Con người đã
đạt được những
khám phá mới trong sự
thực hành khoa học. Khi những
khám phá mới này không thể được
giải thích bởi các
lý thuyết khoa học
ban đầu, người ta lại
tiếp tục đưa ra những
giả thuyết khác nhằm
thỏa mãn những
vấn đề đã được
khám phá đó.
Một
giả thuyết được
chấp nhận rộng rãi thường phải hội đủ ba
điều kiện:
Thứ nhất,
hệ thống lý thuyết của nó phải
nhất quán, nghĩa là nó phải tự
giải thích và không tự
mâu thuẫn.
Thứ hai, nó phải có khả năng
mô tả chính xác những phát hiện đã có, đó là
giả thuyết có thể tự
hoàn thiện và
phù hợp với các thực nghiệm khoa học
hiện có.
Thứ ba, theo
giả thuyết này, một số
suy luận và
dự ngôn có thể được rút ra, và những
dự đoán này có thể được xác minh bằng các thí nghiệm và
quan sát trong tương lai. Khi ngày càng có nhiều
suy luận và
dự đoán được đưa ra,
giả thuyết khoa học này được các nhà khoa học
chấp nhận rộng rãi, và
giả thuyết khoa học này được gọi là
lý thuyết khoa học.
Nếu
lý thuyết mô tả này
giải thích và hướng dẫn đối tượng thuộc diện rộng và quan trọng, thì
lý thuyết này được gọi là
lý thuyết khoa học vĩ đại, như cơ học Newton,
thuyết tương đối của Einstein. Cơ học Newton
áp dụng cho tất cả các vật thể vĩ mô,
quy luật tuân thủ khi không tiếp cận với sự
vận động của tốc độ ánh sáng.
Thuyết tương đối có thể
mô tả vận tốc thấp của tất cả các vật thể vĩ mô ở tốc độ ánh sáng
tương đối, và
quy luật tiếp cận khi chuyển động tốc độ cao của ánh sáng.
Khi hai
lý thuyết này được
đề xuất, người ta có thể
giải thích những
vấn đề mà trước đây
mọi người không thể
giải quyết với các
lý thuyết khoa học đã cũ, và những
suy luận cùng tiên đoán
dựa trên chúng, về sau được chứng thực bởi nhiều sự
quan sát của các nhà khoa học.
Thuyết tương đối là một khái quát về cơ học Newton, và cơ học Newton là một
trường hợp đặc biệt ở tốc độ thấp của
thuyết tương đối.
Bởi vì mặt
thích ứng của hai
lý thuyết này
vô cùng rộng lớn, cho nên Newton và Einstein được
thế giới công nhận là các nhà khoa học vĩ đại nhất.
Lý thuyết của họ là
lý thuyết khoa học vĩ đại nhất. Phóng vệ tinh lên trời, chạy tàu ngầm dưới biển, thi đấu thể thao,
quan sát thiên văn… đều phải
tuân theo những chế ước của
quy luật mà
lý thuyết này đã
mô tả.
Tương tự như vậy,
Phật giáo cũng có đầy đủ ba
đặc điểm của
lý thuyết khoa học. Trước hết,
lý thuyết Phật giáo là tự
nhất quán và hài hòa.
Tứ Thánh đế tóm tắt hiện tượng nhiều
đau khổ trong cuộc sống
nhân sinh, chỉ ra
nguyên nhân gây
đau khổ, và đưa ra cơ sở
lý thuyết cùng với
phương pháp tu tập để
điều phục thân tâm.
Thứ hai, sau khi
Đức Phật thành đạo, Ngài đã
đề xướng những
đạo lý cơ bản của
vũ trụ và
nhân sinh,
giải thích nhiều
hiện tượng xã hội và
nhân sinh, và quan trọng hơn là nhiều người lắng
nghe lời dạy của
Đức Phật để
tu tập, và có rất nhiều người đã trải nghiệm nhiều
cảnh giới khác nhau như
Phật học đã chỉ ra. Cho nên
Phật giáo đã dành được sự
ủng hộ của nhiều người và đã có sự
ảnh hưởng rất rộng lớn.
Điều tôi muốn
nhấn mạnh là tính thực nghiệm của
Phật giáo.
Tuân theo sự hướng dẫn của
Đức Phật, những người
tu tập thực hành theo
giới luật, có thể ít hay nhiều chứng thực và khẳng định lời của
Đức Phật đều là
chân thật.
Phật học không phải là
triết học thuần túy về
lý thuyết, mà là một môn khoa học thực nghiệm có tính
thực tiễn rất mạnh, mặc dù nó còn bao hàm những triết lý vĩ đại. Dựa theo
Phật học để
thực hiện việc
tu hành tức là học Phật.
Thứ ba, một số
hiện tượng tự nhiên được
mô tả bởi
Phật giáo, là sự
quan sát thực tế cho những người đã
đạt được các kỹ năng
tâm linh tương ứng, nhưng đối với những người
bình thường, họ chỉ có thể tin điều đó, nhưng
quan sát dưới góc
độ khoa học
tự nhiên ngày nay, đó chính là lời
dự đoán khoa học của những người vĩ đại.
Đức Phật đã nói hơn 2.500 năm về trước rằng, có 84.000 con
vi trùng trong một bát nước, và có ba nghìn
đại thiên thế giới trong cấu trúc của
vũ trụ, được các nhà vi sinh học và
thiên văn học của khoa học
hiện đại ngày nay
xác nhận là
hoàn toàn có cơ sở khoa học.
Một số người bây giờ do không
hiểu biết một cách đầy đủ về
Phật giáo nên cáo buộc
Phật giáo là
mê tín dị đoan và không khoa học. Trên
thực tế, một số ít những người này lại không
hiểu biết đủ về khoa học. Họ có
thái độ mê tín khoa học và thiếu
tinh thần khoa học
chân chính.
Sáu nẻo luân hồi và
nhân quả báo ứng của
Phật giáo thường bị người ta
công kích, cho rằng đó là những điều
mê tín. Một trong những lý lẽ của những người này là khi ai đó đã làm điều ác mà không có
quả báo xấu
xuất hiện. Có người đã từng làm việc tốt nhưng không thấy nhận được
quả báo lành.
Thực ra những người này không hiểu được rằng khi
nghiệp lực trong
sáu nẻo luân hồi chín muồi, thì mới nhận được
quả báo.
Lập luận thứ hai là tại sao không ai có thể nhìn thấy
quả báo luân hồi.
Sự thật là từ khi
Phật giáo ra đời
đến nay đã hơn 2.500 năm, nơi
lịch sử và
kinh điển Phật giáo đã ghi chép lại nhiều người
tu đạo đã chứng được
thần thông và có thể thấy được sự
vận hành của
nhân quả luân hồi. Trong cuộc sống
chúng ta có rất nhiều những thứ vô hình
mắt thường không thể thấy được, nhưng
chúng ta không thấy không có nghĩa là nó
không tồn tại.
Đôi mắt của
chúng ta không thể cảm nhận được tia hồng ngoại hoặc tia tử ngoại; tai
chúng ta không thể
nghe được sóng
siêu âm và sóng siêu thanh; mắt
chúng ta không thể nhìn thấy
vi khuẩn, không thể thấy các hạt vi mô như nguyên tử.
Chúng ta không thể nhìn thấy và nghe thấy rất nhiều tín hiệu điện từ khắp nơi chung quanh mình, chẳng hạn như sóng radio, sóng truyền hình, tín hiệu điện thoại di động… Và còn có rất nhiều thứ khác mà khoa học vẫn chưa thể
khám phá ra nhưng nó vẫn
tồn tại trong
vũ trụ bao la.
Chúng ta có thể nhìn thấy
ánh mặt trời, nhưng
chúng ta không thể biết rằng ánh sáng này có bước sóng hạt lưỡng tính. Nhưng
chúng ta tin sâu không
nghi ngờ những điều nêu trên như tin khoa học thường thức, bởi vì khoa học
tự nhiên ngày nay được
phổ biến rộng rãi.
Tinh thần khoa học thực nghiệm nó nằm ở khoa học, và không vì bạn đã tin mà bạn xem nhẹ việc kiểm nghiệm, và cũng không phải vì bạn không đi
quan sát trắc nghiệm mà nó
không tồn tại và
trở thành mê tín.
Nếu ta muốn hiểu sâu hơn về các
định luật khoa học và
hiện tượng khoa học mà các
giác quan của
chúng ta không thể cảm nhận và nhìn thấy,
chúng ta phải nghiêm túc
học hỏi và
nghiên cứu với các bậc
thiện tri thức trong lĩnh vực khoa học. Khi học từ tiểu học đến khi tốt nghiệp
tiến sĩ, bạn sẽ
dần dần tìm hiểu thêm về các
lý thuyết khoa học,
thực hiện và
quán sát nhiều thí nghiệm khoa học hơn, và
đồng thời sử dụng các công cụ
nghiên cứu khoa học để biết rõ hơn về nhiều
hiện tượng khoa học.
Nếu như một người không được học về
nghiên cứu khoa học, cũng không hiểu nhiều về các
hiện tượng khoa học với những
quy luật tự nhiên, lại đi
chỉ trích và cáo buộc những
hiện tượng khoa học với các
quy luật ấy là
mê tín, đây
quả thật là rất buồn cười. Cũng như những
chân lý đã được
Phật giáo giới thiệu, không phải vì bạn không được học
Phật pháp, không trải nghiệm việc
tu hành thì bạn có thể
chỉ trích nó là
mê tín được.
Phật giáo là trí tín chứ không
mê tín, và là
đức tin của những người có
trí tuệ. Những nhân vật
lịch sử ở
Ấn Độ và
Trung Quốc qua nhiều
thế hệ đã
chứng minh điều này. Khoa học chính là sự vận dụng
trí tuệ của
con người, mà
Phật học chính là giúp cho
con người đoạn trừ
vọng niệm để
hiển hiện đầy đủ
trí tuệ của
chúng sinh,
vì vậy khoa học và
Phật học không hề
mâu thuẫn nhau dù chỉ là một ít.
Tính khoa học của
Phật giáo - Một sự
hiểu biết đúng đắn về
Phật giáo bắt đầu từ đây.
Có nhiều luận thuật trong kinh sách
Phật giáo phù hợp với khoa học
hiện đại đến
kinh ngạc. To lớn là nói đến sự hình thành
vũ trụ,
cấu tạo của hệ
mặt trời và dải ngân hà… Nhỏ là
quan sát đến sự sống của ký sinh trùng và vi sinh vật. Ngay cả những khoa học
tiên tiến như thuyết tương đối và cơ học lượng tử… cũng xác chứng tính
chân thật của
Phật giáo. Dưới đây là một vài ví dụ.
Ba nghìn đại thiên thế giới với vũ trụ
Đức Phật đã
mô tả chính xác về
trạng thái vũ trụ của
chúng ta trong kinh Khởi thế (起世经). Nguyên bản gốc là thể văn cổ xưa, nếu
mọi người có hứng thú thì nên tìm đọc.
Ví dụ như nói đến "Tiểu thiên thế giới" thì giống như một tấm lưới châu giăng ra theo hình cái mâm để ngửa lên vậy, tức là nó không chỉ có hình tròn mà còn có xoắn ốc bên trong, đó chính là hình dạng của dải ngân hà.
Ngoài ra còn chỉ ra rằng trong dải ngân hà có rất nhiều
tinh cầu có
con người đang sống.
Không gian ba chiều đối ứng với ba nghìn
đại thiên thế giới chính là
toàn bộ bầu trời
vũ trụ đầy sao mà
chúng ta hiện đang
quan sát.
Nơi ba ngàn
đại thiên thế giới này có
vô số thế giới. Có thể nói là
vũ trụ mà
con người đã
quan sát được
cho đến nay vẫn chưa
vượt qua những gì trong kinh Phật gọi là "ba ngàn
đại thiên thế giới".
Kinh Khởi thế cũng đề cập rằng trong
tiểu thiên thế giới của
chúng ta (tức dải ngân hà) có bốn châu lớn đó là Diêm-phù-đề (阎浮提), Cù-đà-ni (瞿陀尼), Phất-bà-đề (弗婆提) và Uất-đan-việt (郁单越). Trái đất của
chúng ta thuộc về một châu trong bốn châu lớn đó là Diêm-phù-đề. Ba châu lớn khác là nói đến
các loại người ngoài hành tinh,
các loại hành tinh trong dải ngân hà.
Đức Phật đã
mô tả họ một cách
chi tiết,
bao gồm hình dạng khuôn mặt, tuổi thọ và
điều kiện sống... Ngoài bốn châu lớn ra còn có ‘80.000 châu nhỏ’.
Các loại hành tinh nhỏ này vẫn chưa được
tiến hóa lên như những hành tinh cao cấp.
Trong tập hai của
Du-già Sư địa luận ghi: “Trong
thế gian này, 20
trung kiếp thành, 20
trung kiếp trụ, 20
trung kiếp hoại, 20
trung kiếp không.” Theo một số văn bản luận thuật của
Phật giáo, một
tiểu kiếp là 1.680.000 năm. Mỗi 20
tiểu kiếp là một
trung kiếp, tức là 33.600.000 năm. 80
trung kiếp là một
đại kiếp, tức là 2.688.000.000 năm. Đây chính là một vụ nổ lớn để tạo nên
thọ mệnh của
vũ trụ. Tuổi của
vũ trụ chúng ta hiện nay được đoán định là 13.700.000 năm, có nghĩa là
vũ trụ của
chúng ta bây giờ đang ở tuổi trung niên.
Chúng ta thử tính toán xem,
thời gian của
vũ trụ trong giai đoạn “thành” và “trụ” là 67.200.000.000 năm, trong lúc
vũ trụ hình thành và đang trụ thì
thái dương hệ (tức hệ
mặt trời) đã hình thành được 4.600.000.000 năm.
Ước tính khoảng hơn một tỷ năm sau khi hình thành thì hành tinh của
chúng ta đã
xuất hiện những sự sống
đơn giản nhất, và
lúc ấy hệ
mặt trời có tuổi thọ là 4.700.000.000 năm. Và hàng trăm tỷ năm về sau,
quả địa cầu này sẽ không còn đủ
điều kiện thích hợp cho sự sống nữa.
Luận về hình dạng của trái đất
Theo
kinh Lăng nghiêm,
đệ tử của
Đức Phật tên là
A Na Luật Đà bị mù mắt, nhưng lại
tu chứng được quả A-la-hán. Sau khi mở được
thiên nhãn thì ngài nhìn thấy cõi Diêm-phù-đề (trái đất) giống như trái Am-ma-la trong lòng bàn tay (một loại trái cây có hình bầu dục tại
Ấn Độ).
Nếu không thật sự
tu hành chứng quả thì cách nay hơn 2.500 năm, làm thế nào có thể biết rằng trái đất có hình tròn?
Câu-xá luận mô tả vòng đất dựa theo vòng nước, vòng nước lại dựa theo vòng gió, vòng gió lại theo vòng
không gian. Ở đây
biểu thị địa cầu là hình tròn, trên bề mặt địa cầu đa phần là nước, phía ngoài nước là tầng khí quyển, ngoài lớp khí quyển là
không gian. Chỉ ra một cách
chính xác nguyên nhân khi tròn khi khuyết, khi mờ khi tỏ của
mặt trăng. Trong kinh Khởi thế,
Đức Phật đã chỉ ra
chính xác nguyên nhân lý do mặt trăng khi mờ khi tỏ, khi tròn khi khuyết (vào ngày 30
âm lịch thì
mặt trăng tối nhất, gần nhất với
nhật cung, được bao phủ bởi
ánh mặt trời nên không hiện).
Luận về vi sinh vật
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng chỉ một cốc nước và nói rằng trong cốc nước này có đến 84.000
chúng sinh sống trong ấy (Phật quán
nhất bát thủy,
bát vạn tứ thiên trùng). Thật ra 84.000 là con số
tượng trưng, ý nói là một con số rất lớn. Đó là không dùng kính hiển vi mà có thể thấy
vô số vi sinh vật trong nước. Với
lý do đó,
Đức Phật đã
quy định rằng các
đệ tử trước khi uống nước
cần phải nên lọc nước để có thể
giảm thiểu việc làm hại các vi sinh vật (nếu quá nhỏ thì không có cách nào khác).
Luận về ký sinh trùng
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói thân người là ổ
vi trùng. Ngài còn xác định và chỉ ra
vị trí và
trạng thái hoạt động. Ngày nay nhờ khoa học phát triển đã phát hiện được ký sinh trùng trong cơ thể người có hơn 10 loại như: giun đũa, giun kim, giun móc, giun chỉ, sán dây,
vi trùng phổi, sán lá,
vi trùng gan… (
Tham khảo Đài
thiền bệnh mật yếu và
Chánh pháp niệm sở kinh). Có thể sẽ có người hỏi là hơn 2.500 năm trước, không có bất cứ dụng cụ khoa học
hiện đại nào, làm sao có thể
hiểu rõ được như vậy về vĩ mô như
vũ trụ và vi mô như
các loại ký sinh trùng? Trên
thực tế thì tất cả đều ở trong
thức tâm.
Con người có thể thông qua sự
tu hành thâm sâu, đến khi
giác ngộ thì có thể
nhận biết được tất cả
vũ trụ.
Chúng ta hoàn toàn có
lý do để tin, tức là bắt đầu từ bây giờ
cho đến khi
trải qua 5 tỷ năm
nghiên cứu khoa học, những gì
chúng ta hiểu biết về
bản chất của
vũ trụ cũng không thể sánh kịp với
hiểu biết của Đức Phật… Kinh Lăng-nghiêm chỉ ra: “Tất cả
nhân quả thế giới vi trần, do tâm mà hình thành nên”. Một ví dụ khác là
lý thuyết ba chiều về
vũ trụ đã
xuất hiện trong những năm
gần đây, và kinh Lăng-nghiêm xác chứng điều này: “Trên đầu một sợi lông có thể chứa đựng
mười phương quốc độ”. Loại ví dụ này
quả thật là không thể nào bàn đến chỗ
cùng tận được.
Lý thuyết Phật học đã có hơn 2.500 năm, nhưng khoảng gần 100 năm
trở lại đây mới được khoa học
hiện đại khám phá và
đồng loạt nghiệm chứng.