Phân
tâm học cho rằng, trong cuộc sống hàng ngày, có một số
vấn đề, vì
lý do gì đó, vô tình hay
cố ý, bị chôn vùi vào
vô thức. Những cái này không mất đi mà chỉ nằm đó, và âm thầm
chi phối con người, nhưng
con người không hề hay biết. Hồi tôi còn nhỏ chưa đi tu, tôi thấy rằng hễ trong xóm có anh thanh niên nào biểu hiện bất thường thì tôi nghe những người lớn nói
với nhau rằng anh đó bị bịnh đòi vợ và cưới vợ cho anh đi thì anh sẽ
bình thường lại. Người
dân quê mình không có học Phân
tâm học mà nói
y như Phân
tâm học vậy. Và đó cũng chính là
phương pháp của Freud:
Tìm ra nguyên nhân và
đáp ứng hay
thỏa mãn nguyên nhân đó.
Cách
giải quyết của Phân
tâm học là giải tỏa những
ức chế bị đè nén một cách
vô thức. Trong Phân
tâm học, vị
bác sĩ tìm cách khơi gợi những uẩn ức
sâu xa từ
tiềm thức của bệnh nhân. Khi bệnh nhân nói ra được thì một mặt họ
cảm thấy được giải tỏa, và mặt khác, vị
bác sĩ cũng
chẩn đoán được
nguyên nhân sâu xa của căn bịnh mà có hướng
điều trị hay
giải quyết vấn đề. Tôi có xem một bộ phim, trong đó có một nhân vật là một nữ cảnh sát. Cô ta là một cảnh sát
tài năng, có điều là cô ta rất sợ lửa. Mỗi lần thấy lửa là cô ta bị khủng hoảng
tinh thần không sao tập trung được. Một
đồng nghiệp của cô sau khi
tìm hiểu biết được rằng đó là do hồi nhỏ cô
thường xuyên bị bố dượng
tra tấn bằng lửa. Nhờ biết được
nguyên nhân như
vậy mà đồng nghiệp cô đã khuyến khích cô và tập cho cô làm quen với lửa.
Dần dần cô khắc phục được điểm yếu đó. Đó là cách chữa trị theo Phân
tâm học. Và Sigmund Freud cũng như những người
kế thừa ông cũng chỉ dừng lại ở đó mà thôi. Tức là phân tích rồi đưa ra những
lời khuyên,
an ủi, hoặc động viên. Họ có thể tạm thời
giải quyết được một số
trường hợp cụ thể, nhưng không thể đưa ra một mẫu số chung cho tất cả
trường hợp. Họ biết rằng có
một thế lực ngầm là
vô thức hay
tiềm thức điều khiển
hành vi của
con người, nhưng họ không biết làm sao để
chuyển hóa cái
thế lực đó. Họ biết rằng “những
rạo rực về tình dục” (ví dụ vậy) chính là
nguyên nhân của nhiều bệnh về
thần kinh và tinh thần”, nhưng họ không biết làm sao để
giảm thiểu và “độ chúng vào
vô dư Niết-bàn”, nói theo kinh
Kim cang.
Thật ra là Freud cũng có mở ra một khuynh hướng nữa
tích cực hơn khi ông cho rằng
“những rạo rực về tình dục, dù hiểu theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng, cũng giữ một địa vị vô cùng quan trọng mà cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu rõ đúng mức trong đời sống tinh thần, chúng chính là nguyên nhân của nhiều bệnh về thần kinh và tinh thần. Hơn thế nữa, Phân tâm học còn khẳng định rằng, những rạo rực về tình dục tham dự một phần không nhỏ vào công việc sáng tạo của trí óc loài người, về phương diện văn hóa nghệ thuật và đời sống xã hội”2. Nghĩa là một số người, một cách
vô thức, những xung động
tính dục đã tự động thăng
hoa thành những phẩm chất
đẹp đẽ trong
văn hóa nghệ thuật. Một điển hình cho
trường hợp này là nhà thơ Hồ Xuân Hương. Bà là một
phụ nữ đa tình, khát khao cuộc sống
gia đình nhưng lại không có
hạnh phúc trọn vẹn. Đời bà mấy lần làm lẻ. Nhưng chính những
bất hạnh và những khát vọng không được
thỏa mãn này lại thăng
hoa thành những vần thơ bất hủ, được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm.
Những
khám phá như thế của Phân
tâm học thật ra là một bước tiến dài trong ngành
tâm lý học
hiện đại. Nó
khám phá vào các miền sâu thẳm của
tâm lý con người, chứ không chỉ dừng lại ở tầng
ý thức cạn cợt bên ngoài (như
triết gia Pháp René Descartes
quan niệm: “Tôi
tư duy, vậy tôi tồn tại”). Nó chỉ ra rằng ngoài cái
ý thức hay
suy nghĩ ra còn có những tầng
vô thức sâu thẳm hơn và quan trọng hơn. Chính cái
vô thức đó mới
chi phối cách
suy nghĩ và hành động của
con người,
mặc dầu con người không biết gì về điều đó. Những
khám phá của Phân
tâm học đã
giải quyết được một số căn bệnh của
con người, giúp bệnh nhân hiểu về chính họ một cách
đúng đắn mà từ đó giúp họ
điều chỉnh cuộc sống của mình cho
phù hợp. Ở
phương diện xã hội thì
khám phá của Freud về Phân
tâm học quả là một sự đột phá và những đóng góp của nó thật là
tích cực. Và thật sự Phân
tâm học đã làm cho Freud
trở thành một trong những
nhà tâm lý học hàng đầu cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Tuy nhiên, nếu nhìn từ
tuệ giác Phật giáo,
cụ thể là
Duy thức học và
Thiền minh sát thì Phân
tâm học vẫn còn rất thô sơ và cạn cợt. Nó đã thấy được cái gọi là
vô thức nhưng chưa thấy được sự hình thành cũng như cơ cấu
hoạt động của
vô thức. Và do đó mà cách
giải quyết của nó chưa đến nơi đến chốn.
Phương pháp của Phân
tâm học tựu trung có hai cách, một là
tìm ra nguyên nhân thật sự của
vấn đề để
thỏa mãn chúng, và hai là
chuyển hóa chúng. Và như
chúng ta vẫn thường biết,
thỏa mãn một
ham muốn chỉ là
giải pháp nhất thời, chứ không đoạn trừ được
ham muốn. Điều này trong kinh thường ví dụ như người khát mà uống nước muối, càng uống càng
cảm thấy khát thêm. Còn
chuyển hóa chúng, thật ra Phân
tâm học cũng làm không được tốt lắm. Vì nó diễn ra một cách
thụ động chứ
con người không biết chủ động để
chuyển hóa. Ấy
vậy mà, thật
ngạc nhiên và
lý thú,
Phật giáo nói chung và
Duy thức học nói riêng lại có thể làm được cả hai điều đó một cách
hoàn hảo, mặc dù nó ra đời trước Phân
tâm học khoảng hai ngàn năm.
Phân
tâm học của Freud cũng như các ngành
tâm lý học khác
không giải quyết được tận gốc
phiền não là bởi vì họ bị dính vào khái niệm gọi là
bản năng. Mà
bản năng thì là cái có sẵn không thể thay đổi được. Ngược lại, thuyết
chủng tử của
Duy thức học cho rằng không có cái gì gọi là
bản năng cả, mà chỉ là những
hạt giống đã gieo vào
A-lại-da thức.
Tùy theo hạt giống thiện ác tốt xấu mà biểu
hiện ra khuynh hướng
hành vi của người đó. Đó là
lý do tại sao có người có
bản tính ác và có người có
bản tính vô cùng lương thiện. Có người
tham dục rất nhiều và cũng có người không có nhiều
tham dục.
Có lẽ có người vẫn còn
cảm thấy chưa
thuyết phục khi họ thấy rằng
thực tế từ
con người cho đến các loài
động vật đều có
bản năng tính dục, dù nhiều hay ít. Đúng vậy. Và đó cũng chính là
lý do họ sanh làm người và các
động vật khác. “Ái bất nhiểm
bất sanh Ta-bà/ Tâm bất nhất
bất sanh Tịnh độ” là vậy. Những người và
động vật mà ta thấy đây đều là những
chúng sanh có
chủng tử về
dục ái.
Nếu không như thế thì họ đã không sanh đến đây. Nếu
chúng ta nhìn
xa hơn thì ta sẽ thấy rằng, mỗi cõi nước có
tính chất ái dục khác nhau. Và cũng có những cõi nước không hề có
ái dục, như các
chúng sanh ở các tầng trời cõi Sắc và
Vô sắc. Nếu là
bản năng thì không thể thay đổi, nhưng nếu là sự
huân tập thì có sự thay đổi xảy ra nếu ta biết
tu tập.
Tu tập như thế nào?
Như trên đã nói, cách
giải quyết của Phân
tâm học là hòa giải/thỏa mãn những đòi hỏi của “bản năng” và
chuyển hóa chúng.
Phật giáo cũng không ngoài hai cách đó nhưng
hoàn thiện hơn. Cách thứ nhất là cách làm của
Phật giáo Nguyên thủy, và cách thứ hai là cách làm của
Đại thừa Bồ-tát đạo và cũng là cách làm của
Duy thức học.
Về cách thứ nhất, nếu như Phân
tâm học hòa giải hoặc
thỏa mãn bản năng dục vọng của
con người thì các vị
Thanh văn, mà đỉnh cao là
quả vị A-la-hán, lại
triệt tiêu chúng
hoàn toàn. Tuy rằng
bản thân Đức Phật không giảng
Duy thức, không nói về
chủng tử, nhưng cách
thực hành mà Ngài đã dạy cho
đệ tử, như
thiền Minh sát chẳng hạn, là nhằm làm cho
các chủng tử đã gieo không thể nảy mầm và
dần dần sẽ bị hư thối,
tiêu diệt hoàn toàn.
Khi đọc các
kinh điển Phật giáo Nguyên thủy, ta hay thấy câu này: “Diệt trừ các
cảm thọ cũ, và không cho khởi lên
cảm thọ mới.” Ví dụ như
Đại kinh xóm ngựa, thuộc
Trung bộ kinh, phần
Tiết chế ăn uống, có đoạn
như vầy:
“Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? Chúng ta phải biết tiết độ trong ăn uống, với chánh tư duy, chúng ta thọ thực, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị thương hại, để hỗ trợ phạm hạnh, nghĩ rằng: Như vậy chúng ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên cảm thọ mới, và chúng ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn.” Cảm thọ cũ
đồng nghĩa với chủng tử Bản hữu và
cảm thọ mới
đồng nghĩa với chủng tử Tân huân trong
Duy thức học.
Phật giáo Nguyên thủy chính là dạy người ta cách diệt dục, diệt hết những
ham muốn của mình.
Cứu cánh của một vị A-la-hán đó là
vô sanh, không còn
tái sanh nữa, không còn gì
hiện hữu nữa, như “củi hết lửa tắt” vậy. Ta hãy đọc tiếp đoạn kinh sau đây, cũng trong
Đại kinh xóm ngựa:
Này các Tỷ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn nữa? Chúng ta phải hộ trì các căn. Khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn… Chúng ta phải chánh niệm tỉnh giác, khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi đứng, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể khởi lên ý kiến: Chúng ta đã thành tựu tàm quý, thân hành chúng ta thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, sanh mạng thanh tịnh, và các căn đã được hộ trì”.
Và
bài kệ sau đây trong kinh Nhất dạ hiền thuộc
Trung bộ kinh:
“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây”.
Tất cả các đoạn kinh trên chỉ nói lên và dạy một điều duy nhất là “diệt trừ các cảm thọ cũ, không cho khởi lên các cảm thọ mới.” Cảm thọ tức là cảm giác, gồm có ba loại là cảm giác vui, cảm giác khổ và cảm giác bình thường không vui không khổ. Tại sao chúng ta phải diệt trừ cảm giác? Bởi vì cảm giác là biểu hiện của sự tham ái, tham luyến, khát ái, dính mắc và sở hữu, là những yếu tố, nguyên nhân, động lực đẩy chúng sanh, dẫn dắt chúng sanh, lôi kéo chúng sanh vào sanh tử luân hồi. Nói là lôi kéo chứ thật ra không có ai lôi kéo mình hết, mà là do mình muốn như vậy. Như một người nghiện hút thuốc thì tự nhiên anh ta tìm thuốc để hút cho thỏa mãn cơn nghiện của mình chứ không ai ép anh ta hút cả. Do chúng sanh tham đắm vào “thú vui trần thế” cho nên chúng sanh tự nguyện đi vào trần thế để mà hưởng thụ. Do thích làm vua nên ráng tu để kiếp sau được làm vua, thích làm ca sĩ, thích ăn ngon, mặc đẹp, thích trở lại để mà gặp người thân yêu… cứ như thế mà tái sanh hết kiếp này lại kiếp nữa, kiếp nữa không bao giờ dứt. Như vậy cảm giác chính là nguyên nhân của sanh tử luân hồi không dứt. Cảm giác cũ sinh ra cảm giác mới, cảm giác mới củng cố cảm giác cũ và lại sinh ra cảm giác mới nữa. Cứ như thế liên tiếp mãi không dừng.
Một điều chúng ta cần phải biết là cảm giác cũ (để cho dễ hiểu, các bạn có thể dùng chữ vọng tưởng để thay thế cho chữ cảm giác, vì hai cái này bao hàm nhau. Khi vọng tưởng khởi lên tất nhiên có cảm giác của vọng tưởng đó, an lạc hoặc khó chịu) của chúng ta không phải mới có mà có từ vô thỉ. Về điều này, Duy thức học có sự giải thích rất là thấu đáo. Theo Duy thức học, thức A-lại-da (tàng thức) như là một cái kho chứa dựng tất cả các hạt giống. Các hạt giống này nằm đó chứ không mất, và chúng luôn tương tác với cảnh bên ngoài để tạo ra những hạt giống mới. Chúng ta có thể coi một hạt giống là một cảm giác hay một vọng tưởng khởi lên cũng được. Và chúng khởi lên liên tục. Đây là cái mà ta gọi là “những cảm thọ cũ”. Khi vọng tưởng hay những cảm giác cũ này khởi lên, nếu ta chạy theo thì coi như ta đã tiếp tay cho chúng, ta đã cung cấp thêm cho chúng nhiên liệu để chúng mạnh thêm; bằng ngược lại, ta không chạy theo chúng thì coi như chúng bị vô hiệu hóa, chúng yếu dần và chết đi. Cái này ta gọi là “không cho khởi lên những cảm thọ mới”.
Tất cả các pháp môn Phật dạy đều là để làm cái việc này, như một vài ví dụ trích dẫn trên. Chúng ta phòng hộ các căn không chạy theo cảnh bên ngoài, chúng ta chú tâm tỉnh giác những hành động, cử chỉ việc làm của mình (khi làm việc gì ta chú tâm vào việc ấy mà không nghĩ những việc khác), hay chúng ta an trú vào pháp hiện tại… không gì hơn là để vô hiệu hóa những cảm thọ cũ và mới của chúng ta. Nhờ thực tập chánh niệm, tỉnh giác và an trú trong hiện tại mà cảm thọ cũ không có cơ hội khởi lên, và cũng không thể phát sinh những cảm giác mới. Có thể nói, đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các pháp môn tu tập của Phật giáo. Những pháp môn khác đều là sự mở rộng hay giải thích thêm cho phương pháp này mà thôi. Ví dụ như kinh Viên giác có câu: “Tri vọng tức ly, ly vọng tức giác”, thì thật ra cũng chỉ là một sự phát ngôn của thiền Minh sát (quán sát một cách rõ ràng minh bạch) mà thôi. Nghĩa là khi vọng tưởng hay cảm thọ khởi lên, ta chỉ việc nhận biết chúng thì tự nhiên chúng sẽ mất đi. Cứ như thế dần dần các cảm thọ cũ sẽ không còn khởi lên nữa, và các cảm thọ mới cũng không sinh thêm nữa. Lúc đó, ở phương diện cạn nhất, ta sẽ làm chủ được cảm giác của mình, không để bị chúng lôi kéo, nhận chìm. Ta trở thành một con người tự chủ. Sâu hơn một chút, tâm ta lúc ấy sẽ như bầu trời không có mây, vắng lặng, chiếu soi. Là cái mà Tổ Bách Trượng nói: “Tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu.” Và cuối cùng là chúng ta không còn bị luân hồi trở lại do vì không còn động lực và nhiên liệu tái sinh nữa, mà trong kinh diễn tả là như “củi hết lửa tắt”.
Cách thứ hai là chuyển hóa. Nếu như Phật giáo Nguyên thủy dạy phải tiêu diệt luôn hạt giống thì Phật giáo Đại thừa dạy ta chuyển hóa chúng. Chuyển hóa như thế nào? Bằng cách gieo vào tâm thức càng nhiều hạt giống tích cực càng tốt. Nếu như cách thứ nhất là sự ứng dụng hai phần trước của Tứ chánh cần: Điều ác chưa sanh thì đừng để sanh, điều ác sanh rồi thì tìm cách diệt; thì cách thứ hai này là sự ứng dụng của hai phần sau: Điều thiện chưa sanh thì làm cho sanh, điều thiện đã sanh thì làm cho tăng trưởng. Cụ thể là phương pháp Lục độ của Bồ-tát đạo. Bồ-tát không chỉ diệt trừ xan tham mà còn tăng cường bố thí. Giới của Bồ-tát không chỉ Chỉ trì mà còn Tác trì, Chỉ phạm. Bồ-tát nhẫn nhục một cách có trí tuệ để độ chúng sanh. Bồ-tát Tinh tấn làm việc thiện (Thanh văn tinh tấn diệt phiền não). Thiền của Bồ-tát là các Tam muội để hóa độ và làm lợi ích chúng sanh (khác với tứ thiền bát định của Thanh văn). Trí tuệ của Bồ-tát là để thực hiện các phương tiện giáo hóa chúng sanh, lợi ích xã hội. Đối với Duy thức học, tu hành cũng là một sự chuyển hóa chuyển thức thành trí. Chuyển tiền ngũ thức thành Thành sở tác trí, chuyển Ý thức thành Diệu quán sát trí, chuyển Mạt-na thức thành Bình đẳng tánh trí, và chuyển A-lại-da thức thành Đại viên cảnh trí. Sự chuyển hóa này, nói một cách nôm na là chuyển tham ái thành từ bi, chuyển tình yêu ích kỷ thành tình cảm yêu tất cả chúng sinh, như bài thơ Tình yêu sau đây của Đức giáo chủ Huỳnh Phú Sổ (?):
Ta có tình yêu rất đượm nồng,
Yêu đời yêu lẫn cả non sông.
Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ,
Không thể yêu riêng khách má hồng.
Nếu khách má hồng muốn được yêu,
Thì trong tâm trí hãy xoay chiều.
Hướng về phụng sự cho nhơn loại,
Sẽ gặp tình Ta trong khối yêu.
Ta đã đa mang một khối tình,
Dường như thệ hải với sơn minh
Tình yêu mà chẳng riêng ai cả,
Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh.
Chúng ta thường nghe nói tu là tu Tâm, chính là tu như vậy. Tu cho hết vọng tâm để chỉ còn lại cái chân tâm hiện tiền. Chỉ một việc này thôi mà tu hoài không hết, tu mãi không xong. Một số người không hiểu tưởng đâu tu là phải ăn chay nằm đất, cho nên khi thấy mấy thầy cô có vẻ nhàn hạ liền cho là không tu. Bên ngoài không tu nhưng đang tu bên trong. Bên trong đang diễn ra một cuộc chiến một mất một còn giữa thiện và ác, chân và vọng; mà chỉ cần mất cảnh giác một chút là thua liền. Điều lý thú ở đây là các phương pháp tu này lại được thể hiện một cách thống nhất và thông suốt giữa các truyền thống tu tập trong Phật giáo. Dù cho Phật giáo Nguyên thủy, Đại thừa, Thiền, hay những phát triển của Phật giáo về sau như Duy Thức tông, tuy trình bày bằng những hình thức khác nhau, nhưng chỉ để diễn đạt một vấn đề mà thôi. Trong kinh Tứ thập nhị chương Đức Phật có dạy rằng, giáo pháp của Ngài như mật trong chén. Dù mật ở giữa chén hay ngoài rìa thì vẫn ngọt như nhau. Lại nói, nước biển chỉ có một vị mặn, giáo pháp của Phật cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát mà thôi.
Trên đây ta đã trình bày khái niệm Vô thức của Phân tâm học trong mối tương quan với A-lại-da thức của Duy thức học, sự tương đồng cũng như sự khác biệt trong cách tiếp cận và giải quyết vấn đề giữa hai trường phái tâm lý học. Ta thấy rằng Phân tâm học hãy còn hạn chế, trong khi đó Duy thức học đã giải quyết được vấn đề một cách rốt ráo. Vô ngã là giáo lý căn bản của Phật giáo, và ở đây, một lần nữa, nó lại biểu diễn vai trò của mình để giải quyết vấn đề gọi là bản năng. Mọi thứ đang trôi chảy và chuyển biến. Không có gì gọi là “bản” ở đây cả, dù là “bản thiện” hay “bản ác.” Cái gọi là bản năng đó chẳng qua là một sự tích tụ lâu đời, như phù sa tích tụ thành cồn, nước đóng lại thành băng. Nếu có cái gọi là bản năng thì sẽ không có sự chuyển biến, không có tu tập. Nhưng khi chúng ta hiểu được rằng các pháp do duyên sinh thì vấn đề được giải quyết dễ dàng hơn. Chúng ta có thể tu tập để giải thoát sanh tử, hoặc chúng ta có thể chuyển thức thành trí, chuyển phiền não thành Bồ-đề, nuôi lớn từ bi và trí tuệ để vào đời hóa độ chúng sanh như các vị Bồ-tát đã làm vậy.
Thích Trung Hữu
___________________
(1) Sigmund Freud (Nguyễn xuân Hiến dịch), Duy thức học nhập môn, http://vnthuquan.org/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvn4n2nvn31n343tq83a3q3m3237n1n&AspxAutoDetectCookieSupport=1. Truy cập ngày 26-3-2017.
(2) Sđd
Thư Viện Hoa Sen