Sự hộ pháp của người cư sĩ xưa và nay

22/03/20152:00 CH(Xem: 5073)
Sự hộ pháp của người cư sĩ xưa và nay
Sự hộ pháp của người cư sĩ xưa và nay
Thích Hạnh Chơn

cu si phat giaoSự hộ pháp của hàng cư sĩ thời Đức Phật đơn giản trong khi hiện tại đa dạng và phức tạp. Ngày xưa, cư sĩ chỉ hộ pháp bằng cách cúng dường thức ăn hay không gian tu tập nhỏ nào đó thì ngày nay họ phải cúng dường nhiều thứ theo nhu cầu thực tế. Thời xưa hàng cư sĩ không phải nghĩ đến việc hoằng phápuy đức của Đức PhậtTăng đoàn quá lớn và nếu có thì họ chỉ làm việc giới thiệu tín chúng đến gặp Phật hay Thánh chúng. Thời nay việc hoằng pháp rất cần sự tham gia của cư sĩ thông qua sự giảng dạy, xuất bản hay giới thiệu Phật pháp và sự tu tập bản thân.

Phật giáo vào thời Đức Phật còn tại thế được duy trì và phát triển bởi bốn chúng gồm hai chúng xuất gia và hai chúng cư sĩ. Vai trò của mỗi chúng được phân định rõ ràng theo lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong tạng Luật. Người xuất gia sống từ bỏ gia đình, chuyên tâm học pháp, hành thiền nhằm đạt quả Thánh giải thoát và để giáo hóa chúng sanh tùy năng lực mỗi người. Trong khi đó, người cư sĩ được hướng dẫn hỗ trợ hàng xuất gia thông qua việc thực hành hạnh bố thí cúng dường và được khuyến khích thực hành các điều đạo đức nhằm đạt phước báu nhân thiên. Việc trợ duyên của hàng cư sĩ cho hàng Thánh chúng nói chung được gọi là hộ pháp. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kỹ ta thấy rằng hàng cư sĩ thời Đức Phật không chỉ hộ pháp bằng cách bố thí cúng dường mà còn hộ pháp bằng cách đóng góp ý kiến hay đề nghị thực hành những điều có ích cho Tăng đoànđạo Phật. Ngày nay, sự hộ pháp của hàng cư sĩ càng đa dạng hơn với nhiều hình thức khác nhau từ bố thí cúng dường vật thực cho đến thực hành phápphổ biến, giảng dạy Phật pháp. Vì chủ đề này khá rộng nên bài viết chỉ thảo luận việc hộ pháp của hàng cư sĩ vào thời Đức Phật và thời nay tại Việt Nam. Những thử tháchgiải pháp cũng được đề cập để trao đổi.

Khái niệm hộ pháp

Từ hộ pháp vừa có nghĩa là người ủng hộ Phật pháp, vừa có nghĩa là sự che chở bảo vệ chính pháp. Theo Từ điển Phật học Hán Việt, hộ phápủng hộ chính pháp của Phật, Bồ-tát. Nhờ sự ủng hộ của các bậc có lực lượng lớn nên đạo không bị diệt. Từ Phạm thiên, Đế-thích, Bát bộ quỷ thần cho đến vua chúa và các đàn việtthế gian là người bảo hộ Phật pháp đều được gọi là Hộ pháp[1]. Theo huyền thoại Phật giáo, “Có những loài trời và loài quỷ thần, có duyên lành, được nghe pháp Phật và giác ngộ, quy y theo Phật pháp và nguyện bảo vệ chính pháp. Người ta gọi họ là những ông Thần Hộ pháp”[2]. Trong bài Mẫu hình người cư sĩ lý tưởngtác giả Chúc Phú phân tích ba cách hộ pháp của người cư sĩ. Thứ nhất là hỗ trợ các phương tiệnđiều kiện sống cho Tăng đoàn. Thứ hai là hỗ trợ về không gian tu. Thứ ba là giữ gìn những phương tiệnliên quan đến Tam bảo như kinh điển, chùa chiền, thanh danh đạo Phật, v.v…[3].

Hộ pháp còn gọi là hộ trì Chánh pháp hay hộ trì Phật pháp. Phân tích sâu hơn về hộ pháp, Hòa thượng Thích Trí Quảng cho rằng: “Phật và Thánh chúng mới có Phật pháp. Còn chúng phàm phu chỉ đóng vai hộ trì Phật pháp”. Từ đó, Hòa thượng giải thích: “Không làm mất lòng người, không làm não phiền người, gieo vào lòng người sự tôn kínhhộ trì Phật pháp. Tu hành mỗi ngày tâm hành giả được hoan hỷ, an lạc là đã hộ trì Chánh phápNiệm Phật, nhớ Phật, niệm kinh nhớ lời dạy của Phật là hộ trì Phật pháp. Hộ trì Phật pháp là hộ trì trong lòng mình và trong lòng mình có Phật thì Phật sẽ chỉ đạo cho lời nói, suy nghĩ và hành động của mình trở thành Chánh pháp”[4].

Như vậy, việc hộ pháp được biểu hiện qua sự việc cụ thể cho đến biểu hiện qua ý niệm trong tâm. Ở đây, bài viết sẽ dựa trên ba cách hộ pháp của người cư sĩ vừa nêu để phân tích và thảo luận.

Hộ pháp thời Đức Phật

Theo truyền thống Phật giáo nguyên thủy, Đức Phật và Tăng đoàn sống nhờ vào sự cúng dường của hàng cư sĩ. Đó là truyền thống của các Đức Phật do chính Đức Phật Thích Ca xác nhận với vua Tịnh Phạn nhằm giải thích sự than phiền của vua. Sự kiện này xảy ra trong chuyến thăm quê nhà đầu tiên của Đức Phật. Khi vua cha thấy Thái tử Tất Đạt Đa (Sidhartha) – lúc ấy đã thành Phật ôm bình bát đi khất thực trong thành, vua than phiền và cho rằng Phật đã làm ô danh dòng họ Thích Ca (Sakya). Theo Luật tạng, Đức Phật chỉ cho phép hàng xuất gia sở hữu ba y, một bình bát và một vài vật dùng cá nhân khác. Trong sinh hoạt hằng ngày, họ được phép dùng bốn thứ cần thiếtthức ăn, y áo, thuốc men và chỗ ở.

Với truyền thống sống bằng cách khất thực, hàng xuất gia không tự túc sản xuất ra vật chất để sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày mà phải nhờ vào sự hiến cúng của hàng cư sĩ. Họ cần sự hộ pháp của hàng cư sĩ từ thức ăn, vật dụng cho đến chỗ ở. Hằng ngày họ khất thực để được thức ăn duy trì xác thân. Họ nhận y áo cúng dường từ hàng cư sĩ vừa đủ để che thân khi trời nắng mưa, nóng lạnh. Họ trú tại các tinh xá lớn như Trúc Lâm, Kỳ Hoàn…do vua và các cư sĩ giàu có hiến cúng để cùng tu họchoằng pháp. Ngược lại, họ chế tác ra niềm an lạc hạnh phúc cho tự thân và hướng dẫn tha nhân cách thức để đạt được như họ. Quả vị giải thoát mà các vị xuất gia chứng đắc là món quà họ đáp lại công sức hộ pháp của hàng cư sĩ. Nhờ đó, họ có thể hướng dẫn hàng cư sĩ tu tập đúngChánh pháp và hiệu quả hơn.

Tóm lại, hàng xuất gia thời Phật không được phép chất chứa thức ăn hay của cải vật chất, không bận tâm việc xây cất chùa tháp hay tinh xá. Công việc của họ là tu tập để chứng quả Thánh và truyền bá Phật pháp.

Tuy nhiên, không phải tất cả những vị xuất gia thời Phật đều là những người thật tâm xuất gia. Với những người vì mục đích lánh đời xuất gia, việc tạo tác các hành vi phi pháp của họ có thể đoán trước được. Trước thực trạng này, chính hàng cư sĩ có những đóng góp trong việc ngăn ngừa và góp ý tưởng (duyên cớ) để Phật chế giới. Luật tạng ghi lại nhiều trường hợp xuất giamục đích trốn nợ, trốn lính, trốn hình phạt, hay để được ăn no mặc đẹp…[5]. Vì mục đích phi pháp, các nhóm Tỳ-kheo này không giữ được oai nghi của người xuất gia nên bị ngoại đạo chê cười và hàng cư sĩ phàn nàn. Trong một số trường hợp, vua Bimbisara đã gặp Đức Thế Tônyêu cầu chọn lựa khi độ người xuất gia. Tương tự, nữ cư sĩ Visakha cũng đóng góp hòa giải bất đồng trong chúng Tỳ-kheo-ni hay thỉnh Phật chế một số giới cho hàng Ni chúng[6]. Đây thuộc về cách hộ pháp bảo vệ thanh danh Phật giáo.

Cư sĩ hộ pháp bằng cách giảng dạy hay phổ biến Phật pháp hiếm thấy đề cập trong kinh điển Phật giáo. Có lẽ thời ấy trách vụ cúng dường cho hàng xuất gia cần thiết hơn là hoằng pháp bởi trách vụ phổ biến Phật pháp đã có Đức Phật và Thánh chúng đảm trách.

Hộ phápViệt Nam hiện nay

Sự hộ phápViệt Nam có nhiều thay đổi so với thời Phật nhằm thích ứng với điều kiện môi trường mới. Hình thức Phật giáo truyền vào Việt Nam không còn là Phật giáo nguyên thủy thuần túy mà là Phật giáo Theraveda và Phật giáo phát triển, trong đó hình thức Phật giáo sau thịnh hànhphổ biến rộng hơn. Sử liệu Phật giáo cho thấy các thương nhân Phật tử đã mang hình thức Phật giáo tín ngưỡng thờ cúng Phật và Bồ-tát vào Việt Nam trong giai đoạn du nhập đầu tiên. Về sau, các thiền sư người Ấn và Hoa truyền Phật pháp vào Việt Nam và cũng nhờ hàng cư sĩ bao gồm nhiều tầng lớp chung tay góp sức xây dựng nên các ngôi chùa lớn nhỏ khắp đất nước – tạo không gian sinh hoạt, tu tậptruyền bá Chánh pháp cho tứ chúng. Nổi bật trong hàng cư sĩ đóng góp xây dựng chùa chiền với quy mô rộng lớn là tầng lớp lãnh đạo bao gồm các triều đại vua chúa và các quan. Điều đáng lưu ý là bắt đầu từ giai đoạn này về sau, hàng xuất gia đóng vai trò quan trọng trong việc kiến lập tự viện, cụ thể là các sư trụ trì.

Ngày nay, hầu hết nếu không muốn nói là tất cả chùa chiền đều do sư trụ trì đứng ra xây dựng dựa trên sự cúng dường của hàng cư sĩ. Theo pháp luật hiện hành, người cư sĩ không đủ pháp nhân để đứng ra xin phép xây dựng chùa trừ các ban hộ tự được Giáo hội và nhà nước công nhận. Tuy nhiên, rất hiếm ban hộ tự đủ khả năng vận động tài chánh để xây dựng hay trùng tu các ngôi chùa. Do vậy, hàng cư sĩ vẫn tiếp tục hộ pháp bằng cách hỗ trợ không gian tu nhưng thường là gián tiếp thay vì trực tiếp như thời Đức Phật.

Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, đời sống của hàng xuất gia không dựa trên pháp khất thực mà phải tự túc sinh hoạt dựa trên sự cúng dường của hàng cư sĩ. Chùa chiền bắt đầu phải tích trữ của cải vật chất để phục vụ đời sống Tăng Ni và nhiều chùa còn chia sẻ của ấy cho đồng bào còn khó khăn. Cư sĩ không phải cúng thức ăn hằng ngày mà thường hộ pháp qua việc cúng dường tài vật để chùa tự lo liệu theo nhu cầu sinh hoạt ở mỗi nơi. Nói chung, sự hộ pháp theo cách thức thứ nhất vẫn tiếp tục duy trì dù có sự thay đổi cho thích hợp.

Sự hộ pháp theo cách thứ ba có nhiều thay đổi quan trọng thích ứng với điều kiện và nhu cầu hiện đại. Người cư sĩ suốt nhiều năm qua đã đóng góp phiên dịch nhiều kinh điển, tham gia giảng dạy Phật pháp, nghiên cứu và xuất bản nhiều tài liệu về Phật giáo nhằm phổ biến lời dạy của Đức Phật đến mọi người, và đặc biệttham gia công tác hành chính của Giáo hội. Nhiều cư sĩ đã hy sinh công sức và cả thân mạng để cùng với Tăng Ni bảo vệ Phật giáo trong thời kỳ Phật giáo gặp khó khăn. Có thể kể đến những vị có công lớn trong cách hộ pháp này như cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, cư sĩ Minh Chi, các thánh tử đạo…

Những thử tháchgiải pháp tham khảo

Sự hộ pháp của hàng cư sĩ ngày nay có nhiều hình thức nên cũng gặp nhiều thử thách khác nhau. Thứ nhất, hộ pháp về đời sống sinh hoạt của Tăng Ni thường phụ thuộc vào mối quan hệ giữa chùa và cư sĩ hơn là nhu cầu thực tế của chùa ấy. Ở chùa nào sư trụ trìnăng lực và biết cách thu hút Phật tử thì chùa ấy sung túc hơn. Sự cúng dường theo cách này thường dựa trên xúc cảm. Thứ hai, hộ pháp thông qua sự cúng dường xây dựng chùa tháp cũng rơi vào tình trạng tương tự. Có nhiều chùa được xây dựng quy mô hoành tráng đến mức xa xỉ vì nhận được nhiều tịnh tài từ cư sĩ trong khi nhiều chùa trải qua nhiều năm xây dựng không thể hoàn thành. Tất nhiên, hạn chế này không phải lỗi của người cư sĩ mà phần lớn thuộc về người quản lýsử dụng tịnh tài. Thứ ba, hộ pháp bằng cách truyền bá lời Phật dạy thông qua dịch kinh, giảng dạy, xuất bản sách… trên thực tế chưa tương xứng với tiềm năng của cư sĩ. Vai trò của cư sĩ Việt Nam trong lĩnh vực này còn mờ nhạt bởi phần lớn họ đóng góp một cách tự phát, tự nguyện, thiếu tổ chức bài bản, và thiếu “đất dụng võ”. Hạn chế này phần lớn là do tổ chức Giáo hội chưa có kế hoạch cụ thể để tận dụng nhân tài cư sĩ.

Có thể nói khó có giải pháp cụ thể nào để giải quyết vấn đề hạn chế trên. Đặc trưng của Phật giáo là không có giáo quyền cho nên mọi hình thức dùng quyền lực để điều hành đều thất bại. Ta biết rằng hình phạt cao nhất đối với hàng xuất giatẩn xuất (khai trừ) trong khi không có hình thức kỷ luật nào đối với cư sĩ. Đạo Phật cũng có đặc trưng nữa là dùng đức trị, tức nhờ công đức tu tậphóa độ được quần chúng, đưa họ về với con đường chánh đạo. Tăng Ni gương mẫuGiáo hội trang nghiêm thì sẽ tìm ra giải pháp khả dĩ để khắc phục hạn chế. Nghĩa là, các chùa điều tiết sinh hoạt phù hợp với nhu cầu cần thiết để có thể đóng góp vào nguồn dự trữ của Giáo hội. Ngược lại, Giáo hội phải sử dụng nguồn dự trữ để đầu tư hợp lý và có hiệu quả thiết thực. Nếu thực hiện được vai trò này, sự hạn chế của cách thức hộ pháp thứ nhất và thứ hai phần lớn được khắc phục. Xem ra giải pháp này khó thành hiện thực ít nhất trong hiện tại.

Nhu cầu nghiên cứu Phật học thời nay rất phổ biến. Quần chúng không chỉ đến với đạo Phật để thực hành tín ngưỡng tâm linh mà còn nghiên cứu, học hỏi giáo pháp vi diệu của Đức Phật. Các phân khoa Phật học được mở ra tại nhiều trường đại học lớn trên thế giới, các hội thảo về Phật giáo có nhiều cư sĩ tham dự với nhiều bài tham luận có chất lượng cao. Nhiều tạp chí nghiên cứu Phật giáo do cư sĩ không phải Phật tử đảm trách. Trước nhu cầu tìm hiểu Phật học của đông đảo quần chúng, sự hộ pháp bằng cách phổ biến, giải thích Phật pháp đang gặp thử thách bởi thiếu nhân sự và thiếu điều kiện nghiên cứu. Do đó, tổ chức Giáo hội cần có một chính sách chiến lược để quy tụ những người có năng lực tham gia nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đời sống tu tập của đồng bào Phật tử nhằm tạo chương trình trợ duyên cho họ và cũng để bảo vệ đạo pháp. Xa hơnnghiên cứu phương cách đưa đạo Phật đến các vùng xa xôi của đất nước.

Lời kết

Sự hộ pháp của hàng cư sĩ thời Đức Phật đơn giản trong khi hiện tại đa dạng và phức tạp. Ngày xưa, cư sĩ chỉ hộ pháp bằng cách cúng dường thức ăn hay không gian tu tập nhỏ nào đó thì ngày nay họ phải cúng dường nhiều thứ theo nhu cầu thực tế. Thời xưa hàng cư sĩ không phải nghĩ đến việc hoằng phápuy đức của Đức Phật và Tăng đoàn quá lớn và nếu có thì họ chỉ làm việc giới thiệu tín chúng đến gặp Phật hay Thánh chúng. Thời nay việc hoằng pháp rất cần sự tham gia của cư sĩ thông qua sự giảng dạy, xuất bản hay giới thiệu Phật pháp và sự tu tập bản thân.

Riêng về hộ trì Phật pháp bằng chính sự tu tập của bản thân, còn nhiều điều chúng ta cần suy nghĩ. Sinh hoạt ở nhiều chùa vẫn chưa đẹp như tình trạng tranh giành hơn thua ngay trong chùa, nhiều tín đồ còn thiếu ý thức nên chia phe nhóm rồi gây buồn phiền nhau, nhiều cư sĩ còn thiếu oai nghi trong khi đi đứng nói năng trong thánh địa chùa chiền… Đây là những thử thách trong vấn đề hộ pháp.

Hội đồng Liên hợp quốc tôn vinh đạo Phậtcông nhận ngày đản sanh của Đức Phật là ngày lễ quốc tế bởi sự đóng góp to lớn của Đức Phậtgiáo pháp nhân bản của Ngài. Hộ pháp đúng nghĩa thì phải giữ gìn tinh thần cao đẹp của Chánh pháp. Nó biểu hiện qua hành vi của từng hành giả tu tập. Do đó, mỗi người con Phật nói chung và mỗi cư sĩ nói riêng nếu thể hiện được nét đẹp của Chánh pháp qua cách đi đứng trang nghiêm, lời ăn tiếng nói nhẹ nhàng dễ nghe, và suy nghĩ tích cực xây dựng thì đã đóng góp rất lớn trong sự hộ pháp.

Thích Hạnh Chơn
 

[1] Kim Cương Tử chủ biên, Từ Điển Phật Học Hán Việt, Hà Nội: NXB Khoa Học Xã Hội, tr. 525.

[2] Từ Điển Phật Học Onine 

[3] Chúc Phú, Mẫu Hình Người Cư Sĩ Lý Tưởng,

[4] Thích Trí Quảng, Hộ Trì Phật Pháp, < http://www.daotrangphaphoa.net/bai-giang/kien-thuc-phat-phap/ho-tri-phat-phap/>

[5] Đại Phẩm, Chương Trọng Yếu < http://www.budsas.org/uni/u-luat-daipham/dp-01c.htm>

[6] Phạm Kim Khánh dịch, Đức PhậtPhật Pháp. Tp. Hồ Chí Minh: NXB Tổng Hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2013, tr. 187

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
28/01/2011(Xem: 252717)
17/09/2013(Xem: 9903)
09/12/2013(Xem: 8469)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.