Phần 11

04/06/201112:00 SA(Xem: 8048)
Phần 11

THIỀN SƯ VIỆT NAM

Hoà Thượng Thích Thanh Từ
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh 1992

Thiền Sư HUYỀN QUANG
(1254 - 1334)-(Tổ thứ 3, phái Trúc Lâm)

Sư tên Lý Đạo Tái, sanh năm Giáp Dần (1254) ở làng Vạn Tải thuộc lộ Bắc Giang. Thân phụ là Huệ Tổ dòng dõi quan liêu, nhưng đến đời ông thì không thích công danh, chỉ ưa ngao du sơn thủy. Tuy có công dẹp giặc Chiêm Thành, mà ông không nhận chức quan. Thân mẫu họ Lê là người hiền đức

Nhà Sư ở phía nam chùa Ngọc Hoàng. Năm Sư sanh, một hôm thầy trụ trì chùa Ngọc HoàngThiền sư Huệ Nghĩa, tối tụng kinh trên chùa xong, xuống phòng ngồi trên ghế trường kỷ, chợt ngủ quên mộng thấy trên chùa đèn đuốc sáng trưng, chư Phật tụ hội đông vầy, Kim Cang Long Thần chật nứt, Phật chỉ tôn giả A-nan bảo: “Ngươi thác sanh làm pháp khí cõi Đông.” Chợt có ông đạo gõ cửa, Ông chợt tỉnh giấc, làm bài kệ viết trong vách chùa:

 Người mà vì đạo chớ tìm đâu
 Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu
 Mộng thấy điềm lànhảnh hưởng
 Đời này ắt gặp bạn tâm đầu.
 (Nhân chi vị đạo khởi tha tầm
 Tâm tức Phật hề Phật tức tâm
 Tuệ địch kiết tường vi ảnh hưởng
 Thử sanh tất kiến hảo tri âm.)

Thuở nhỏ Sư dung nhan kỳ lạ, ý chí xa vời, cha mẹ mến yêu dạy các học thuật. Sư học một biết mười, biện tài hiển Thánh. Niên hiệu Bảo Phù thứ hai (1274), đời vua Trần Thánh Tông, Sư thi đỗ Tiến sĩ (Trạng nguyên), lúc ấy được 21 tuổi. Cha mẹ tuy đã định hôn cho Sư, nhưng chưa cưới. Sau khi thi đậu, nhà vua gả công chúa cho, Sư vẫn từ chối.

Sư được bổ làm quan ở Hàn lâm viện và phụng mạng tiếp đón sứ Trung Hoa. Văn chương ngôn ngữ của Sư vượt hơn sứ Trung Hoa, khiến họ phải nể phục.

Một hôm, Sư theo vua Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Phụng Nhãn nghe Thiền sư Pháp Loa giảng kinh, Sư chợt tỉnh ngộ duyên trước, khen ngợi quí mến, tự than: “Làm quan được lên đảo Bồng, đắc đạo thì đến Phổ Đà, đảo trên nhân gian là bậc tiên, cảnh giới Tây thiêncõi Phật. Sự giàu sang phú quí như lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên mến luyến ?”

Sư mấy phen dâng biểu xin từ chức để xuất gia tu hành. Chính nhà vua rất mến trọng Phật giáo, nên sau cùng mới cho. Đến niên hiệu Hưng Long thứ mười ba (1305), Sư xuất gia thọ giới tại chùa Vĩnh Nghiêm, theo làm thị giả Điều Ngự, được pháp hiệuHuyền Quang.

Niên hiệu Hưng Long thứ mười bảy (1309), Sư theo hầu Pháp Loa y theo lời phó chúc của Điều Ngự. Năm Đại Khánh thứ 4 (1317), Sư được Pháp Loa truyền y của Điều Ngự và tâm kệ. Sư vâng lệnh trụ trì chùa Vân Yên trên núi Yên Tử. Do Sư đa văn bác học, tinh thâm đạo lý, nên học đồ bốn phương nghe danh tụ hội về tham vấn thường xuyên không dưới ngàn người.

Sư thường phụng chiếu đi giảng kinh dạy các nơi và tuyển Chư Phẩm Kinh, Công Văn v.v... Những khoa giáo trong nhà thiền mỗi mỗi đều phải qua tay Sư cả.

Ngày rằm tháng giêng năm Quí Sửu (1313) vua Anh Tông mời về kinh ở chùa Báo Ân giảng kinh Lăng Nghiêm. Sau đó, Sư dâng chiếu xin về quê thăm viếng cha mẹ. Nhân đây, lập ngôi chùa phía tây nhà Sư để hiệu là chùa Đại Bi.

trở về chùa Vân Yên, lúc đó đã 60 tuổi. Nhà vua muốn thử lòng Sư nên cho Thị Bích là một cung nhân tìm cách gần Sư để lấy bằng chứng đem về dâng vua. Thị Bích dùng man kế gợi lòng từ bi của Sư, rồi về tâu dối với vua. Vì thế, Sư bị tai tiếng không tốt. Nhưng sau cuộc lễ chẩn tế của Sư, thấy những sự linh nghiệm lạ thường, nhà vua không còn nghi ngờ. Vua liền phạt Thị Bích làm kẻ nô bộc quét chùa trong cung Cảnh Linh ở nội điện.(Một thiền sư ngộ đạo, đã 60 tuổi mà nghi ngờ về tình dục là điều không bao giờ có. Song vì thấy trong sử chép, buộc lòng chúng tôi phải tóm lược nêu ra.)

Sau, Sư trụ trì ở Thanh Mai Sơn sáu năm. Kế sang Côn Sơn giáo hóa đồ chúng. Đến ngày 23 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Sư viên tịch tại Côn Sơn, thọ 80 tuổi.

Vua Trần Minh Tông phong thụy là Trúc Lâm Thiền Sư Đệ Tam Đại, đặc phong Từ Pháp Huyền Quang Tôn Giả.

Những tác phẩm của Sư:
 - Ngọc Tiên Tập
 - Chư Phẩm Kinh
 - Công Văn Tập
 - Phổ Tuệ Ngữ Lục.
*
* *
PHỤ BẢN
1. CÚC HOA
 Vong thân vong thế dĩ đô vong
 Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
 Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
 Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.
Dịch: HOA CÚC
 Bẵng quên thân thế chẳng hề vương
 Lặng lẽ ngồi lâu lạnh thấu giường
 Năm hết trong non không sẵn lịch
 Nhìn xem cúc nở biết trùng dương (Ngày 9 tháng 9 âm lịch gọi là tiết trùng dương)
2. SƠN VŨ
 Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha
 Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la
 Dĩ thị thành thiền tâm nhất phiến
 Cung thanh tức tức vị thùy đa.
Dịch: CHÙA NÚI
 Gió thu đêm vắng thổi hiên ngoài
 Chùa núi im lìm gối cỏ may
 Đã được thành thiền tâm một khối
 Rè rè tiếng dế gọi kêu ai ?
3. THẠCH THẤT
 Bán gian thạch thất hòa vân trụ
 Nhất lĩnh thuế y kinh tuế hàn
 Tăng tại thiền sàng kinh tại án
 Lô tàn cốt đốt nhật tam can.
Dịch: THẤT ĐÁ
 Nửa gian nhà đá lẫn trong mây
 Một mảnh áo lông trải tháng ngày
 Tăng ở trên giường, kinh tại án
 Lò hương tàn lụn, mặt trời lên.
4. TẶNG SĨ ĐỒ TỬ ĐỆ
 Phú quí phù vân trì vị đáo
 Quang âm lưu thủy cấp tương thôi
 Hà như tiểu ẩn lâm tuyền hạ
 Nhất tháp tùng phong, trà nhất bôi.
Dịch: TẶËNG CON EM LÀM QUAN
 Giàu sang mây nổi đến dần dà
 Ngày tháng trôi nhanh chẳng đợi mà
Chi bằng tiểu ẩn nơi rừng suối (Tiểu ẩn là ở nơi rừng núi, trung ẩn là làm quan nhỏ, đại ẩn là ở triều đình.) 
 Một giường gió mát, một chung trà.
5. AN TỬ SƠN CƯ AM
 Am bức thanh tiêu lãnh
 Môn khai vân thượng tầng
 Dĩ can Long Động nhật
 Do xích Hổ Khê băng.
 Bảo chuyết vô dư sách
 Phù suy hữu sấu đằng
 Trúc Lâm đa túc điểu
 Quá bán bạn nhàn tăng.
Dịch: Ở AM YÊN TỬ
 Cao ngất am lạnh lẽo
 Cửa mở tận từng mây
 Mặt trời soi Long Động
 Tuyết dầy che Hổ Khê
 Vụng về không mưu lược
 Nương gậy đỡ thân gầy
 Trúc Lâm nhiều chim ngủ
 Quá nửa bạn với thầy.
6. NHÂN SỰ ĐỀ CỨU LAN TỰ
 Đức bạc thường tàm kế Tổ đăng
 Không giao Hàn Thập khởi oan tăng.
 Tranh như trục bạn qui sơn khứ,
 Điệp chướng trùng sơn vạn vạn tằng.
Dịch: NHÂN VIỆC ĐỀ CHÙA CỨU LAN
 Đức mỏng thẹn mình nối Tổ đăng
 Luống cho Hàn, Thập dấy hờn căm.
 Chi bằng theo bạn về non quách
 Núi chất chập chùng muôn vạn tầng.
*
* *
7. XUÂN NHẬT TỨC SỰ
 Nhị bát giai nhân thích tú trì,
 Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
 Khả liên vô hạn thương xuân ý,
 Tận tại đình châm bất ngữ thì.
Dịch: TỨC CẢNH NGÀY XUÂN
 Thêu gấm thưa tay dáng mỹ nhân
 Líu lo oanh hót, khóm hoa gần.
 Đáng thương vô hạn, thương xuân ý
 Chỉ tại dừng kim, chẳng mở lời. 

LỜI NGƯỜI SOẠN: Bài thơ này khiến nhiều học giả hiểu lầm: Tác giả là một thiền sư, lại là Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mà còn tình cảm dồi dào ướt át như thế, thì làm sao được giải thoát? Song, nhận xét như vậy là một hiểu lầm đáng tiếc. Bởi vì tác giả tả cảnh xuân, nên mượn hình ảnh người con gái đẹp, hoa nở, chim hót để làm nổi bật ngày xuân. Nhưng đến kết thúc, tác giả nói lên lòng thương vô hạn của mình, chính là khi “dừng kim, không nói”. Đâu không phải câu “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”. Bặt đường ngôn ngữ, dứt lối tâm hành - đây là chỗ kết quả của người tu thiền. Người tu đến đây mới giải thoát đường sanh tử, mà không thương tha thiết sao được? Chỗ này chính là mùa xuân bất tận của người tu.
*
* *
Sư còn làm phú chữ nôm, như bài Vịnh Vân Yên Tử phú:
 Buông niềm trần tục;
 Náu tới Vân Yên.
 Chim thụy dõi tiếng ca chim thụy.
 Gió tiên đưa đôi bước thần tiên.
 Bầu đủng đỉnh giang hòa thế giới;
 Hài thong thả dạo khắp sơn xuyên.
 Đất phúc địa nhận xem luống kể,
 Kể bao nhiêu dư trăm phúc địa;
 Trời Thiền thiên thập thu thửa lạ,
 Lạ hơn ba mươi sáu Thiền thiên.
Thấy đây:
 Đất tựa vàng liền;
 Cảnh bằng ngọc đúc.
 Mây năm thức che phủ đền Nghiêu;
 Núi nghìn tầng quanh co đường Thục.
 La đá tầng thang dốc, một hòn ướm vịn một hòn;
 Nước suối chảy làn sâu, đòi khúc những dò đòi khúc.
 Cỏ chiều gió lướt, dợm vui vui;
 Non tạnh mưa dầm, màu thúc thúc.
 Ngàn cây phơi cánh phượng, 
 Vườn thượng uyển đóa tốt rờn rờn;
 Hang nước tưới hàm rồng, nhả ly châu hột săn mục mục.
 Nhựa đông hổ phách, sáng khắp rừng thông;
 Da điểm đồi mồi, giống hòa vườn trúc.
 Gác vẽ tiếng bồ lao thốc, gió vật đoành đoành,
 Đền ngọc phiến bối diệp che, mưa tuôn túc túc.
 Cảnh tốt và lành;
 Đồ tựa vẽ tranh.
 Chỉn ấy trời thiêng mẽ khéo
 Nhèn chi vua Bụt tu hành.
 Hồ sen trương tán lục;
 Suối trúc bấm đàn tranh.
 Ngự sử mai hai hàng chầu rập;
 Trượng phu tùng mấy chạnh phò quanh.
 Phỉ thúy sắp hai hàng loan phượng;
 Tử vi bày liệt vị công khanh.
 Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng;
 Vượn bồng con kề cửa nghe kinh.
 Nương am vắng Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu, mây nhè nhẹ.
Kề song thưa thầy ngồi thiền định, trăng vặc vặc, núi xanh xanh . 
Huống chi,
Vân thủy bằng lòng;
Yên hà phải thú.
Vui thay cảnh khác cảnh hoàng kim;
Trọng thay đường hơn đường cẩm tú.
Phân ân ái, am Não am Long;
Dứt nhân duyên, làng Nường làng Mụ.
Mặc ca-sa nằm trướng giấy, màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương;
Quên ngọc thực bỏ hương giao, cắp nạnh cà một vò, tương một hũ.
Chặp tiết dương tiếng nhạc dõi truyền;
Voi la đá tính từ chẳng đố.
Xem phong cảnh hơn cảnh Bà Roi;
Phóng tay cầu chưng cầu Thằng Ngụ.
Bao nhiêu phong nguyệt, vào cõi vô tâm;
Chơi dấu nước non, dưỡng đời thánh thọ.
Ta nay,
Ngồi đỉnh Vân Tiêu;
Cỡi chơi Cánh Diều.
Coi Đông sơn tựa hòn kim lục;
Xem Đông hải tựa miệng con ngao.
Nức đài lan nghĩ hương đan quế;
Nghe Hằng Nga thiết khúc tiêu thiều.
Quán thất bảo vẽ bao Bụt hiện;
Áo lục thù tiếng gió tiên phiêu.
Thầy tu trước đã lên Phật quả;
Tiểu tu sau còn vị Tỳ-kheo.
 . . .
Kệ rằng:
 Rũ không thay thảy ánh phồn hoa,
 Lấy chốn thiền lâm làm cửa nhà.
 Khuya sớm sáng choang đèn bát-nhã,
 Hôm mai rửa sạch nước ma-ha.
 Lòng thiền vằng vặc trăng soi giại,
 Thế sự hiu hiu gió thổi qua.
 Cốc được tính ta nên Bụt thực,
 Ngại chi non nước cảnh đường xa.
 (Huệ Chi)
 
 

Quốc Sư QUÁN VIÊN
(Cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14)

Sư hiệu là Quán Viên ở chùa Đông Sơn, giới hạnh thanh bạch, tuệ giải tròn đầy, mấy mươi năm mà không xuống núi. 

Gặp khi vua Trần Anh Tông (1293-1314) đau mắt đã hơn tháng, chữa trị không hiệu quả, ngày đêm đau nhức. Bỗng vua nằm mộng thấy một vị sư lấy tay xoa vào mắt. Vua hỏi sư từ đâu đến và tên gì? Sư đáp: “Tôi là Quán Viên, đến cứu mắt vua.” Tỉnh mộng, mắt liền hết đau, qua vài ngày mắt vua khỏi hẳn. Vua cho người tìm hỏi trong giới tăng sĩ, quả có người tên Quán Viên ở chùa Đông Sơn. Nhà vua sai người mời đến, rõ ràng là vị sư đã thấy trong mộng. Vua rất lấy làm lạ, phong chức Quốc Sư, ban thưởng rất hậu. Sư đều đem phân phát hết không để lại một đồng nào, vẫn mặc y vá trở về núi, dường như chẳng quan tâm.

Từ đó về sau, Sư đi vân du khắp núi sông châu huyện làng mạc, nếu ở đâu có miếu thờ thần không chính đáng, làm hại dân, đều bị Sư quở trách đuổi đi, dẹp phá miếu đền. Còn những thần lớn mạnh mẽ, phần nhiều hiển hiện hay báo mộng đón tiếp Sư và xin qui y thọ giới, giảm bớt cúng kiến sinh vật và khiến bảo vệ dân chúng, không ai dám xúc phạm. Người đời sau vẫn kính trọng Sư.

Không biết Sư tịch lúc nào, ở đâu và thuộc hệ phái nào.
(Trích dịch Nam Ông Mộng Lục)
 
 

Thiền Sư ĐỨC MINH

Sư người làng Bối Khê, huyện Thanh Oai, họ Nguyễn, tên Bình An, đạo hiệuĐức Minh. Cha tên Hương, mẹ là Trần Thị Hoa. Một hôm, mẹ mộng thấy Phật giáng hạ, rồi có mang sinh ra Sư.

Năm lên sáu tuổi, cha mẹ mất cả, phải ở nhà bà cô. Cô vốn nhà làm ruộng, bắt Sư chăn trâu. Sư vẫn còn nhỏ, nhưng rất mộ đạo Phật, ở túp nhà tranh bên đường, bày bàn thờ Phật bên tả, thường lấy cơm làm oản cúng. Việc chăn trâu Sư thường giao cho bọn trẻ khác. Gặp lúc trời đại hạn, ao đầm khô cạn, Sư thương loài tôm cá bị chết khô, liền cùng bọn mục đồng ra các ao đầm vớt lấy, đem thả vào sông Vĩnh Hựu. Bà cô thấy thế giận lắm, trách mắngcay đắng. Sư cố nhẫn nhục ở, đến năm lên chín tuổi liền xuất gia, tu tại chùa Đại Bi trong làng. Người làng đều khen Sư là người có giới hạnh.

Năm 15 tuổi, Sư đi vân du khắp nơi, đến xã Tiên Lữ, huyện An Sơn, lên núi ngắm cảnh rất thích thú. Núi này có chùa một gian hai chái, một vị Trưởng lão tu tại đây. Sư yết kiến Trưởng lão xin theo tu hành. Trưởng lão giảng dạy kinh kệ, Sư học tinh tấn, không bao lâu hiểu thông mọi pháp linh thông. Ở chùa Tiên Lữ mười năm, Sư nổi tiếng “đắc đạo”. Vua Trần nghe tiếng sắc phong là Hòa thượng, cho hiệu là Đức Minh, rồi mời về ở chùa Trường An

Sau khi tin Trưởng lão tịch, Sư về thờ phụng ba năm. Sư về làng thăm, bà cô giao trả lại những ruộng của cha Sư để lại trước. Sư cố từ chối không nhận, trở về chùa núi Tiên Lữ ở tu. Sư xây dựng lại ngôi chùa mới. Thợ làm hơn trăm người, Sư chỉ để một nồi cơm nhỏ và một ít muối trên bàn, một lát biến thành cỗ chay la liệt, mọi người ăn mãi không hết. Lúc chùa đang xây dựng, Sư đi guốc gỗ qua lại trên cây kèo xem thợ làm, đi lại bình thường như đi trên đất. Thợ thầy trông thấy đều bái phục thần thông của Sư.

Sư tuổi đã 95, một hôm vào ngồi trong am gỗ, gọi chư tăng đến bảo: “Nay ta đã hết trần duyên sẽ tịch. Các ông đóng cửa am lại, sau ba tháng mở ra, nếu thấy mùi thơm thì để thờ, nếu thấy hôi thối thì đem táng ở ngoài đồng.” Nói xong, Sư liền ngồi yên thị tịch. Sau một trăm ngày, chư tăng mở cửa am, nghe mùi hương thơm phức, mọi người liền làm lễ phụng thờ, nhân dân khắp miền chung quanh đều sùng bái. Xã Bối Khê cũng lập đền thờ phụng, hàng năm cứ ngày 12 tháng giêng tại các nơi thờ Sư đều có hội tế lễ, người đến xem hội rất đông. Người đời gọi Sư là Thánh Bối.

Sau vua Trần Hậu Đế [Trần Hậu Đế: Giản Định Vương Trần Ngỗi (1407-1409), Trần Quí Khoáng (1409-1413).] tuổi cao chưa có con trai, lên chùa Tiên Lữ cầu đảo, sinh được Hoàng tử, liền tặng phong Sư là “Đại Thánh Khai Sơn Nghĩa Tồn Bình Đẳng Hành Thiện Đại Bồ-tát”, và xuống chiếu cho địa phương phải phụng thờ nghiêm khẩn [Phỏng theo tập “Quảng Nghiêm Tự Thánh Tổ Di Tích”.]

Đến nay chưa biết Sư tu theo tông phái nào của đạo Phật. Song chúng tôi đọc thấy một đoạn trong “Thỉnh Thánh Tổ Khoa” ở chùa Quảng Nghiêm thế này:

“Nhất tâm phụng thỉnh, thiền lưu diễn phái, Phật Tổ truyền đăng, đương giác hải chi ba lan, diệu mê đồ chi nhật nguyệt. Thần thông nhập thánh, tâm tức Phật, Phật tức tâm; phản chiếu hồi quang, sắc thị không, không thị sắc. Tịch diệt thường tồn chân tánh, lạc phong trần bất động thủy ba thanh. Hộ giáng kiết tường, bảo an nhân vật.

Cung duy, Nam Việt Khai Tiên Lữ Sơn Nghĩa Tồn Bình Đẳng Hành Thiện Bồ-tát.”

Dịch: Một lòng phụng thỉnh, dòng thiền tràn ngập, Phật Tổ trao đèn; dậy sóng mòi nơi biển giác, soi nhật nguyệt nơi đường mê; thần thông nhập thánh, tâm là Phật, Phật là tâm; hồi quang phản chiếu, sắc là không, không là sắc; chân tánh tịch diệt thường còn, ưa phong trần chẳng động sóng nước trong; hộ xuống điềm lành, bảo an nhân vật.

Cúi mong, Nam Việt Khai Tiên Lữ Sơn Nghĩa Tồn Bình Đẳng Hành Thiện Bồ-tát.
 
 

Ni Sư TUỆ THÔNG
(Giữa thế kỷ 14)

Ni Sư họ Phạm, con gái của một gia đình đời đời làm quan. Ni Sư xuất gia tu ở am trên núi Thanh Lương. Ni Sư tu khổ hạnh, trì giới chuyên cần, tuệ giải thông suốt, thường ngồi thiền định, diện mạo giống hệt La-hán. Kẻ đạo người tục xa gần đều kính mộ, danh tiếng Ni Sư lừng lẫy, là bậc tông sư của ni chúng cả nước, tên tuổi ngang hàng với các bậc cao tăng. Vua Trần Nghệ Tông (1370-1372) ban hiệu là “Tuệ Thông Đại Sư”.

Về già, Ni Sư dời về ở Đông Sơn. Một hôm, Sư bảo đệ tử rằng: “Ta muốn đem thân hư ảo này thí cho hổ lang một bữa no.” Sư bèn vào giữa núi sâu ngồi kiết già, không ăn uống hai mươi mốt ngày, hổ lang ngày ngày tới ngồi chung quanh mà không dám đến gần. Đồ đệ nài nỉtrở về am. Về am, Sư đóng cửa nhập định qua một mùa hè, rồi tập hợp đệ tử lại giảng đạo, bỗng nhiên ngồi tịch, tuổi ngoài tám mươi. Lúc hỏa táng có rất nhiều xá-lợi. Quan sở tại xây tháp cho Sư ngay trên núi ấy.

Trước khi tịch Sư dạy đệ tử: “Sau khi ta đi nên chia bớt xương ta lại đây để mài rửa tật bịnh cho người đời.” Đến khi nhặt xương, thấy không đành bèn cho hết vào trong hộp phong lại. Qua đêm, bỗng một chiếc xương cùi tay trên bàn, bên ngoài hộp, mọi người đều kinh ngạc về sự linh nghiệm của Sư. Về sau, có người mắc bệnh đến khẩn cầu, đệ tử đem xương mài với nước cho rửa, mọi người đều lành bệnh ngay. Sự thệ nguyện của Sư sâu rộng như thế.
 Không biết Sư thuộc hệ phái nào.
 (Trích dịch Nam Ông Mộng Lục)
 
 

Thiền Sư HƯƠNG HẢI
(1628 - 1715)-(Phái Trúc Lâm)

Tổ tiên Sư quê ở làng Áng Độ, huyện Châu Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản Chu Tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình. Ông sanh được hai người con trai, con cả trông coi Lãng doanh, tước Hùng Quận Công, quản đốc ba trăm lính thợ. Con thứ làm chức Phó cai quan tước Trung Lộc Hầu, là ông Tổ bốn đời của Sư. Khoảng niên hiệu Chánh Trị đời vua Lê Anh Tông (1558-1571), Trung Lộc Hầu theo Đoan quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn Quảng Nam. Ông được Nguyễn Hoàng tin dùng nên thăng chức Chánh cai quan, quản lãnh các lính thợ đóng thuyền. Nguyễn Hoàng lại dâng sớ về triều kể rõ công trạng, vua Lê phong cho ông hiệu Khởi Nghĩa Kiệt Tiết Công Thần, cấp cho ba mươi mẫu ruộng, và con cháu được thế tập.
*
* *
Sư thuở nhỏ đã thông minh tài giỏi, năm 18 tuổi thi đỗ Hương tiến (Cử nhân) được chọn vào làm Văn chức trong phủ chúa Nguyễn. Sau lại bổ Sư ra làm Tri phủ phủ Triệu Phong (nay là tỉnh Quảng Trị). Năm Sư 25 tuổi rất hâm mộ Phật pháp nên tìm vào học đạo với Thiền sư Viên Cảnh ở Lục Hồ. Được Thiền sư đặt pháp danhHuyền Cơ Thiện Giác, pháp tự Minh Châu Hương Hải. Sau, Sư lại tìm đến Thiền sư Đại Thâm Viên Khoan để tham học.

Hơn ba năm sau, Sư từ quan xin xuất gia, rồi dong thuyền ra biển Nam Hải trụ trên ngọn núi Tim Bút La, cất ba gian nhà tranh ở tu. Ở đây, Sư chuyên tu thiền địnhgìn giữ giới luật tinh nghiêm được hơn tám tháng. Gần đó có biển tên là Ngọa Long Hải và cù lao Đại Lãnh, hai nơi này ít người đi đến, là chỗ hang ổ của ma quái. Chúng ma đã nhiều lần kéo đến làm ngăn trở sự tu hành của Sư, mà tâm Sư vẫn không lay động.

Một đêm vào lúc canh hai, những đồ đệ của Sư bỗng trông thấy một con ma lớn đen sì cao chừng hai trượng (8 th) sồng sộc chạy vào, một lúc rồi biến đi đâu mất. Đến cuối canh ba, bỗng có một con rắn lớn bò đến quấn chặt mình Sư, Sư không cựa động được, cố nhích mình lần tới bàn Phật, niệm chú thần đao, một lát con rắn ấy biến mất.

Lại một hôm, đang giữa ban ngày bỗng mây đen kéo đến trước sân mù mịt, gió cuốn ầm ầm, cây gẫy cát bay, mái nhà bung tốc. Bỗng nghe tiếng như ngàn muôn con mèo kêu ran lên một chập. Sư vẫn điềm nhiên không chút sợ hãi.

Lại một lần, canh vắng đêm khuya, Sư đang ngồi thiền trước điện Phật, hương đèn sáng choang. Bỗng thấy quân ma vừa trai vừa gái đứng vây tứ phía, đứa cầm giáo, đứa cầm mác, đứa dắt trâu, đứa dắt ngựa, đứa dắt voi, nhiều thứ quái tượng. Sư cảm thấy đau bụng, mắt mờ, không thấy ánh sáng của đèn. Sư liền lập chí Kim Cương tưởng lửa tam-muội, quyết đốt cháy thân mình và thiêu cả thế giới. Một lát chúng ma biến đâu mất, cảnh sắc lại quang minh như trước.

Sư cho rằng đất này là ác địa, khó giáo hóa được, bèn trở về quê cũ là làng Bình An thượng, phủ Thăng Hoa, xứ Quảng Nam. Một đêm có người Mán lại gõ cửa Sư và thiết tha mời Sư ra đảo Tim Bút La lại. Hỏi nguyên do, người Mán thưa: Sư cụ về được bốn ngày, thì cả ba đền ở đảo Tim Bút La, đền Cao Các Đại Vương, đền Phục Ba Đại Vương và đền Bô Bô Đại Vương đều phục đồng lên nói rằng: “Hôm nọ bọn ma tinh tác quái mấy lần để làm não hại Pháp sư, chúng ta ngồi yên xem thử coi ai thắng ai bại. Chúng ta thấy Pháp sư biến hình biến tướng chẳng biết ở đâu, khiến chúng ma tinh phải lui hết. Chúng ta thấy Pháp sư thật là đạo hạnh kiêm toàn, vì vậy nên báo cho dân làng biết đi thỉnh Sư về trụ trì ở đây.” Sư lại một phen cùng đệ tử xuống thuyền trở ra đảo Tim Bút La. Từ đây Sư ở chuyên tu hơn tám năm mà không có gì chướng ngại. Nhân dân rất ngưỡng mộ.

Thuần quận công trấn thủ Quảng Nam có bà vợ đau đã lâu mà không trị lành, nghe danh tiếng của Sư cho người đến rước. Sư lập đàn tụng kinh bảy ngày đêm thì bệnh bà lành. Cả nhà đều kính phục, đồng xin qui y với Sư. Xong việc, Sư trở lại đảo Tim Bút La.

Hơn nửa năm sau, quan Tổng thái giám là Hoa Lễ Hầu ở Quảng Nam mắc bệnh lao đã ba năm, nghe danh Sư cho thuyền ra đón về trị hộ. Sư về lập đàn Đại sám hối trong vòng mười ngày bệnh được khỏi. Hoa Lễ Hầu về Thuận Hóa đem việc đó kể lại cho Dũng quốc công Nguyễn Phúc Tần (chúa Hiền 1648-1687) nghe. Quốc Công ngưỡng mộ sai sứ ra thỉnh Sư về doanh phủ. Quốc Công ra cửa đón Sư vào, thăm hỏiluận bàn đạo lý rồi lập Thiền Tĩnh Viện ở núi Qui Kính mời Sư trụ trì.

Sư ở núi Qui Kính hoằng hóa, bà Quốc Thái phu nhơn cùng ba công tử là Phúc Mỹ, Hiệp Đức và Phúc Tộ đều xin qui y, quan dân quân lính đều kính mộ, xin qui y có đến một ngàn ba trăm người (1300).

Bấy giờ có quan thị nội giám là Gia quận công người làng Thụy Bái huyện Gia Định ngoài Bắc, tòng quân vào đánh Thuận Hóa bị Phúc Tần bắt được, nhưng tha cho để ra vào dạy nội cung. Gia quận công thường tới lui nghe Sư thuyết pháp. Có kẻ ganh ghét tâu với chúa Nguyễn là hai người âm mưu định trốn về Bắc. Chúa Nguyễn sanh nghi, liền bắt Sư và Gia quận công đem tra tấn, nhưng rốt cuộc không có bằng chứng gì. Chúa Nguyễn ra lệnh cho Sư về Quảng Nam.

Bởi lý do ấy, Sư quyết chí trở về Bắc thực sự. Sư ngầm dự bị một chiếc thuyền cùng năm mươi đồ đệ vượt biển. Về đến đồn Trấn Lao đến yết kiến quan Đốc Sư là Yên quận công Trịnh Na. Trịnh Na dâng sớ về triều tâu cho vua Lê hay. Bấy giờ là tháng ba năm Nhâm Tuất, năm thứ ba niên hiệu Chính Hòa (1682). Chúa Trịnh (Trịnh Tạc) sai Đường quận công đem thuyền đón Sư về kinh. Sư đến kinh ở tạm lại công quán, Chúa Trịnh sai Nội Giám là Nhương quận công và Bồi Tụng là Lê Hy đến hỏi tra lý lịch, lại đòi người làng Áng Độ đến nhận thực.

Biết đúng lẽ thực rồi, Chúa Trịnh cho mời Sư vào triều thăm hỏi và phong cho chức Vụ Sử, thưởng ba trăm quan tiền, mỗi năm cấp hai mươi bốn lâu thóc, ba mươi sáu quan tiền, một tấm vải trắng. Đồ đệ của Sư mỗi người một năm cấp mười hai lâu thóc, mười hai quan tiền. Chúa sai Sư vẽ địa đồ của hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam, Sư vâng lệnh vẽ rất rõ ràng dâng lên. Chúa khen ngợi thưởng hai ngàn quan tiền.

Tháng tám năm ấy, Chúa Trịnh sai đưa Sư về ở nhà công quán trấn Sơn Tây. Ở đây hơn tám tháng, Chúa lại dời Sư về ở trấn Sơn Nam và ra lệnh quan trấn thủ là Lê Đình Kiên đo ba mẫu quan thổ cất am cho Sư, lúc này Sư được 56 tuổi.
Sư về am này lại càng tinh tấn, hằng giữ tâm chánh định, giới luật tinh nghiêm, sớm hôm không khi nào lười mỏi. Sư lại chú giải các kinh ra chữ nôm được ba mươi thiên, khắc bản ấn hành.
Năm Canh Thìn niên hiệu Chính Hòa (1700), Sư sang ở chùa Nguyệt Đường, học trò theo hơn bảy mươi người đều tinh thông kinh luật. Sư xây dựng lại ngôi chùa Nguyệt Đường rất rộng rãiđẹp đẽ. Chính nơi đây, Sư làm hưng thịnh lại phái Trúc Lâm.

Vua Lê Dụ Tông vì hiếm hoi con, mời Sư vào nội điện lập đàn cầu tự, bấy giờ Sư đã 78 tuổi. Lúc vào chầu, vua rất kính trọng, hỏi Sư rằng:
- Trẫm nghe Lão sư học rộng nhớ nhiều, vậy xin Lão sư thuyết pháp cho trẫm nghe để trẫm được liễu ngộ.
Sư tâu:
- Xin bệ hạ chí tâm nghe cho thật hiểu bốn câu kệ này:
 Hằng ngày quán lại chính nơi mình
 Xét nét kỹ càng chớ dễ khinh
 Trong mộng tìm chi người tri thức
 Mặt thầy sẽ thấy trên mặt mình.
 (Phản văn tự kỷ mỗi thường quan
 Thẩm sát tư duy tử tế khan
 Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
 Tương lai diện thượng đổ sư nhan.)
Vua lại hỏi:- Thế nào là ý của Phật?
Sư liền đáp:
 Nhạn bay trên không
 Bóng chìm đáy nước
 Nhạn không ý để dấu
 Nước không tâm lưu bóng.
 (Nhạn quá trường không 
 Ảnh trầm hàn thủy 
 Nhạn vô di tích chi ý 
 Thủy vô lưu ảnh chi tâm.) 
Vua khen ngợi:- Lão sư thông suốt thay !
*
* *
Tháng sáu năm Giáp Ngọ niên hiệu Vĩnh Thịnh (1714), Sư đã được 87 tuổi, chúa Trịnh Cương (Hi Tổ) nhân đi kinh lý ghé thăm chùa, phát một ngàn quan tiền để cúng chùa.
Bấy giờ học trò của Sư đông lắm. Sư sai làm sổ đặt pháp hiệu, được bảy mươi vị là pháp tử, dự vào hàng đệ nhất Thượng tọa nhiều lắm. Các pháp tử đặt pháp hiệu cứ theo thứ tự của những chữ mà Sư đã cho sẵn, như Viên Thông, Chân Lý v.v... Còn các pháp điệt (cháu trong đạo) thì đông lắm không thể kể xiết.
Sư thường đọc lại những câu kệ xưa để dạy đồ chúng như :
1. Âm:Sư tử quật trung sư tử
 Chiên-đàn lâm lý chiên-đàn
 Nhất thân hữu lại càn khôn khoát
 Vạn sự vô ưu nhật nguyệt trường.
Dịch : Sư tử trong hang sư tử
 Chiên-đàn trong rừng chiên-đàn
 Một thân nhờ có trời đất rộng
 Muôn việc không lo ngày tháng dài.
2. Âm:Long đắc thủy thời thiêm ý khí
 Hổ phùng sơn xứ trưởng uy nanh
 Nhân qui đại quốc phương tri quí
 Thủy đáo Tiêu Tương nhất dạng thanh.
Dịch : Được nước rồng càng thêm ý khí
 Gặp non cọp mới trổ oai hùng
 Người về đại quốc thành cao quí
 Nước đến Tiêu Tương một sắc trong.
Trên chỗ Sư ngồi thường yết ba bài tụng này:
1. Phu tử bất thức tự 
 Đạt-ma bất hội thiền 
 Huyền diệu vô ngôn ngữ 
 Thiết mạc vọng lưu truyền.
Dịch : Khổng Tử không biết chữ
 Đạt-ma chẳng hội thiền
 Huyền diệu không lời nói
 Cốt đừng dối lưu truyền.
2. Tầm ngưu tu phỏng tích 
 Học đạo quí vô tâm 
 Tích tại ngưu hoàn tại 
 Vô tâm đạo dị tầm. 
Dịch : Tìm trâu phải noi dấu
 Học đạo quí vô tâm
 Dấu còn trâu nào mất
 Vô tâm đạo dễ tầm.
3. Sanh tùng hà xứ lai 
 Tử tùng hà xứ khứ 
 Tri đắc lai khứ xứ 
 Phương danh học đạo nhân.
Dịch : Sanh từ chỗ nào đến?
 Chết sẽ đi nơi nào?
 Biết được chỗ đi đến.
 Mới gọi người học đạo.
Khi nhàn hạ Sư thường ngâm hai bài kệ này:
1.Âm: Thành thị du lai ngụ tự triền
 Tùy cơ ứng biến mỗi thời nhiên
 Song chiêu nguyệt đáo thiền sàng mật
 Tùng tiếu phong xuy tĩnh khách miên.
 Sắc ảnh lâu đài minh sắc diệu
 Thanh truyền chung cổ diễn thanh huyền
 Nguyên lai tam giáo đồng nhất thể
 Nhậm vận hà tằng lý hữu thiên.
Dịch : Dạo qua thành thị nghỉ chùa chiền
 Tùy cơ ứng biến lẽ đương nhiên
 Trăng dòm cửa mở giường kê sát
 Gió thổi thông cười khách ngủ yên.
 Lầu đài rực rỡ mầu đẹp đẽ
 Chuông trống vang rền tiếng diệu huyền.
 Ba giáo nguyên lai cùng một thể
 Xoay vần đâu có lẽ nào thiên.
2.Âm: Thượng sĩ thường du Bát-nhã lâm
 Trần cư bất nhiễm liễu thiền tâm
 Liêm Khê Trình Thị minh cao thức
 Tô Tử Hàn Văn khế diệu âm.
 Vạn tượng sum la cao dị hiển
 Nhất biều tạo hóa mật nan tầm
 Nho nguyên đãng đãng đăng di khoát
 Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm.
Dịch : Thượng sĩ thường chơi cảnh tùng lâm
 Phong trần không vướng hội thiền tâm
 Liêm Khê, Trình Hiệu người thông suốt
 Tô Tử, Hàn Văn hiểu diệu âm.
 Muôn ngàn cảnh vật bày dễ thấy
 Tạo hóa một bầu khó truy tầm
 Nguồn Nho thăm thẳm lên càng rộng
 Bể Thích trùng trùng xuống lại thâm.

Sư thường thuật lại những diệu ngữ của các đấng cao tăng để dạy chúng:

- Muốn cần thấy Phật cứ nhận nơi chúng sanh, chỉ vì chúng sanh mê không tự biết có Phật, chớ Phật đâu có làm mê chúng sanh. Ngộ được tự tánh của mình thì chúng sanh là Phật, mê tự tánh của mình thì Phật là chúng sanh. Giữ được tự tánh của mình bình đẳng thì chúng sanh là Phật, để tự tánh mình gian hiểm thì Phật là chúng sanh. Tâm ta sẵn có Phật, còn tìm Phật nơi nào? Nên kinh nói: “Tâm sanh thì các pháp sanh, tâm diệt thì các pháp diệt.” Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là bồ-đề. Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau giác là Phật. Niệm trước chấp cảnh là phiền não, niệm sau ly cảnh là bồ-đề.

Chân tâm tự có thể, không phải do ta bịa đặt ra. Nó trong suốt như hư không, như tấm gương trong sạch tròn sáng. Không thể lấy cái có cái không, nơi này chốn nọ mà xét tột được chỗ u huyền của nó. Cũng không thể lấy trí khônngôn ngữ mà bàn đến chỗ huyền diệu của nó. Chỉ có ai ngộ được chân tâm thì hiểu ngay ở nơi mình. Ví như muôn thứ hương thơm, chỉ đốt một lò là hiểu hết mùi thơm. Như vào bể cả tắm, chỉ cần hớp một hớp nước là biết hết toàn vị của bể cả.

Chốn chân thật thâm sâu lặng lẽ, giác ngộ thì bụi trần lắng sạch tâm thể trong ngần; dứt hết mối manh danh tướng của ngoại cảnh, sạch hết những năng sở ở trong tâm. Bởi ban đầu bất giác, bỗng khởi ra vọng động, chiếu soi lại tự tâm, theo cái chiếu soi ấy mà sanh ra tâm trần. Như gương hiện hình tượng, thoắùt có thân căn. Từ đó, chân tâm bị dời đổi, căn tánh bị sai lạc, chấp vào tướng đuổi theo danh, chứa mãi những vọng trần ứ đọng, kết mãi những sóng thức liên miên. Đem túm bọc chân giác vào giấc mê đêm, đắm chìm mê muội trong tam giới. Làm mù lòa con mắt trí ở trong ngõ tối, khúm núm cúi lòn trong chín loài. Ở trên cõi chẳng đổi dời, bỗng dưng luống chịu kiếp luân hồi. Trong pháp vô thoát, mà tự chuốc sự trói buộc nơi thân. Như con tằm mùa xuân làm kén tự giam mình, con thiêu thân mùa thu tự nhào vô đèn thiêu xác. Đem những sợi dây mê mờ buộc lấy nghiệp căn khổ sở, dùng đôi cánh của lòng tham mù quáng toan dập tắt vòng lửa tử sanh.

Lại có những kẻ tà căn ngoại nhập, cùng những kẻ tiểu khí mưu mô. Chúng không hiểu rõ nguồn bệnh của sanh tử, không biết gốc chung của ngã nhân (ta người). Chỉ muốn tránh chỗ huyên náo, bỏ nơi hoạt động, cố phá từng cái tướng, tách từng mảnh bụi của mọi vật thể để tìm hiểu biết. Làm như thế, tuy chỗ tĩnh lặng cốt ngộ lý không, nhưng không biết đó cũng là cái lối làm chôn vùi chân tính lấp mất chân giác. Thế chẳng khác nào kẻ thấy ngọn đèn có những tia sáng xanh đỏ, muốn không thấy những tia ấy bèn đi tắt ngọn đèn; kẻ trông thấy bóng theo dõi mình dưới bóng mặt trời, bèn chạy ra ngoài trời cho tránh khỏi bóng. Như thế, chỉ lao nhọc tinh thần, tốn hao sức lực. Chẳng khác gì gánh nước đổ vào đống băng, vác củi vất vào đám lửa đang cháy. Có biết đâu những tia sáng trong ngọn đèn kia là do mắt bệnh, bóng đuổi theo mình vốn ở thân mình. Nếu chữa khỏi bệnh lòa ở mắt thì những tia sáng tự mất, diệt thân huyễn chất này thì bóng nọ không còn.

Nếu biết quay ánh sáng soi lại nơi mình bỏ ngoại cảnh mà xem ở tự tâm, thì Phật nhãn sáng suốt, bóng nghiệp tự tan, pháp thân hiện ra, những vết trần tự diệt. Ta phải lấy lưỡi dao khôn ngoan của tâm tự giác cắt đứt những mối dây triền phược trong lòng để biến nó thành tâm châu. Phải dùng mũi giáo tuệ của chân như chặt tan những lớp bụi trần kết thành kiến võng(Kiến võng: Trần cảnh làm mờ mắt chúng ta chẳng khác nào lưới che mắt.). Ấy chính là cái tông chỉ cùng tâm, cái chân truyền đạt lý đó vậy.
*
* *

Sư lại nói:
- Vọng thân tới gương soi bóng, bóng với vọng thân giống nhau. Chỉ muốn để thân bỏ bóng, thì thân có thực đâu nào ! Thân vốn không khác gì bóng, một không, một có được sao ? Nếu muốn lấy một, bỏ một, hằng cùng chân lý cách xa. Lại mến Thánh ghét phàm, nổi chìm trong biển sanh tử. Phiền não nhân tâm nên có, tâm không phiền não ở đâu ? Chẳng nhọc phân biệt lấy tướng, tự nhiên được đạo chóng mau.
Ba đời chư Phật đều ở trong thân ta, chỉ vì tập khí làm mờ ám, ngoại cảnh làm ngăn trở, khiến ta tự mê đi. Nếu trong lòng ta được vô tâm là Phật quá khứ. Trong lặng lẽ mà khởi tác dụngPhật vị lai. Tùy cơ ứng vật là Phật hiện tại. Ta thanh tịnh không nhiễm ô lục trần là Phật Ly Cấu. Ta ra vào không gì làm trở ngại là Phật Thần Thông. Đến đâu cũng an vui là Phật Tự Tại. Một tâm trong sángPhật Quang Minh. Tâm đạo bền chắc là Phật Bất Hoại. Ta biến hóa vô cùng chỉ do một chân tánh mà thôi.
*
* *

Chí đạo gốc ở tâm pháp, tâm pháp gốc ở vô trụ. Cái bản thể của tâm và chân tướng của tánh, vốn lặng lẽ chẳng phải có, chẳng phải không; không có sanh cũng không có diệt. Ta tìm nó thì không thấy, bỏ nó vẫn chẳng rời. Nếu ta mê cái hiện lượng của nó thì khổ sở lầm lẫn lăng xăng, nếu ngộ được chân tánh của nó thì tinh thông sáng suốt. Tuy tâm tức là Phật, Phật tức là tâm, song chỉ có người chứng mới biết.
Song còn chấp có chứng, có biết thì mặt trời trí tuệ rơi vào đất có. Nếu tâm mờ mịt không chiếu không sáng thì đám mây hôn trầm đã che lấp cửa không. Chỉ có tâm không sanh một niệm thì không còn ngăn cách trước sau; chân tánh đứng riêng thì ta người nào khác. Nhưng mê đối với ngộ, ngộ trông vào mê, vọng đối với chân, chân nương nơi vọng. Nếu ta cầu chân mà bỏ vọng, như người chạy trốn bóng luống nhọc hình. Nếu ta nhận chân chính nơi vọng, như người vào chỗ mát thì bóng mất. Nếu tâm không vọng chiếu thì vọng lự tự hết. Từ cái tịch tri mà khởi dụng thì các thiện hạnh phấn khởi. Thế nên, cái ngộ tịch mà không tịch, cái chân tri dường như vô tri. Lấy tâm nhất trí không phân chia tịch và tri, hợp với lẽ huyền diệu dung thông nhau. Có và không đều không chấp không mắc, phải quấy đều quên, năng sở cũng dứt. Cái dứt ấy cũng bặt luôn thì hoa bát-nhã liền nở, mỗi tâm đều thành Phật, không tâm nào chẳng phải tâm Phật; chốn chốn đều là đạo thì không chỗ nào chẳng phải cõi Phật.
Thế nên, chân với vọng, vật với ngã đều do ở một tâm ta, Phật với chúng sanh cũng đều chung nhau một tâm ấy. Nếu mê thì người theo sự vật, sự vật thì vô vàn nên người chẳng giống nhau. Nếu ngộ thì sự vật theo người, người đem một trí mà dung hòa muôn cảnh. Đến đây thì hết chỗ nói năng bặt đường tư tưởng, còn gì mà nói nhân trước quả sau? Tâm thể rỗng lặng, còn gì là người này giống, kẻ kia khác? Chỉ còn một tâm trong sáng, tăng giảm chan hòa. Như tấm gương sáng, tuy không có hoa mà bóng hoa hiện, gương vẫn vô tâm, tuy thấy ảnh tượng chiếu trong gương, mà ảnh tượng vẫn hằng không vậy.
Sư cũng thường đọc những bài kệ này dạy chúng:
1.?Âm :Cô viên khiếu lạc thiên nham nguyệt
 Dã khách ngâm tàn ngũ dạ đăng
 Thử cảnh thử thời thùy hội đắc
 Bạch vân thâm xứ tọa thiền tăng.
Dịch : Vượn lẻ hú rơi trăng ngàn núi
 Khách quê ngâm lụn ngọn đèn khuya,
 Cảnh ấy người đây ai biết được
 Thiền tăng ngồi lặng núi sâu kìa. 
2. Âm:Nam đài tĩnh tọa nhất lô hương
 Chung nhật ngưng nhiên niệm lự vương
 Bất thị tức tâm trừ vọng tưởng
 Chỉ duyên vô sự khả tư lương.
Dịch : Đài nam tĩnh tọa một lò hương
 Lặng lẽ suốt ngày niệm lự không
 Chẳng phải dứt tâm trừ vọng tưởng
 Chỉ vì không việc đáng đo lường.
3.Âm: Khô mộc nham tiền sai lộ đa
 Hành nhân đáo thử tận tha đà
 Lộ loan lập tuyết phi đồng sắc
 Minh nguyệt lô hoa bất tợ tha.
 Liễu liễu liễu thời vô sở thiểu
 Huyền huyền huyền xứ diệc tu đa
 Ân cần vị xướng huyền trung khúc
 Không lý thiềm quang yết đắc ma?
Dịch : Cây khô trước núi dễ lạc đàng
 Người đi đến đó thảy mơ màng
 Tuyết trong cò trắng đâu đồng sắc
 Trăng sáng hoa lau chẳng giống màu.
 Liễu, liễu, liễu rồi không thiếu sót
 Huyền, huyền, huyền đó cũng thênh thang
 Ân cần hát khúc “huyền trung” ấy
 Ánh sáng trong không bày được sao?
4.Âm: Nhất dước, dước phiên tứ đại hải
 Nhất quyền, quyền đảo Tu-di sơn
 Phật Tổ vị trung lưu bất trụ
 Hựu xuy ngư địch bạc La loan.
Dịch : Một nhảy, nhảy khỏi bốn bể cả
 Một đấm, đấm nhào núi Tu-di
 Trong ngôi Phật Tổ mời chẳng ở
Lại thổi sáo chài thẳng La loan. (La loan: Chỗ biển của quỉ La-sát ở, nó là loài quỉ dữ nhất mà thế gian đều kinh sợ.)
5.Âm: Phản vọng qui chân vạn lụy không
 Hà sa phàm thánh bản lai đồng
 Mê lai tận thị nga đầu diệm
 Ngộ khứ phương tri hạc xuất lung.
 Phiến nguyệt ảnh phân thiên giản thủy
 Cô tùng thinh nhậm tứ thời phong
 Trực tu mật khế tâm tâm địa
 Thủy ngộ bình sanh thùy mộng trung.
Dịch : Bỏ vọng về chân muôn lụy không
 Thánh phàm ức triệu xưa nay đồng
 Mê đi cả thảy ngài vào lửa(Ngài: là con thiêu thân) 
 Ngộ lại mới hay hạc sổ lồng.
 Một mảnh bóng trăng phân ngàn suối
 Thông côi reo mãi bốn mùa rung
 Cần phải thầm thông tâm địa ấn
 Mới ngộ bình sinh một giấc nồng.
6.Âm: Tâm pháp song vong du cách vọng
 Sắc không bất nhị thượng dư trần
 Bách điểu bất lai xuân hựu quá
 Bất tri thùy thị trụ am nhân.
Dịch : Tâm, pháp đều quên còn cách vọng
 Sắc, không như một vẫn thừa trần
 Trăm chim chẳng đến, xuân cứ tiến
 Nào biết là ai người trụ am ?
*
* *
Đến năm Ất Mùi niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ mười một (1715) đời Lê Dụ Tông, sáng ngày 13 tháng 5, Sư tắm rửa xong, mặc áo ca-sa, ngồi kiết già an nhiên thị tịch, thọ 88 tuổi. Môn đệ xây ngôi tháp ba tầng thờ Sư. Tông phong của Sư còn thịnh mãi mấy đời về sau. Chùa Nguyệt Đường là một thiền lâm lớn nhất trong nước. Sư là người gây âm hưởng của dòng thiền Trúc Lâm được vang lên trong khoảng mấy trăm năm chìm lặng.
Tác phẩm của Sư có:
 1) Giải Pháp Hoa Kinh
 2) Giải Kim Cương Kinh Lý Nghĩa
 3) Giải Sa Di Giới Luật
 4) Giải Phật Tổ Tam Kinh 3 quyển
 5) Giải A Di Đàø Kinh
 6) Giải Vô Lượng Thọ Kinh
 7) Giải Địa Tạng Kinh
 8) Giải Tâm Kinh Đại Điên
 9) Giải Tâm Kinh Ngũ Chỉ
 10) Giải Chân Tâm Trực Thuyết
 11) Giải Pháp Bảo Đàn Kinh 6 quyển
 12) Phổ Khuyến Tu Hành 1 quyển
 13) Bảng Điều Nhất Thiên
 14) Cơ Duyên Vấn Đáp Tinh Giải
 15) Lý Sự Dung Thông
 16) Quán Vô Lượng Thọ Kinh Quốc Ngữ

Theo Dòng Sự Kiện:
Toàn Tập Minh Châu Hương Hải, Lê Mạnh Thát
Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục Giảng Giải, HT. Thích Thanh Từ

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
20/12/2021(Xem: 2261)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.