Ngày Xuân Mạn Đàm Về Sự Học

18/02/201312:00 SA(Xem: 53501)
Ngày Xuân Mạn Đàm Về Sự Học
tuyentapmungxuan3

NGÀY XUÂN MẠN ĐÀM VỀ SỰ HỌC
Thích Hạnh Chơn

muaxuanmandamvesuhoc-contentMùa xuânthời gian bắt đầu của một năm. Không biết tình cờ hay hữu ý, sự sắp xếp trên lại có ý nghĩa tiềm ẩn khá lý thú. Không ai phủ nhận rằng mùa xuân là mùa mát mẻ, ấm áp thích hợp cho sự sinh sôi nảy nở của các loài thực vật và cả động vật. Mùa xuân, với đời người, được ví cho tuổi trẻ - thời gian đẹp và nhiều ước mơ, hy vọng cho một tương lai tươi sáng. Thiên nhiên của mùa xuân ưu đãi cho động-thực vật phát triển thì sức sống của tuổi xuân ưu đãi cho con người cơ hội thăng hoa, tiến triển. Nếu như động-thực vật tự thích nghi cao theo bản năng sinh tồn thì con người tự thích nghi không chỉ bằng bản năng mà quan trọng hơn là bằng ý chínghị lực. Phương tiện con người thực hiện ý chí vươn lên không gì khác hơn là sự học (giáo dục), và sự tu (thực tập), để hướng đến sự thành đạt (chứng ngộ). Nhân dịp xuân về, người viết xin được mạn đàm về sự học trong Phật giáo cùng chư pháp hữu.

Sự học và mục đích

con người, ai cũng phải học. Từ thuở còn thơ ta đã phải học: học nói, học đi, học ăn. Lớn lên chút nữa ta lại được dạy ‘học gói, học mở’, tức là học cách ứng xử khéo léo, lịch sự, tế nhị, phép tắc. Cho nên, câu thành ngữ ‘học ăn, học nói, học gói, học mở’ ra đời nhằm nhắc mỗi người phải học để biết cách sống lịch thiệp, cách ứng xử sao cho có văn hóa. Đây là cái học cơ bản để làm người. Khi tới tuổi đến trường, trừ một số ít bất hạnh, còn lại đều được cha mẹ hay người thân đưa đến lớp, đến thầy để xin học. Sự học từ đó cứ tiếp tục cho hết cuộc đời. Cho nên, Lê-nin đã nói: “Học, học nữa, học mãi”. Câu châm ngôn luôn đúng cho tất cả những ai phấn đấu vươn lên trong cuộc sống.

Về sự học, có hai quan điểm tranh biện được đưa ra. Một bên cho rằng sự học là gian khổ nhưng kết quả ngọt ngào như ngạn ngữ Hy Lạp viết: “Học vấn có những chùm rễ đắng cay, nhưng cho hoa quả ngọt ngào”. Bên kia thì phản biện rằng học là vui, là hạnh phúc ngay chứ không phải trước khổ rồi sau mới có hạnh phúc như quan niệm ‘khổ để tu hành, khổ hóa vui’. Sự tranh biện sẽ không có hồi kết nếu không đặt nó vào mục đích, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nào đó để suy xét. Nếu học để trả nợ, học để có nhiều kiến thức để tranh luận, học để có bằng cấp đi làm kiếm tiền, học để thăng quan tiến chức… thì rõ ràng sự học có ‘những chùm rễ đắng cay nhưng cho hoa quả ngọt ngào’. Ngược lại, học để hiểu, để sống, để áp dụng ngay trong lúc học như học thở, học ăn, học làm việc trong chánh niệm thì cái học đó đâu thể gọi là khổ. Cái học ấy có hạnh phúc ngay tức thời chứ không cần phải trải qua khổ nhọc rồi mới có hạnh phúc. Cái học này sư ông Làng Mai đã chứng minh là đúng.

Thế thì trong Phật giáo, mục đích của sự học là gì? Tổ Khánh Anh đã dạy: “Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đãy sách.” Lời dạy của Tổ khá rõ ràng để trả lời câu hỏi ấy. Mục đích của sự học trong đạo Phật không gì khác hơn là để hiểu đúng những lời dạy của Đức Phật để áp dụng vào trong từng suy nghĩ, từng lời nói, từng hành động của mỗi con người trong đời sống hàng ngày. Hiểu và áp dụng đúng lời Phật dạy đòi hỏi hành giả phải có trí tuệ. Trí tuệ thường do thể nghiệm bằng thiền quán mà có chứ không chỉ là kiến thức thu nhận được từ bên ngoài. Vì vậy, ‘Duy tuệ thị nghiệp’ là kim chỉ nam của Phật giáo. Sứ mạng của sự học, theo kinh điển Pāli, được kết thúc khi vị ấy chứng ngộ thánh quả A-la-hán(1). Bậc A-la-hán còn được gọi là bậc vô học. Theo thiển ý của người viết, bậc A-la-hán không phải là không còn học gì nữa mà là không cần học các pháp đoạn trừ phiền não vì vị ấy đã hoàn toàn đoạn tận kiết sử, chứng được tâm giải thoáttuệ giải thoát. Các vị A-la-hán vẫn tiếp tục học ở phương diện khác như về trí tuệ Bồ-tát, và trí tuệ Phật. Nếu cho rằng A-la-hán không cần học gì nữa thì tại sao các ngài như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên,… còn phải nghe Đức Phật thuyết pháp suốt cả đời, và tại sao không có sự ngang bằng về trí tuệ giữa các vị A-la-hán. Do đó, sự học trong Phật giáo chỉ kết thúc khi chứng quả vị Phật(2).

Sự học của Đức Phật trước khi giác ngộ

Sự học của Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha) là xuất chúng và đáng được kính ngưỡng. Trước khi giác ngộ, Đức Phật là một thái tử. Các tài liệu hiện có không ghi chép rõ ràng về sự học của Thái tử. Tuy nhiên, theo suy luận của các nhà nghiên cứu thì thái tử chắc chắn đã hấp thụ một nền giáo dục vững chắc của hoàng gia và của giai cấp quý tộc chiến sĩ(3). Với đặc ân hưởng thụ một nền giáo dục truyền thống quý tộc, thái tử chắc chắc học các môn học như luật, phong tục tập quán, nghệ thuật quản lý quốc gia, ngữ pháp, logic, nghệ thuật và cả khoa học… Nói chung, thái tử là một thanh niên trí thức, lịch sự(4). Theo Phật học phổ thông, thái tử thông minh xuất chúng, học với thầy nào, về văn chương hay võ nghệ, chỉ ít hôm là thầy không đủ sức dạy. Cho đến vị thầy danh tiếng nhất thời bấy giờ là Sằn-đề-đề-bà cũng chịu khuất phục trước sức học của thái tử(5).

Sau khi xuất gia, du sĩ Siddhattha tiếp tục tìm cầu học đạo. Siddhattha đã đến học với hai vị thầy nổi tiếng vào hàng bậc nhất lúc bấy giờ, lần lượt là Alarama Kalama và Uddaka Ramaputta. Thái tử đã học hết tất cả giáo lý của hai vị thầy này trong thời gian ngắn và cũng đã chứng ngộ ngang bằng với họ. Cuối cùng, không còn ai có thể làm thầy nên Siddhattha đã quyết định tự tìm chân lý. Sơ lược qua Sự học của thái tử và sau đó là du sĩ, ta thấy Siddhattha học không mệt mỏi, và học rất xuất sắc. Từ đó, có cơ sở để nói rằng nền minh triết đồ sộ, có một không hai của nhân loại do Đức Phật để lại một phần nhờ Sự học của Thế Tôn trước khi xuất ly trần tục. Như vậy, sự học hoàn toàn rất quan trọng trong sự nghiệp tu tậphành đạo.

Sự học của chư tôn đức Việt Nam đương đại

Vào thời đương đại ở Việt Nam, sự học cũng rất được chư tôn đức coi trọng và tuân hành. Có thể kể về hai tấm gương tiêu biểu của Phật giáo Việt NamHòa thượng (HT) Thích Trí TịnhHòa thượng Thích Minh Châu.

Sự học của HT.Trí Tịnh bắt đầu bằng những khó khăn nhưng kết quả rất đáng tự hào. Xuất gia ở chùa Vạn Linh núi Cấm nên HT phải xin về Sài Gòn tìm học kinh luật. Nghe tin ở Huế có trường Phật học, HT đã quyết định khăn gói tìm ra xứ Thần kinh để học. Nhờ sự giúp đỡ của quý tôn đức, HT được nhận vào trường trung đẳng tại chùa Tây Thiên và sau đó, vào cao đẳng Phật học chùa Báo Quốc. Với sự siêng năng chăm học, HT đã chứng tỏ là một trong số học Tăng ưu tú của trường. Sau khi tốt nghiệp, HT đã đảm nhiệm nhiều chức vụ liên quan đến giáo dụcphiên dịch kinh điển ở các trường viện như Phật Học viện Hải Đức, Huệ Nghiêm, Đại học Vạn Hạnh… Ngoài ra, HT đã tự trau dồi và phiên dịch tổng cộng 15 dịch phẩm kinh sách. Sự học của Ngài có thể nói là rất đáng cho đàn hậu tấn học noi gương(6).

May mắn hơn quý tôn đức khác, HT.Minh Châu được đào tạo trường lớp và đỗ bằng tú tài toàn phần trước khi xuất gia. Là một cư sĩ, ngài đã tham gia phong trào nghiên cứu đạo Phậthọc hỏi giáo lý với bác sĩ Lê Đình Thám và nhiều tôn đức khác ở Huế. Sau khi xuất gia, HT tham gia giảng dạy và viết báo cho các tạp chí Phật giáo. Sau đó, HT xuất dương du học ở Sri Lanka và Ấn Độ. HT đỗ bằng Tiến sĩ Phật học tại Đại học Bihar và vinh dự được Tổng thống Ấn Độ đích thân trao văn bằng. Về nước, HT đã cống hiến rất nhiều cho nền Phật học nước nhà, đặc biệtphiên dịch gần hết tạng kinh Pāli sang tiếng Việt. HT còn là tác giả của hơn 25 tác phẩm sách Phật giáo bằng tiếng Việt và Anh. Sự học của HT thuộc loại chuẩn theo trường lớp, văn bằng học vị. Sự cống hiến vĩ đại của Ngài không phải từ sự học chuẩn mực ấy sao?!(7).

Sự học của Tăng Ni ngày nay

Về sự học của Tăng Ni, có sự tranh luận xảy ra khá dài. Đó là sự tranh luận về ‘học cốt để tu không cần bằng cấp’ và học phải có bằng cấp chuẩn rõ ràng. Có lẽ, ta nên xét bối cảnh của nó. Thời xưa, sự học được Đức Phật và chư Tổ trực tiếp giảng dạy và xác nhận khả năng tu chứng của đệ tử. Khi một vị được xác chứng tức là vị ấy được tín nhiệm bổ xứ đi hành đạo. Thời nay, sự học như thế không còn phổ biến nhiều và người đảm trách vai trò như chư Tổ cũng hiếm thấy. Đó là lý do 4 Học viện và hơn 30 Trường Trung cấp Phật học ra đời. Đã là trường thì nó phải có tiêu chí đánh giá, trong đó bằng cấp là tiêu chí không thể thiếu để xác nhận trình độ, khả năng chuyên môn của học viên. Trường lớp nếu đào tạo chuẩn, có chất lượng đàng hoàng thì Tăng Ni sẽ có đủ năng lực hành đạo có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, có một điều làm người viết ngạc nhiên nên muốn chia sẻ ra đây để cùng suy nghĩ. Có nhiều vị đã trải qua trên dưới tám năm ngồi ở các cấp học từ sơ, trung, cho đến cao đẳng Phật học nhưng khi thi vào Học viện thì lại trượt. Trong khi đó, có những vị chỉ học hết phổ thông và tự học Phật pháp lại có thể dễ dàng đủ điểm vào Học viện. Sự học như vậy phải chăng là đáng quan ngại?!

Sự học lạc điệu với tôn chỉ ‘tông môn’: Tăng Ni Việt Nam hầu hết đều thừa nhận là thuộc dòng Lâm Tế hay Tào Động, tức là hai dòng thiền từ Trung Quốc truyền qua Việt Nam. Thế nhưng, khi được hỏi thì đa số lại thừa nhận rằng đang tu theo pháp môn Tịnh độ. Nói một cách ví von là con cháu đã tự thay đổi pháp môn nhưng vẫn giữ dòng họ. Vì đã thay đổi pháp môn nên không mấy Tăng Ni học về tôn chỉ của hai dòng thiền này. Về pháp môn Tịnh độ, căn cứ vào kinh A Di Đà thì hành giả phải thành tựu tín-nguyện-hạnh. Trong đó, hạnh là niệm Phật đến nhất tâm bất loạn (được gọi là chánh hạnh), tức tương đương chánh niệm, chánh định trong Bát chánh đạo; và làm tất cả các việc lành (gọi là trợ hạnh). Niệm Phật để nhứt tâm tức chánh định, hành giả có thể hiểu và thực hành được. Còn về phương pháp làm các việc lành, và việc gì gọi là lành thì trong kinh A Di Đà không định nghĩa. Tuy nhiên, mặc dù nói tu theo Tịnh độ nhưng Tăng Ni hầu như không đi theo con đường đó mà học tất cả các kinh điển, cả tạng Pāli và Đại thừa. Do đó, Phật giáo nguyên chất đã bổ sung kịp thời, góp phần định hướng hành giả tu Tịnh độ đúng đắn theo tinh thần Phật dạy. Sự lạc điệu này là một điều may mắnthú vị.

Sự học thiếu hoạch định và thiếu tính chất ứng dụng: Hiện nay, với số lượng làm tròn khoảng 50.000 Tăng Ni, trong đó số người đang theo học tại các trường chưa tới 1/3(8). Trường thì cứ mở ra nhưng sự hoạch định chương trình đào tạo để bổ sung nhân sự chăm lo công tác Phật sự thì chưa được quan tâm. Chưa có sự khảo sát nào để xác định Phật giáo đang cần nhân sự về ngành nào, bao nhiêu, để đào tạo bổ sung vào. Giữa trường Phật họcGiáo hội, như thế, chưa có sự hợp tác chặt chẽ. Về mặt ứng dụng thì rõ ràng sự học hiện nay nặng về trau dồi kiến thức hơn là tiêu hóa kiến thức.

Lời kết

Sự học là một quá trình liên tục nhằm bồi bổ kiến thức từ chỗ không biết đến thông thạo về các lĩnh vực theo học. Nó giúp chuyển hóa con người từ bình dân thành trí thức, từ vô văn phàm phu thành bậc thánh đa văn, và cuối cùng theo Phật giáoquả vị Chánh đẳng chánh giác. Nhờ sự học mà Đức Phật thông thạo tất cả các lĩnh vực; nhờ sự học mà chư Tổ luận giải nhiều bộ luận có giá trị muôn đời; nhờ sự học mà chư tôn đức đã đóng góp cho nền Phật học Việt Nam những dịch phẩm vô giá. Đặc biệt, sự học đúng phương pháp là nền tảng vững chắc cho sự thành công trong mọi lĩnh vực, kể cả Phật quả. Tầm quan trọng của sự học như thế đủ biết.

Ngày nay, Tăng Ni không ngừng nỗ lực học tập để trau dồi kiến thức, chuyển hóa thân tâm, hoằng truyền Chánh pháp. Nền Phật học nước nhà đang từng bước nâng cấp để hoàn thiện vai trò quan trọng của nó. Nếu như vai trò của nền giáo dục thế tụcđào tạo các nhà khoa học, triết gia, quản lý,… thì nền Phật họcsứ mạng đào tạo những bậc thầy tâm linh, bậc thánh. Do vậy, nền Phật học phải trung thành với chất lượng thật để duy trì niềm tin yêu vốn được tín nhiệm. Sự giả dối, nếu có, trong nền giáo dục Phật giáo là sự phá sản. Mùa xuân về mang bao niềm ước vọng. Sự học chân thành luôn mang lại niềm vui!

 Chú thích

(1)  A-la-hán có 3 nghĩa là Sát tặc, tức là giết sạch hết giặc phiền não trong tâm; Vô sanh, tức là Niết-bàn; và Ứng cúng, là bậc xứng đáng thọ nhận cúng dường. Như vậy, A-la-hán chưa phải là bậc Chánh đẳng chánh giác, tức là quả vị Phật.

(2)  Xem thêm kinh Tăng chi I, chương 2; kinh Pháp môn căn bản, kinh Hữu học, kinh Đại phương quảng thuộc kinh Trung bộ.

(3)  Narada, The Buddha and His Teachings, (Taiwan, 1988), tr.6.

(4)  Charles S. Prebish and Damien Keown, Introducing Buddhism, (New York and London: Routlegde, 2006), tr.28.

(5)  Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông, tập I, NXB Tôn Giáo, 2012 (tái bản), tr.27.

(6)  http://www.giaohoiphatgiaovietnam.vn/nhanvat-tieubieu/100-nhan-vat-tieu-bieu-cua-ghpgvn.html.

(7) http://www.giacngo.vn/lichsu/nhanvat/2012/09/02/1E5412/.

(8)  Dựa trên số lượng Tăng Ni tại các Học viện, Trường Cao đẳng, Trung cấp và các lớp Sơ cấp.


Thích Hạnh Chơn
(Nguyệt San Giác Ngô)
Tạo bài viết
04/02/2016(Xem: 10977)
05/02/2013(Xem: 24354)
18/01/2014(Xem: 7358)
Bản tin ngày 3 tháng 12/2014 trên báo Global New Light of Myanmar (GNLM) của Bộ Thông Tin Myanmar loan tin rằng Trung tâm Giáo dục Phật giáo Quốc tế (IBEC: International Buddhist Education Centre) đã công bố sự tham gia của IBEC vào dự án Vườn Lumbini (Lumbini Garden) tại Tây Ban Nha, nơi sẽ trở thành Công viên Phật giáo lớn nhất châu Âu. Sáng kiến quan trọng này sẽ có sự đóng góp từ nhiều quốc gia, bao gồm Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, Sri Lanka, Trung Quốc, Hồng Kông, Nepal, Bhutan và Đài Bắc Trung Hoa (Ghi nhận của người dịch: không thấy Việt Nam). Dự án sẽ có các chương trình giáo dục Phật giáo cấp cao hỗ trợ bởi IBSC (Thái Lan), SSBU, SIBA và IBEC-Myanmar.
Bhutan, vương quốc ở vùng núi Himalaya đã mang đến cho thế giới khái niệm về hạnh phúc quốc gia, chuẩn bị xây một "thành phố chánh niệm" (mindfulness city) và đã bắt đầu gây quỹ từ hôm thứ Hai để khởi động dự án đầy tham vọng này. "Thành phố chánh niệm Gelephu" (Gelephu Mindfulness City: GMC) sẽ nằm trong một đặc khu hành chánh với các quy tắc và luật lệ riêng biệt nhằm trở thành hành lang kinh tế nối liền Nam Á với Đông Nam Á, theo lời các quan chức.
Những phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng là mảnh đất màu mỡ cho đủ loại thông tin, là nơi để một số người tha hồ bịa đặt, dựng chuyện, bé xé ra to và lan đi với tốc độ kinh khủng. Họ vùi dập lẫn nhau và giết nhau bằng ngụy ngữ, vọng ngữ, ngoa ngữ…