Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Dịch Giải

03/01/201510:19 SA(Xem: 15922)
Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Dịch Giải

TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC DỊCH GIẢI

LÝ VIỆT DŨNG ( 895 trang)

NXB MŨI CÀ MAU 2003

 

LỜI BẠT

blankKinh nói: “Vô Thiền bất Trí, vô Trí bất Thiền. Đạo túng Thiền Trí, đắc chí Nê-Hoàn” điều đó chứng tỏ Thiền và Trí là cốt tủy của Phật giáo. và những ai từng tích lũy căn lành trong nhiều kiếp mới  hy vọng uống được ngụm nước đầu nguồn chánh pháp. Hình như ở đây có một cuộc tao phùng kỳ thú, qua một giấc mộng trùng lai, khiến nhân quả vừa thoáng đượm hương Thiền liền vứt bỏ việc đời dấn thân và Phật lý. Chấp nhận cuộc sống thanh bần, cặm cụi phiên dịch kinh điển Hán tạng, chủ yếu là ngữ lục Việt-Hoa.

Quyển “Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục” này được xem là đình cao của tư tưởng Thiền học Việt Nam, do Tuệ Trung Thượng Sĩ trước tác, mà Thượng sĩ là một vị Bồ tát đời Trần, mang cốt cách của Duy Ma tái thế, Bàng Uẩn lai sinh. Người xưa nói: “Đồng thanh tương ứng, đồng khi tương cầu”, phàm  những người cùng một tần số tư tưởng thường dễ gặp nhauthông cảm với nhau thâm thiết.

Vì vậy mà ta đọc thấy trong quyển dịch giải này, tuy văn phong của dịch giả lời dung dị, ý hồn nhiên, mà kiến giải lại đầy nét sáng tạo, luận lý tương đối chuẩn xác, dường như lột tả được ý Thiền uẩn áo ở nguyên văn một cách thấu thoát do thanh khí càm thụ hơn là nhờ tài năng cùng học nghiệp.

Bỉ nhân (người viết này) mạo muội nghĩ rằng dịch giả có cái trí “Vô sư tự ngộ” nên đã trực giải tự đáy lòng của mình rồi lưu xuất một cách tự nhiên những gì tâm đắc mà vẫn tương ứng với ý văn ở nội dung bộ lục, khiến người đọc cảm thấy thống khoái lạ thường. Ngoài ra, đi sâu vào chi tiết, thì với những gợi ý, chú giảiphụ lục mà dịch giả đã bỏ công mười năm cần cù biên soạn, có thể giúp cho hàng học Phật hậu tấn đỡ mất thì giờ tra cứu mà vẫn dễ dàng lĩnh hội được chỉ ý mật tàng của Thượng Sĩ nói riêng, và yếu lý nói chung của biển Thiền sâu thẩm.

Có người hỏi, Thiền tông chủ trương “Không dùng văn tự, truyền ngoài giáo điển, phàm những gì có hình tướng đều là hư huyễn”, vậy thì còn dùng Ngữ Lục  để làm gì? Thế nhưng, nếu ta “huyễn” được thân tâm bản tính đều không, thì cùng với Phật có gì sai khác! Bấy giờ, ta có thể  ngồi xem máy bay, trăng rụng, mà chỉ thấy thần túy một màu xanh, đối với sự chướng trệ, đối với Lý chẳng vướng mắc, Sự, Lý đều dung thông vô ngại thì đâu còn lo gì gặp huyễn bàn về chuyện huyễn?

Vốn cảm mến dịch giả qua tác phong phóng khoáng, chấp nhận đời, vui, đạo, vi pháp dấn thân, cùng đức tính cần cù nhẫn nại, khiêm hạ cầu thị phải lúc, mươi năm vượt khó tâm huyết hoàn thành tâm nguyện, nên bỉ nhân cầm bút ghi lại đôi dòng thô thiẩn như  một sự tùy hỉ, đề nói lên mối hạnh duyên hi hữu của mình với người tri kỷ cùng dịch phẩm chứ đâu dám bảo là viết lời bạt.

Mong rằng các bậc hữu tri thức sẽ cầm quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Dịch Giải này lên đọc với một cảm thức tựa hồ “Người gỗ xem chim vẽ”thì thật là may mắn. Người gỗ bản chất vốn vô tình, chim vẽ thấy người cũng chẳng kinh, Tâm, Cảnh đều như vắng lặng, thì mặt trời trí tuệ tự nhiên chiếu sáng.

                                                   Tỳ kheo Thích Phước Sơn

pdf_download_2
Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Dịch Giài

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
25/11/2010(Xem: 88006)
25/11/2010(Xem: 75399)
27/06/2010(Xem: 40521)
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :
Một hình chụp văn bản lan truyền qua mạng xã hội hôm 12 Tháng Tám được cho là thư thông báo rời bỏ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (giáo hội quốc doanh) của Thượng Tọa Thích Minh Đạo, trụ trì tu viện Minh Đạo ở thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Từ chuyện xuất hiện của sư Minh Tuệ, nếu Phật giáo và một số cá nhân tu sỹ không có những sai lầm do chủ quan thiếu khiêm tốn trong quyền lực, phát ngôn ỷ thị và hành chánh thiếu cẩn trọng, vô tình đẩy sự kiện sư Minh Tuệ lên cao trào trong khi quần chúng dành sự ngưỡng mộ một tu sỹ khổ hạnh không thuộc Giáo hội Phật giáo, và lại thêm một hình ảnh như chiếc bóng thứ hai của sư Minh Tuệ là sư Minh Đạo tiếp nối lòng tôn kính của người dân có đủ mọi thành phần sau khi sư Minh Tuệ bị khiển trách rồi ẩn tu. Còn Chân Quang không thọ cụ túc chính thức một giới đàn nào, bằng cấp ba, bằng Tiến sỹ còn giả thì điệp đàn thọ giới chả là gì đối với người thiếu minh bạch. Hiện nay Chân Quang có hai bản lý lịch khác nhau và Điệp đàn thọ giới cũng không giống nhau đã bị cộng đồng mạng phanh phui.