đã cho ra đời nhiều
công trình nghiên cứu có chất lượng, cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Các hướng nghiên cứu văn học Phật giáo Việt Nam từ trước đến nay
Theo các nhà
nghiên cứu văn học Phật giáo Việt Nam có
uy tín hiện nay như
Nhất Hạnh, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Nguyễn Huệ Chi, Huỳnh Như Phương, Đoàn Thu Vân, Nguyễn
Kim Sơn, Nguyễn
Công Lý, Nguyễn Hữu Sơn, Đoàn Lê Giang, Nguyễn Phạm Hùng…, các
công trình nghiên cứu từ trước
đến nay thường được
triển khai theo mấy hướng sau đây:
Một là hướng
nghiên cứu văn học Phật giáo từ góc độ mỹ học thiền. “Dĩ thiền luận thi” đã có
truyền thống lâu đời ở phương Đông, điển hình là
tác phẩm Văn tâm điêu long của
Thiền sư Tuệ Địa,
tục danh Lưu Hiệp.
Nghiên cứu văn học Phật giáo nói chung,
văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng từ góc độ mỹ học thiền, triết
lý thiền là một hướng
khả quan, nhiều
triển vọng, mở ra một chân trời vô hạn cho các nhà
nghiên cứu phê bình văn học, nhất là các nhà
nghiên cứu là
thiền sư, Tăng sĩ
Phật giáo, trong đó có
chúng tôi.
Chúng tôi tạm gọi đây là hướng
nghiên cứu mỹ học thiền.
Hai là hướng
nghiên cứu tác phẩm văn học Phật giáo. Hướng này tập trung và tổng hợp được
trí tuệ của nhiều nhà
nghiên cứu, nhiều
tuyệt tác, nhiều
tác phẩm tiêu biểu văn học Phật giáo Việt Nam được
nghiên cứu và
giới thiệu một cách kỹ lưỡng,
đạt được nhiều kết quả
khả quan.
Ba là hướng
nghiên cứu tác gia văn học Phật giáo. Cũng như hướng
nghiên cứu tác phẩm văn học, hướng này được chú ý khá sớm. Nhiều
tác gia tiêu biểu của nền
văn học Phật giáo Việt Nam được
nghiên cứu và
giới thiệu trong bối cảnh chung với các
tác gia văn học cổ-trung đại
Việt Nam. Hướng
nghiên cứu này cũng đã
đạt được nhiều
thành tựu khả quan.
Bốn là hướng
nghiên cứu văn bản
văn học Phật giáo. Có thể nói đây là một hướng
đạt được nhiều
thành tựu khả quan. Song song với việc sưu tầm, dịch thuật,
giới thiệu các
tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam thời cổ-trung đại, nhất là các
tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Nôm thời Lý-Trần, các
tác phẩm văn học Phật giáo được
quan tâm nghiên cứu,
giới thiệu một cách
đặc biệt.
Thành tựu nổi bật theo hướng này có thể kể đến nhà
nghiên cứu Lê Mạnh Thát.
Năm là hướng
nghiên cứu diện mạo và
đặc điểm văn học Phật giáo. Hướng này được các nhà
nghiên cứu triển khai từ những năm đầu của nửa sau thế kỷ XX, nhằm xác định những đặc trưng riêng của
văn học Phật giáo trong một
thời kỳ, một giai đoạn
lịch sử nhất định. Một trong những gương mặt khá
tiêu biểu cho hướng này là Nguyễn
Công Lý.
Sáu là hướng
nghiên cứu ngôn ngữ và thể loại
văn học Phật giáo. Hướng này
gần đây được chú ý nhiều hơn, tập trung đi sâu vào
khám phá những
giá trị nghệ thuật của
văn học Phật giáo Việt Nam, những đóng góp về mặt
hình thức nghệ thuật của
văn học Phật giáo vào sự phát triển của nghệ thuật
ngôn từ cho nền
văn học Việt Nam. Nguyễn Phạm Hùng, Nguyễn Hữu Sơn là những nhà
nghiên cứu khá
ấn tượng của hướng
nghiên cứu này.
Bảy là hướng
nghiên cứu văn học sử Phật giáo. Đây là một trong những hướng được các nhà
nghiên cứu chú ý rất sớm từ nửa đầu thế kỷ XX,
lúc ấy văn học Phật giáo Việt Nam chưa được nhìn nhận như một nền
văn học, một dòng
văn học, một bộ phận
văn học riêng biệt, nên chưa
đạt được nhiều kết quả
đáng kể.
Cho đến nay, hướng
nghiên cứu văn học sử đối với
văn học Phật giáo Việt Nam chưa được đầy đủ và
toàn diện, còn rất nhiều lỗ hổng, khiếm khuyết, chưa chỉ ra được sự
vận động, phát triển,
biến đổi của
bản thân nó qua
lịch sử, chưa chú ý đến
tính thống nhất và
toàn vẹn của
văn học Phật giáo Việt Nam.
Từ sự khái quát về các hướng
nghiên cứu văn học Phật giáo Việt Nam từ trước
đến nay kể trên,
chúng ta có thể thấy được tuy mỗi hướng đều có thế mạnh riêng,
sở trường riêng và đã
đạt được những
thành tựu nhất định, nhưng đều là những
nghiên cứu được tiến hành trong
trạng thái “tĩnh”,
nghiên cứu từng phần, từng bộ phận tách rời nhau, những
hiện tượng biệt lập
với nhau, nhất là chưa xem
văn học Phật giáo Việt Nam như là một đối tượng
nghiên cứu độc lập nên sự
thiếu sót và
phiến diện là khó
tránh khỏi.
Hiện nay, với
điều kiện khá
thuận lợi về nhiều mặt,
chúng ta có thể
nghiên cứu văn học Phật giáo Việt Nam một cách đầy đủ và
toàn diện hơn.
Hiện có nhiều
công trình nghiên cứu có số lượng lớn, quy mô rộng,
hình thức đa dạng,
phong phú. Lực lượng
tri thức trong
Phật giáo và ngoài
Phật giáo tham gia nghiên cứu ngày càng đông đảo và chuyên nghiệp.
Văn học Phật giáo nói chung,
văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng
trở thành một đối tượng
nghiên cứu độc lập của ngành
nghiên cứu văn học.
Phạm vi nghiên cứu ngày càng được
mở rộng hơn, đa dạng hơn từ nội dung
tư tưởng đến
hình thức nghệ thuật; từ các
tác gia,
tác phẩm cụ thể cho đến các khuynh hướng, các giai đoạn
văn học, các
vấn đề lý thuyết,
lý luận. Đáng chú ý là các
công trình nghiên cứu cấp
quốc gia, các
luận án, luận văn được
thực hiện trên cơ sở
nghiên cứu văn học Phật giáo ngày càng nhiều hơn, chất lượng hơn.
Vấn đề khái niệm văn học Phật giáo Việt Nam
Nhiều nhà
nghiên cứu, từ những góc nhìn khác nhau, đã đưa ra khái niệm về
văn học Phật giáo khác nhau; và
cho đến nay, chưa có một định nghĩa đầy đủ và hoàn chỉnh về
văn học Phật giáo được tất cả các nhà
nghiên cứu chấp nhận.
Tuệ Sỹ cho rằng: “
Sơ khởi văn học Phật giáo không từ chối vai trò truyền đạo của nó. Tức là chân lý của tôn giáo này, tùy từng trường hợp được phô diễn tự do trong mọi thể tài văn học, và coi văn học chỉ như một phương tiện thứ yếu không quan trọng bằng nội dung. Nhưng chân lý ở đây mang tính cách nội tại và cá biệt nơi mỗi người, do đó, sự phô diễn của nó cũng bắt đầu như sự bắt đầu của một tác phẩm văn học. Nghĩa là, khởi đi từ cảm hứng bộc phát trước một thế giới của kinh nghiệm tâm linh Phật giáo. Hơn nữa, trên khía cạnh tôn giáo, chân lý được chứng ngộ là phản ánh một thế giới sống động. Trên phương diện diễn đạt của văn học là cảm hứng tự phát của một tình tự cá biệt. Do đó, lấy tính Không làm chất, lấy thế giới trùng trùng vô tận làm văn. Văn và chất phản chiếu lẫn nhau tạo thành thế giới toàn diện của văn học Phật giáo”. (Tuệ Sỹ, Dẫn vào
thế giới văn học Phật giáo/ thuvienhoasen.org).
Theo quan niệm Nguyễn Phạm Hùng,
văn học Phật giáo là:
- Một dòng
văn học có
đặc điểm riêng về nội dung và nghệ thuật, nhưng không khép kín tự thân trong
trong đời sống
Phật giáo mà có mối quan hệ
mật thiết, thậm chí có khi hòa hỗn với các dòng/bộ phận
văn học khác và với cuộc sống
trần thế.
- Một dòng
văn học không chỉ được hiểu như
sự thể hiện
giáo lý,
phát biểu cho
giáo lý, hay
tương ứng với
giáo lý,
nhận thức giáo lý, hay cuộc sống
tu hành mà
gắn bó máu thịt với những
vấn đề của cuộc sống
con người mang tính
lịch sử cụ thể.
- Một dòng
văn học thuộc cả về
văn chương bình dân lẫn
văn chương bác học, cung đình, phản ánh
đời sống tâm hồn,
đời sống tinh thần của nhiều tầng lớp
xã hội trong những
hoàn cảnh cụ thể.
- Một dòng
văn học không chỉ
phi ngã, mà còn hữu ngã, phản ánh
đời sống tâm hồn,
tư tưởng tình cảm của
con người với những
đặc điểm riêng về nội dung
tư tưởng và
hình thức nghệ thuật.
Với cách hiểu như trên,
tác giả đã đưa ra khái niệm: “
Văn học Phật giáo là khái niệm chỉ toàn bộ những tác phẩm văn học viết về đời sống Phật giáo, hay mang cảm hứng Phật giáo khi phản ánh cuộc sống hiện thực. Những đặc điểm Phật giáo là yếu tố chi phối quan trọng nhất đối với toàn bộ quá trình sáng tạo văn học, từ lực lượng sáng tác (Thiền sư, người am hiểu yêu mến đạo Phật) đến mục đích sáng tác (ngộ đạo, thể nghiệm, truyền đạo hay bộc lộ thái độ, tâm trạng, tình cảm, Phật giáo đối với cuộc đời);từ nội dung tư tưởng (chủ đề, đề tài, cảm hứng sáng tác) đến các hình thức nghệ thuật (trong việc lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ Phật giáo, các thể loại và biện pháp nghệ thuật có yếu tố Phật giáo thích hợp); từ quá trình mã hóa đến quá trình giải mã nghệ thuật của văn học Phật giáo”. (Nguyễn Phạm Hùng,
Văn học Phật giáo Việt Nam, NXB.ĐHQG, 2015, tr.50).
Liên quan đến vấn đề khái niệm
văn học Phật giáo, Nguyễn
Công Lý cho rằng: “
Về nội dung những tác phẩm văn học Phật giáo phải trực tiếp hay gián tiếp thể hiện tư tưởng giáo lý nhà Phật, đề cập đến Phật hay có liên quan đến nhà chùa. Có khi những tác phẩm đó mang nội dung bài xích Phật giáo, chống lại nhà chùa nhưng vẫn được nhà chùa chấp nhận. Về hình thức tồn tại, những tác phẩm này hiện còn trên bia đá, chuông đồng, trên các bản ván, các bộ thực lục, ngữ lục, thiền phả… Về hình thức thể loại, đây là những tác phẩm mang tính chức năng lễ nghi tôn giáo là chủ yếu và được nhà chùa sử dụng nhiều như kệ, thơ thiền, ngữ lục, tụng cổ, niệm tụng kệ, luận thuyết triết lý, bi, minh, ký, truyện. Về ngôn ngữ thể hiện, những tác phẩm trên, ít nhiều đã sử dụng các thuật ngữ, những khái niệm của nhà Phật. Về tác giả, không chỉ riêng là sáng tác của các Thiền sư, mà còn của vua, chúa, quý tộc quan lại, nhà Nho có tu thiền, chịu ảnh hưởng đạo Phật và ít nhiều những tác phẩm đó mang cảm quan thiền học” (Nguyễn
Công Lý,
Văn học Phật giáo thời Lý Trần - diện mạo và
đặc điểm, NXB.ĐHQG, 2003, tr.106).
Kế thừa thành tựu của những nhà
nghiên cứu đi trước,
chúng tôi cho rằng:
Văn học Phật giáo là một khái niệm dùng để chỉ
toàn bộ những
tác phẩm văn học viết về
đời sống nhân sinh mang
cảm quan Phật giáo khi phản ánh
hiện thực cuộc sống, nó
phát khởi từ trái tim
từ bi,
soi sáng bằng
tuệ giác, hướng đến
mục đích giác ngộ cuối cùng.
Như vậy,
văn học Phật giáo Việt Nam là một khái niệm chỉ
toàn bộ các
tác phẩm văn học Phật giáo, viết về
đời sống nhân sinh, mang
cảm hứng Phật giáo với đặc chất
giải thoát khi phản ánh mọi mặt của cuộc sống
hiện thực do người
Việt Nam sáng tác trong suốt 2.000 năm qua.
Phân kỳ văn học Phật giáo Việt Nam Trong các bộ
lịch sử văn học Việt Nam từ trước
đến nay, phần
văn học viết
Việt Nam thường chỉ bắt đầu từ cái mốc nửa đầu thế kỷ thứ X, còn phần
văn học viết
Việt Nam trước thế kỷ thứ X không được nói đến.
Phải chăng, do
văn học thời kỳ này chủ yếu là của nhà chùa, tức thuộc
văn học Phật giáo. Một minh chứng xác thực là, trong bộ Tổng tập
văn học Việt Nam chọn bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt làm năm 1077 làm
tác phẩm đầu tiên (tr.215, NXB.KHXH, 1997).
Chúng tôi cũng thống nhất với một số nhà
nghiên cứu văn học Phật giáo đi trước như Nguyễn
Công Lý, Thích Phước Đạt trong cách phân kỳ
văn học Phật giáo Việt Nam như sau:
Văn học Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến đầu thế kỷ thứ X
Văn học Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn này thường được gọi là
văn học Phật giáo Việt Nam thời Bắc thuộc.
Kế thừa những
thành tựu của các nhà
nghiên cứu đi trước,
chúng ta có thể thấy các
tác giả và
tác phẩm tiêu biểu trong
thời kỳ này như:
Thiền sư Mâu Bác có
tác phẩm Lý hoặc luận;
Thiền sư Tăng Hội có
Lục độ yếu mục,
Lục độ tập kinh, Cựu
tạp thí dụ kinh,
Nê hoàn phạm bối...;
Thiền sư Đạo Thanh
dịch kinh Pháp hoa tam muội; Chí Hàm có
tác phẩm Triệt tâm ký; Đạo Cao,
Pháp Minh và Lý Miễu với cuộc
tranh luận về
Phật pháp qua Sáu bức thư; Đạo Cao có Tá âm, Tá âm tự, Đạo Cao
pháp sư tập;
Pháp Hiền có
bài kệ truyền pháp;
Đại Thừa Đăng có
tác phẩm Thương Đạo
Hy pháp sư; thi kệ và
ngữ lục của
Thiền sư Thanh Biện,
Định Không,
Cảm Thành,
Thiện Hội,
Vân Phong,
La Quý An...
Văn học Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần
Trước đây,
văn học Phật giáo Việt Nam giai đoạn này thường được gọi là
văn học Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV.
Cụ thể, đây là một khái niệm dùng để chỉ một
thời đại lịch sử gần năm trăm năm tính từ khi vua Ngô Quyền chiến
thắng quân Nam Hán giành lại
độc lập năm 938,
trải qua các
triều đại: Ngô (939-965), Đinh (968-980), Tiền Lê (981-1009), Lý (1009-1225), Trần (1225-1400), Hồ (1400-1407),
Hậu Trần (1407-1413), trong đó hai
triều đại Lý và Trần
tồn tại dài lâu, viết nên những trang sử vàng của dân tộc
Việt Nam.
Thời này có nhiều
tác gia và
tác phẩm lớn,
tiêu biểu như
tác phẩm Quốc tộ của
Pháp Thuận, Cáo tật
thị chúng của
Mãn Giác,
Thị tịch của
Vạn Hạnh, Tham đồ hiển quyết của
Viên Chiếu, Khóa hư lục của
Trần Thái Tông,
Thượng Sĩ ngữ lục của
Tuệ Trung Thượng Sĩ, Cư trần
lạc đạo phú, Đắc thú
lâm tuyền thành đạo ca của
Trần Nhân Tông,
Thị tịch của
Pháp Loa, Vịnh Vân Yên tự phú, Diên hựu tự của
Huyền Quang, Đề Gia Lâm tự của Trần Quang Triều…
Văn học Phật giáo Việt Nam thời Lê - Nguyễn Trước đây các nhà
nghiên cứu thường gọi giai đoạn này là
văn học Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX. Đây là một khái niệm dùng để chỉ một giai đoạn
lịch sử kéo dài hơn năm trăm năm, tính từ khi Lê Lợi khởi nghĩa tại Lam Sơn vào năm 1416
cho đến cuối thế kỷ XIX,
trải qua các
triều đại: Hậu Lê sơ (1428-1527), Mạc (1527-1592 và 1592-1667 ở Cao Bằng), Lê
Trung Hưng (1533-1788), Tây Sơn (1789-1802), Nguyễn (1802-1945).
Các
tác gia Thiền sư với các
tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này là:
Minh Châu Hương Hải có Toàn tập
Minh Châu Hương Hải;
Chân Nguyên có
Chân Nguyên Thiền sư toàn tập,
Thiền tông bản hạnh; Toàn Nhật có Toàn
Nhật Quang Đài toàn tập, Hứa Sử truyện vãn; Hải Lượng Ngô Thì Nhậm cùng các
đạo hữu có
Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh; Thi kệ,
ngữ lục của các
Thiền sư Thiền
Liễu Quán,
Nguyên Thiều, v.v… Các
tác gia thế tục như Nguyễn Trãi với một số bài viết về
Phật giáo trong Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập;
tác gia Lê Thánh Tông với
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Thánh Tông di thảo, Hồng Đức quốc âm thi tập;
tác gia Nguyễn Bỉnh Khiêm với
Bạch Vân thi tập,
Bạch Vân quốc ngữ thi tập.
Tác gia Nguyễn Gia Thiều với Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Du với Truyện Kiều,
Văn tế thập loại chúng sinh, Lương
Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài; Nguyễn Công Trứ với Vịnh Phật, Chu Mạnh Trinh với
Hương sơn phong cảnh ca, Nguyễn Khuyến với Vịnh sư…
Văn học Phật giáo Việt Nam thời cận hiện đại (Thế kỷ XX-XXI)
Như
chúng ta đã biết cuối thế kỷ XIX, nhất là ba mươi năm đầu thế kỷ XX,
văn học Việt Nam đang trong tiến trình
hiện đại hóa
văn học, từ
phạm trù văn học trung đại chuyển sang
phạm trù văn học hiện đại.
Thời kỳ này có nhiều
tác gia, nhiều
tác phẩm lớn, rất cần có nhiều
nghiên cứu một cách đầy đủ và
toàn diện hơn.
Các
tác gia Thiền sư tiêu biểu trong giai đoạn này là Thích
Nhất Hạnh, Thích Thanh Từ, Thích
Minh Châu, Thiện Chiếu,
Trí Hải, Bích Liên, Liên Tôn, Tố Liên,
Viên Thành, Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát… Một trong những
tác phẩm tiêu biểu nhất của
văn học Phật giáo hiện đại là
tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thích
Nhất Hạnh.
Các
tác gia thế tục như Trần Trọng Kim, Trần
Văn Giáp, Nguyễn
Văn Tố Dương Bá Trạc, Nguyễn Trọng Thuật, Lê Đình Thám, Bùi Kỷ,
Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Võ Đình Cường, Đoàn Trung Còn, Thiều Chửu, Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Huỳnh Như Phương…
Một
vấn đề không
thể không nhắc đến là không ít người nghĩ rằng, nền
văn học Phật giáo nói chung,
văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng, hình như chẳng
dính dáng gì đến
con đường đạt đến chân lý,
thành tựu trí tuệ giác ngộ, vượt thoát mọi nỗi khổ đau trong kiếp sống
nhân sinh,
luân hồi vô tận. Đôi khi nói còn là
nguyên nhân dẫn dắt
con người theo tình thường mê đắm khổ đau.
Như
chúng ta biết,
Phật giáo Thiền tông quan niệm “Ngôn ngữ đạo đoạn”, mọi
ý nghĩa của
ngôn ngữ, nhất là
ngôn ngữ nghệ thuật không
vượt qua giới hạn của
tri thức thường nghiệm, đương
nhiên không thể
diễn tả trọn vẹn chân lý tuyệt đối được. Đúng là
ngôn ngữ và
biểu tượng trong tính ước lệ của nó,
mãi mãi không thể là
bản thân của
chân lý tuyệt đối đích thực, nhưng có thể từ ngay nơi
ngôn ngữ và
biểu tượng mà
thể nhập chân lý, nương nơi
ngôn ngữ và
biểu tượng mà
trực nhận ra
sự thật. Đây chính là cơ sở
lý thuyết của
văn học Phật giáo nói chung,
văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng.
Thực tế đã
chứng minh, những lời dạy của
Đức Phật được ghi chép lại trong kho tàng
văn học kinh điển Phật giáo cũng như “ngón tay chỉ trăng” chứ không phải
bản thân mặt trăng vậy.
Hình như “Các
tác phẩm văn học Phật giáo đều lưu xuất từ thể tâm
vi diệu, biểu
hiện thành muôn hình vạn trạng
hình tượng, khơi nguồn
diệu dụng của
tuệ giác,
hóa thân thành
ngôn ngữ,
hình tượng, tạo nên
một thế giới văn chương muôn màu muôn vẻ,
vô cùng,
vô tận,
vi diệu và kỳ bí đầy sức tươi mới và
hấp dẫn của
thế giới văn học Phật giáo”. [Thích Hạnh Tuệ (2018),
Văn học Phật giáo Việt Nam - một hướng tiếp cận, NXB.KHXH].
Và như thế, cánh cửa “không cửa” của
thế giới văn học Phật giáo luôn chào đón tất cả
mọi người bước vào
khám phá.