An cư kiết hạ là truyền thống có giá trị
rất thiết yếu trong Phật giáo. Truyền thống này đã có từ thời đức Phật.
Nhưng thực ra, pháp an cư không phải đức Phật là người đầu tiên chế định, mà Ngài đã tùy thuận theo truyền thống vốn có của xã hộiẤn Độ đương thời và áp dụng cho hàng đệ tửxuất gia của mình. Duyên khởi của sự việc này chúng ta có thể tìm thấy nơi luật Tứ phần:
Nhân một lầnđức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ nhóm sáu Tỳ-kheo trong ba mùa xuân, hạ và đông đều du hành trong nhân gian. Gặp lúc trời mưa vào mùa hạ, y bát, ống đựng kim… của họ bị nước cuốn trôi. Họ lại dẫm đạp lên cỏ
non và các loại côn trùng sinh trưởng trong mùa mưa, đoạn diệt đi mạng sống của chúng. Điều này đã bị các cư sĩchỉ trích, rằng các Sa mônThích tử không biết hổ thẹn, bên ngoài nói biết chánh pháp nhưng thực ra
không biết chánh pháp. Các tu sĩngoại đạo còn có ba tháng an cư, còn các Thích tử trong ba mùa đều du hành trong nhân gian. Ngay cả mùa mưa nước lớn cũng du hành, khiến y bát bị trôi, lại dẫm đạp, hủy hoại cỏ non
và các loài khác. Loài chim, côn trùng còn có hang tổ là trú xứ nghỉ ngơi của chúng, còn các Sa mônThích tử không được như thế.
Những
Tỳ-kheo sống đời thiểu dục tri túc, có lương tâm, biết hổ thẹn, đã quở trách nhóm sáu Tỳ-kheo và đến chỗ đức Thế Tôn bạch đầy đủ sự việc này lên Ngài. Đức Thế Tôn nhân đây tập họp các Tỳ-kheo lại, khiển trách nhóm
sáu Tỳ-kheo thiếu tịnh hạnh, không có hạnh tùy thuận, làm việc không nên làm để cho thế gian cơ hiềm. Và rồi Ngài chế định: Từ nay về sau cho
phép các Tỳ-kheo an cư ba tháng mùa hạ (Tứ phần luật 37, An cư kiền độ,
Đại 22, tr. 830b).
Duyên khởi để đức Phật chế định pháp an cư là như vậy. Từ đó về sau, hàng năm cứ vào ba tháng mùa mưa, chư Tăng tập
họp lại cùng một trú xứ để an cư.
Theo lịch của Ấn Độ thì một năm được chia thành ba mùa: mùa nắng, mùa mưa và mùa lạnh. Mùa nắng kể từ ngày 16 tháng 2 đến rằm tháng 6. Mùa mưa kể từ ngày 16 tháng 6 đến rằm tháng 10. Mùa lạnh kể từ 16 tháng 10 đến rằm tháng 2. Truyền thốngNguyên thủyPhật giáoy cứ theo lịch này nên bắt đầu vũ kỳ an cư (Vassavāsa) từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina). Nếu an cư được bắt đầu vào ngày 16 tháng 6 thì gọi là Tiền an cư (Purimikavassà). Còn nếu như có duyên sự không thực hiện Tiền an cư được mà phải dời lại một tháng sau, tức bắt đầu từ ngày 16 tháng 7 và kết thúc vào ngày 16 tháng 10 thì gọi là Hậu an cư (Pacchimikàvassà). Truyền thốngPhật giáo Bắc truyền thì bắt đầu kỳ an cư vào sau lễ Phật đản, tức bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 và kết thúcan cư
vào ngày 16 tháng 7. Phật giáoBắc tông dùng cụm từ an cưmùa hạ (kiết hạan cư) thay cho cụm từ an cư mùa mưa (vũ kỳ an cư). Sự sai khác về thời gian trong hai truyền thống này là do có sự sai khác về điều kiệnthời tiết khí hậu của từng quốc độ. Và một số nhà phiên dịch Trung Hoa khi dịch kinh cũng đã dịch kiết hạan cư thay cho vũ kỳ an cư.
Suốt
thời giankiết hạ, các Tỳ-kheo phải cấm túc tại một nơi. Tuy thế, nếu có các duyên sự quan trọng như cha, mẹ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Sikkhamana,
Sa-di, Sa-di-ni đau yếu, bịnh hoạn, tai nạn… thì được phép rời khỏi nơi
an cưtrong vòng 7 ngày. Nếu đi qua ngày thứ 8, mặt trời mọc lên, thì phạm tộiác tác. Ngoài ra, trong tín đồ nếu có người đau chết, tai nạn cũng được phép ra đi thăm viếng; hoặc trong hàng cư sĩtại gia đến thỉnh
đi trai Tăng, thuyết Pháp cũng được phép ra đi trong vòng 7 ngày. Cách thức đi trong khoảngthời gian 7 ngày tiếng Pali gọi là Sattàhakicca, tức là Tỳ-kheo hay Sa-di khi rời trú xứ an cư phải nguyện trước một, hai
hay ba Tỳ-kheo, hoặc trướcTăng chúng thế này: Sace me antarayo natthi,
sattahabbhantare aham puna nivattisam (Nếu không có sự rủi ro đến tôi, tôi sẽ trở vềtrong vòng 7 ngày).
Trong truyền thốngan cư, thường thì chư Tăng tập trung về cùng một trú xứ và sống chung suốt ba tháng mùa mưa. Suốt thời gian này các Tỳ-kheo chuyên tâm vào việc phát triển thiền định và đọc tụngkinh điển. Trong thời gian 9 tháng chư vị phải vân dugiáo hóa khắp nơi, nên ba tháng an cư là thời giancần thiết
để cho chư vị cùng nhau tu tập và học hỏigiáo pháp. Bên cạnh đó, việc cùng an cư sẽ giúp chư Tỳ-kheo có cơ hội học hỏikinh nghiệmtu học lẫn nhau, phát triển và thắt chặt tình đồng đạo. Trong các kinh điển, đôi khi ta thấy đức Phậttán thán hạnh độc cư và khuyến khích các Tỳ-kheo nên sống theo hạnh đó. Nhưng trong một số trường hợp, Ngài lại khuyên các Tỳ-kheo nên hòa hợp chung sống, trao đổikinh nghiệmtu tập, sách tấn và nương tựa lẫn nhau. Như vậy, chúng ta thấy lời dạy của đức Phật luôn tùy theo từng hoàn cảnhcụ thể mà được nói ra.
Thanh tịnh và
hòa hợp là hai yếu tố hình thành nên Tăng đoàn của đức Phật. An cư là dịp để chư Tăngtrưởng dưỡng hai yếu tố đó. Thiếu hai yếu tố đó, Tăng già dù có tồn tại cũng chỉ là vấn đềhình thức và cố nhiên là không giữ trọn ý nghĩa của từ Sangha. Việc đức Phậttùy thuận theo truyền thống của xã hộiẤn Độ đương thời như vậy không chỉ vì Ngài muốn tránh đi sự cơ hiềm của thế gian, mà Ngài cũng thấy được tính thực tiễn của nó. Một mặt là để giúp các Tỳ-kheo có thời giantu học và mặt khác là để thắt chặt tính hòa hiệp trong cộng đồngTăng lữ. Ngoài ra, thời gianan cư của chư Tăng cũng tạo điều kiệnthuận lợi cho các cư sĩ gần gũi học tập giáo pháp và thực hànhtu tập. Trong suốt 9 tháng kia, chư Tăng thường nay đây mai đó, du hóa khắp nơi, các cư sĩ không có dịp để học hỏi, nên đây là thời gian tốt nhất cho các cư sĩ thân cận chư Tăngtu học. Điều này giúp cho mối liên hệ giữa các Tỳ-kheo với cư sĩtại gia được thắt chặt, hỗ trợ lẫn nhau trong việc phát triển tâm linh, cũng như xây dựng một giáo hội với Tứ chúng chặt chẽ, bền vững.
Như vậy, dù truyền thốngan cư giữa Nam truyền và Bắc truyền tuy có khác nhau về vấn đềthời gian, nhưng ý nghĩa của hai truyền thống này thì không có gì sai khác. Dù an cưmùa hạ hay an cư mùa mưa thì vấn đềcốt lõi của nó là để phát triển đời sốngtâm linh và xây dựng mối hòa hiệp giữa các thành viên trong Tăng già. Thấy được điều đó thì ba tháng an cư mới có giá trị
thật sự. Và một vị Tỳ-kheo khi kiết giớian cư mới thấy được trách nhiệm lẫn lợi ích trong ba tháng an cư này.
Đọc trong kinh ta thấy có nhiều Tỳ-kheo đã chứng được đạo quả qua thời giantu tập ba tháng này. Nhưng bên cạnh đó cũng có những vị đã biến thời gianan cư thành dịp tích trữ tứ sự, thâu gom vật phẩm. Xét ra con người ở thời đại
nào cũng vậy, không phải ai xuất gia cũng đều đặt lý tưởnggiải thoát lên hàng đầu. Có lẽ cõi đời này vốn như vậy. Có thánh thì cũng có phàm. Có người xuất gia bước đến chân trời cao rộng nhưng cũng có người vẫn cứ
luẩn quẩn mãi trong lợi danh dù khi đã cạo bỏ tóc râu. Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật đã từng dạy: Này các Tỳ-kheo, hãy là người thừa tự Pháp của ta, đừng là kẻ thừa tự tài vật (Dhammadāyāda me bhikkhave bhavatha mā āmisadāyādā bhavatha). Mỗi Tỳ-kheo khi tham giaan cư phải hiểu được tinh thần của lời dạy đó để việc an cư ba tháng của mình có đầy đủ ý nghĩa, không đi lệch ra khỏi mục đích của truyền thống này.
Trên
đây chỉ là một vài nét khái quát về duyên khởi và ý nghĩa của pháp an cư. Chi tiết và phương thức thực hiện pháp an cư để biết đầy đủ thì cần phải đọc vào Luật tạng. Trong phạm vi của một bài viết có giới hạn, người viết chỉ trình bày một vài nét cơ bản như vậy, với hy vọng chia sẻ
cùng người đọc về một truyền thống đã được truyền thừa hơn 2500 năm, qua đó có được một cái nhìn đúng đắn khi áp dụngtruyền thống này vào đời sốngxuất gia, để cho giá trị cao cả vốn có của nó không bị mất đi.■
Vào thứ Tư, ngày 16-5 vừa qua, Nhà Trắng đã tổ chức lễ Vesak lần thứ hai để kỷ niệm sự kiện đản sinh, thành đạo và nhập diệt của Đức Phật. Năm ngoái là dấu mốc đầu tiên Đại lễ Vesak được đưa vào để tổ chức tại Nhà Trắng khi các đại diện từ ba truyền thống Phật giáo lớn tề tựu cùng nhau để thắp nến và cầu nguyện nhân ngày lễ đặc biệt này.
Một buổi nhạc Thiền trang nghiêm, cảm động đã thực hiện hoàn mãn hôm Chủ Nhật 15/5/2022 tại Tu Viện Đại Bi, Garden Grove, California. Nội dung buổi nhạc Thiền là để Tưởng nhớ Thầy, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong dịp tròn 100 ngày viên tịch của Thầy. Và cũng trùng hợp: hôm Chủ Nhật cũng là ngày Lễ Phật Đản.
Kharkov là một trong những nơi bị oanh tạc khốc liệt trong cuộc chiến xâm lăng Ukraine những ngày qua. Tuy nhiên Nga đã bác đề xuất thiết lập hành lang nhân đạo tại Kharkov (và cả Sumy).
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.