Tiểu sử thầy Shangpa Rinpoche
Shangpa Rinpoche thứ 2 bắt đầu cuộc đời xuất gia sau khi chính thức được công nhận bởi Đức Karmapa thứ 16, Gyalwa Karmapa Rangjung Rigpe Dorje. Lúc 11 tuổi, ngài thọ giới tại Pokhara, Nepal, với đức Karmapa. Cho đến tận hôm nay, Rinpoche vẫn ghi nhớ lời dặn của đức Karmapa thứ 16 rằng sẽ có vô lượng chúng sinh được lợi lạc bởi sự truyền bá giáo Pháp của Rinpoche.
Đức Karmapa chính là cội nguồn cảm hứng bất tận và sức mạnh vô song gia trì cho mọi hoạt động của Rinpoche.
Từ lúc còn nhỏ Rinpoche đã dành phần lớn thời gian để học tập và nghiên cứu các nghi lễ và các bản văn Phật pháp cổ. Sau này, Rinpoche theo học trường Phật học Tây Tạng ở Varanasi tại Ấn Độ. Ngài thuần thục giáo lý Phật học, luận văn, thơ, sử học và tiếng Sanskrit. Rinpoche nhận phần lớn các giáo lý quan trọng và quán đảnh chính yếu từ nhiều bậc đạo sư lớn.
Những vị thầy của Rinpoche bao gồm: Đức Karmapa 16, đức Sharmapa 14, Urgyen Tulku Rinpoche, Trulshig Rinpoche, Chogye Tri Rinpoche, Tenga Rinpoche, Khunu Rinpoche, Khenpo Richen, Dupseng Rinpoche thứ 2, Choje Lama Sherab Gyaltsen Rinpoche và nhiền vị khác.
Năm 1976, lúc 19 tuổi, Rinpoche mất đi người thầy thân thiết, Dupseng Rinpoche, người sáng lập và trụ trì của tu viện Jangchub Choeling ở Pokhara. Đức Karmapa thứ 16 đã chỉ định Rinpoche làm trụ trì tiếp theo của tu viện. Sự kiện này đánh dấu sự tiếp nối của Rinpoche đối với tâm nguyện cao quý của vị thầy quá cố.
Noi theo lòng sùng mộ kính ngưỡng tới đạo sư cùng với sự ban phước của đức Karmapa, Rinpoche đã nỗ lực không ngừng nghỉ trong suốt nhiều thập kỷ để cống hiến cho sự phát triển của tu viện Jangchub Choeling.
Cùng với sự cố gắng không ngừng nghỉ để lợi lạc cho tất cả chúng sinh, Rinpoche đã đảm nhận nhiều dự án quốc tế. Trong số đó có nhiều dự án từ tiền kiếp của ngài, và nhiều dự án được khởi xướng ngay trong đời này.
Lần đầu tiên Rinpoche đến Singapore vào năm 1982. Theo yêu cầu của Shamarpa Rinpoche, Rinpoche trở thành bậc thầy tâm linh và cố vấn của Karma Kagyud Buddhist Center ở Singapore. Cùng với việc dẫn dắt các thành viên của trung tâm, Rinpoche đã tạo tiền đề để xây dựng cơ sở vật chất hiện tại cho trung tâm.
Sự cố gắng không mệt mỏi ấy được thấy rõ ở Nepal, tại trung tâm Phật học Vikramashila, Rinpoche hiện thực tầm nhìn của mình để xây một trung tâm chuyên về Phật học, dành cho tăng thân Pokhara. Shangpa Rinpoche thứ nhất đã dành nhiều năm để giảng dạy ở Mustang. Ni xá Tharpa Choeling được xây tại Multinath với sự giúp đỡ của vua xứ Mustang và các đệ tử của ngài. Tập trung trong việc hướng dẫn ni chúng, Rinpoche cho xây các viện Phật học năm 2005. Để lợi lạc chúng sinh, Rinpoche đã hoàn thành việc xây dựng bảo tháp ở Mustang.
Tu viện Drubgyud Choeling tại Lumbini được hoàn thành năm 2001. Để ủng hộ việc tu tập Pháp, Rinpoche đã tài trợ pháp hội Kamtsang Choghar Dharma Camp lần đầu tiên tại tu viện năm 2003. Hơn 200 hành giả từ các tu viện khác nhau đã tham dự sự kiện. Năm 2004, Rinpoche hoàn thành xây dựng tu viện Phật học Kagyu KIBS tại Kỉtipur, viện Phật học theo dòng Karma Kagyud đầu tiên tại Nepal, nơi mà các cư sĩ từ khắp nơi trên thế giới có thể tới theo học và nhập thất dưới sự hướng dẫn từ các bậc thầy danh tiếng dòng Kagyud. Mặc dù có những bất ổn xã hội gần đây ở nepal, Viện Phật học đã không ngừng trao truyền Phật pháp cho tất cả những ai cầu pháp với một trái tim chân thành.
Với nguyện vọng phổ độ càng nhiều chúng sinh càng tốt, Rinpoche đã tổ chức lễ cầu nguyện vì hoà bình thế giới lần đầu tiên tại Boudhanath Stupa, Kathmandu vào tháng 12 năm 2005.
Rinpoche đã xây dựng trung tâm nhập thất trên đỉnh Sarangkot Pokhara cho các tăng ni để tham gia khoá nhập thất 3 năm 3 tháng. Những nỗ lực không mệt mỏi của thầy nhận được sự tôn trọng của tất cả. Rinpoche được giao đảm nhận vị trí chủ tịch Dharmadaya Sadha, một tổ chức Phật giáo đứng đầu ở Nepal. Quỹ Shangpa được thàng lập, đứng đầu bởi Rinpoche, với sự chấp thuận và ủng hộ của chính quyền Nepal, nhằm ủng hộ các hoạt động của Rinpoche.
Các dự ám hiện tại của Rinpoche bao gồm Kutsab Ternga Monastery ở Mustang, Dharmakaya Buddha Mandala tại Pokhara và trùng tu lại KIBS tại Kirtipur sau trận động đất 2015
23-27/8/2024: Rinpoche nhận giải Hoà Bình thế giới tại Stockholm City Hall, Thuỵ Điền.
2024: Dharmakaya Buddha Mandala, Pokhara, Nepal - đang phác thảo
2024: Sửa chữa và trùng tu KIBS, Kirtipur, Nepal - đang phác thảo
2023: Từ 2017, sửa chữa gompa và mở rộng tu viện Kutsab Ternga, Jomsom, Nepal
2022: Thành lập nhánh mới của học viện Phật học Vikramashila ở Balaju, Nepal
2018: Hoàn tất xây dựng viện dưỡng lão Dhonden Ling ở Pokhara.
2017: Hoàn tất xây dựng trung tâm Phật học Karma Kagyud ở Singapore.
2014: Thành lập Manjushree Foundation & Manjushree Hermitage tại Mỹ.
2008: Thành lập trung tâm nhập thất Karma Ngedon Palbar Ling, Pokhara, Nepal.
2004: Hoàn tất xây dựng KIBS, Kirtipur, Nepal
2001: Hoàn tất xây dựng Drubgyud Choeling Monastery, Lumbini, Nepal
2000: Hoàn tất xây dựng Gompa của Ni viện Tharpa Choeling, Muktinath, Nepal
1998: Hoàn tất xây dựng ký túc xá của tu viện Jangchub Choeling, Pokhara, Nepal.
1997: Khởi công xây dựng công trình mới cho trung tâm Karma Kagyud Buddhist Centre, Singapore
1994: Thành lập quỹ Shangpa
1992: Trung tâm Karma Kagyud Buddhist Centre, Singapore dời về địa chỉ hiện tại
1991: Hoàn tất chánh điện của Jangchub Choeling Monasery, Pokhara, Nepal.
1990: Xây dựng nền móng cho Karma Kagyud Buddhist Centre, Singapore.
“Mọi việc đang được tiến hành, xin hãy kiên nhẫn với tôi” - Shangpa Rinpoche.
Chuyển ngữ sang tiếng Việt: Karma Dorje
nguồn: https://shangparinpoche.com/
Bản dịch có trên thư viện Karma Kagyu
https://thu-vien-karma-kagyu.org/
- Từ khóa :
- Shangpa Rinpoche