.
1. Đặt vấn đề Phật giáo là một trong những
tôn giáo lớn trên
thế giới, ra đời ở
Ấn Độ cho đến nay đã có hàng nghìn năm
tồn tại và phát triển.
Trải qua thời gian và bao
thăng trầm Phật giáo vẫn là một trong những hệ
tư tưởng –
tôn giáo có nhiều đóng góp trong dòng chảy
lịch sử tư tưởng nhân loại,
đặc biệt là những
vấn đề nhân sinh.
Phật giáo là một trong các
tôn giáo quan tâm nhiều đến
cuộc đời con người hiện thực, hướng
con người đến việc tự
giải thoát để tự tìm
hạnh phúc.
Tư tưởng nhân quả của
Phật giáo ngay từ đầu đã ăn sâu, bén rễ trong
suy nghĩ, tình cảm người dân mọi tầng lớp
nhân dân. Người
Việt Nam rất coi trọng
tư tưởng nhân quả, ông cha ta vận dụng lý
nhân quả để
xây dựng đạo lý, răn đời và răn mình như là luật bất thành văn để mỗi người biết tự
suy xét và sống sao cho thật tốt. Do vậy
nhân quả Phật giáo có
tác dụng răn dạy từ bên trong mang tính tự nguyện từ mỗi người, nên
giá trị nhân văn rất
bền vững.
2. Nội dung tư tưởng nhân quả cơ bản của Phật giáo Trong
quan niệm nhân quả Phật giáo có ba
phạm trù cơ bản là nhân, duyên và quả, chúng có mối
liên hệ mật thiết và
chuyển hóa cho nhau. Với mỗi
phạm trù Phật giáo lại có sự phân tích
cụ thể, thấu đáo.
Khi nói đến Nhân,
Phật giáo cho đây là
yếu tố chính, có trước, sản sinh ra cái khác. Nhân ở đây là cái làm khởi lên, tạo ra cái khác.
Tuy nhiên Phật giáo nhấn mạnh nhân phải được hiểu là tổng nhân, hợp nhân. Trong các cuốn kinh văn của
Phật giáo,
ban đầu một trong những từ
thường dùng nhất để
diễn tả nghĩa cả hai từ tạo ra kết quả (
duyên khởi) và
nhân quả là paticcasamuppada (đó là sự
kết hợp của hai từ paticca “đã đến vì” và samuppada “khởi lên”).
Theo phân tích của Buddhaghosa (
Phật Âm),
đức Phật dùng với
nghĩa bao hàm sự nhìn nhận một nhóm hay một
số nhân. Một nhân ở đây được hiểu bao hàm sự hài hòa của các nhân hợp thành một nhân có khả năng sản sinh ra kết quả và nếu có
thiếu sót bất kỳ cái nào trong vài nhân hợp thành một nhân thì sẽ không có kết quả, nhóm các nhân sẽ không thể sản sinh kết quả nếu chúng
độc lập với nhau hay thiếu một vài cái trong số chúng. Cho nên qua sự
tùy thuộc lẫn nhau,
bình đẳng và cùng nhau chúng sản sinh ra kết quả. Điều này được đề cập đến trong
kinh điển Pali và ngày nay
chúng ta thường quen với từ hetu (
nhân trực tiếp) và pratyaya (duyên –
nguyên nhân gián tiếp)
gắn liền với nhau được
sử dụng trong từ điển Pali – Anh ngữ .
Trong
Kinh A hàm tương ứng với từ hetu (
nhân trực tiếp) là từ yinvà pratyaya (duyên –
nguyên nhân gián tiếp) là từ yuan . Như vậy cả trong
Kinh điển Pali và
A Hàm các từ này được dùng đồng nghĩa để chỉ sự
đồng thời sinh ra kết quả chứ không phải hetu là nhân và pratyaya là
điều kiện phụ trợ cho nhân.
Phật giáo không cho rằng nếu
hạt giống là nhân (hetu) và đất, mưa,
ánh nắng... là
điều kiện (pratyaya). Bởi vì khi
hạt giống được gieo xuống đồng, nó sẽ mọc nếu được
cung cấp tinh hoa của đất và sự ẩm ướt. Hơn nữa
hạt giống phải
thỏa mãn nhiều
điều kiện khác như: nó phải không bị thối, bị vỡ, bị hỏng... Như vậy ở đây không phải chỉ
hạt giống là nhân mà các
yếu tố vừa nêu đều là nhân và các nhân khởi lên
đồng thời. Cũng giống như vậy,
Phật giáo quan niệm ngọn lửa của một cây đèn vào lúc canh ba là sự
tiếp nối ngọn lửa của canh một. Hai ngọn lửa này tạo ra một chuỗi: cái thứ nhất là nhân của cái thứ hai vì chúng có cùng
tính chất, bấc và dầu không phải là nhân mà chỉ là những cái
hoạt động đồng thời với cái khác để sinh ra kết quả .
Như vậy, khi nói về
nhân quả Phật giáo thừa nhận một
hệ thống trong đó các nhân đều
tùy thuộc lẫn nhau. Sự
tùy thuộc này được gọi là
duyên sinh (paticcasamuppada) . Phái
Nhất thiết hữu bộ là những người đầu tiên đã
phân biệt giữa nhân (hetu) và duyên (pratyaya). Họ lập ra thuyết sáu nhân (
năng tác nhân,
câu hữu nhân,
tương ứng nhân,
đồng loại nhân,
biến hành nhân,
dị thục nhân) và cũng lập ra thuyết bốn duyên (
nhân duyên,
đẳng vô gián duyên,
sở duyên duyên,
tăng thượng duyên). Lần đầu tiên
trong lịch sử Phật giáo, các nhà
Nhất thiết hữu bộ chấp nhận sự tách đôi này. Tuy cách chia có thể khác nhau nhưng thường thì hầu hết các trường phái kể cả trong và ngoài
Phật giáo đều
thừa nhận bốn loại
duyên cơ bản:
nhân duyên,
đẳng vô gián duyên,
sở duyên duyên và
tăng thượng duyên và sự chia tách thành nhiều loại duyên chẳng qua chỉ là sự
triển khai từ bốn loại
duyên cơ bản này mà thành. Có thể nói rằng trong
quan niệm ban đầu Phật giáo phân tích rất kĩ
yếu tố nhân và nhân phải được hiểu như
tổng số bao gồm nhiều
yếu tố dẫn tới sự hình
thành quả.
Cụ thể là do bốn loại
duyên cơ bản nêu trên.
Nhân duyên: Nhân là
năng lực tác động chính, là
điều kiện cần,
điều kiện tiên quyết; duyên là
điều kiện đủ, là hội nhân, để cho
năng lực tác động ấy hình thành. Trong loại này
nhân duyên đi liền
với nhau, ngoài nhân chính thì duyên ở đây chính là các nhân phụ. Nhân và duyên
hợp lại với nhau tạo thành hợp
nhân tạo nên quả.
Vì vậy không thể thiếu yếutố nào trong
nhân duyên này để sinh ra quả . Như vậy đây là loại duyên luôn đi liền với nhân, có
vai trò rất quan trọng trong việc tạo quả. Duyên này
xuất hiện cùng nhân, được coi là cái khởi lên để giúp hay phụ vào sự khởi lên của một cái khác nên thiếu duyên này quả không thể hình thành.
Đẳng vô gián duyên (hay còn gọi là
thứ đệ duyên) được định nghĩa là nhân kế cận hay tiếp giáp, nghĩa là tất cả làm nhân làm duyên cho nhau một cách
liên tục, không bị giãn cách.
Hay nói khác đi, pháp trước làm nhân cho pháp sau, pháp sau làm nhân cho pháp trước, các pháp cứ
tuần tự làm
nhân duyên cho nhau mà
sinh khởi liên tục, nếu bị cách trở
gián đoạn có nghĩa là thiếu cái duyên này,
pháp không sinh ra được. Loại duyên này cho thấy mối quan hệ và
vai trò của các sự vật trong
thế giới.
Bản thân mỗi sự vật được hình thành là kết quả của rất nhiều
yếu tố, có
liên quan đến rất nhiều cái khác; đến lượt nó lại đóng
vai trò là nhân, là duyên cho sự nảy sinh ra cái khác. Mỗi sự vật có vô vàn mối quan hệ
vì vậy nó có thể
cùng lúc làm duyên cho rất nhiều cái khác. Điều đó cho thấy không phải cứ nhân có trước mất đi rồi quả
xuất hiện và cứ thế
tồn tại, mà loại duyên này sẽ
yểm trợ và
duy trì sự
tồn tại cho quả sau khi quả đã
xuất hiện.
Sở duyên duyên có nghĩa gốc là leo vào, vin vào,
dựa vào, nương vào, vướng vào... Như vậy
sở duyên duyên là đối tượng để cái khác nương vào, vịn vào.
Sở duyên duyên là duyên
thế giới khách quan,
yếu tố yểm trợ khách quan.
Thế giới khách quan là đối tượng để cho
thế giới nội tại khởi sinh sự
nhận thức . Như vậy, đây là một số duyên khách quan
yểm trợ để
nhận thức của
con người có thể
nhận biết được sự
tồn tại,
vận động,
biến đổi của sự vật. Các sự vật phải nương vào các duyên này để biểu hiện sự
tồn tại của mình.
Tăng thượng duyên gồm có thuận duyên và
nghịch duyên.
Thuận duyên là
duyên thuận chiều để cho các pháp khởi sinh một cách nhanh chóng từ nhân đến quả.
Nghịch duyên là duyên
đối kháng làm trở ngại sự
sinh trưởng của nhân . Loại duyên này cho thấy duyên cũng đóng
vai trò tác động rất lớn đến quả theo hai hướng hoặc là đồng thuận hỗ trợ nhưng những cũng có thể ngược chiều, kìm hãm nhân.
Bốn loại
duyên cơ bản này cho thấy
Phật giáo đánh giá cao
vai trò của duyên trong chuỗi
chuyển hóa nhân quả, duyên được xác định là nhân khác tổ hợp với nhân chính để tạo quả. Điểm nổi trội của
tư tưởng nhân quả Phật giáo so với nhiều
tư tưởng khác là nhìn thấy được và xác định được đúng
vị trí của duyên.
Phật giáo không
tuyệt đối hóa
vai trò của nhân và cho rằng duyên không có
liên quan gì cả, cũng không rơi vào
quan điểm đơn giản hóa cho rằng duyên chỉ là
điều kiện hỗ trợ
xuất hiện lúc đầu cùng nhân khi quả được tạo thành thì duyên không còn
vai trò gì nữa.
Nhất quán trong
tư tưởng của mình
Phật giáo luôn đặt cho duyên một chỗ đứng xứng đáng cùng với nhân và quả. Duyên là
yếu tố không thể thiếu cùng với nhân để tạo quả và thật ra một sự vật có thể đóng cả ba
vai trò vừa là nhân, vừa là duyên, vừa là quả.
Vì vậy các sự vật đóng
vai trò là duyên không chỉ có một mà có thể có nhiều, quá trình
tác động của duyên không chỉ là
lúc đầu mà
thường xuyên liên tục, các sự vật cần duyên để biểu hiện và
duy trì sự
tồn tại của mình.
Phật giáo còn cho rằng duyên là
yếu tố có thể tác đến nhân theo hai hướng
tích cực hoặc
tiêu cực nên cũng có thể
tác động thuận chiều hoặc nghịch chiều đến quả vậy không thể có nhân hoặc quả cố định và nó cũng chỉ ra cho
con người thấy có thể thay đổi chiều hướng
tác động của nhân hay chiều hướng
biến đổi của quả thông qua quá trình
tác động vào duyên.
Khi nói đến Quả. Cùng với nhân và duyên,
Phật giáo cũng phân tích về quả và
sự tạo quả. Tùy vào
tác động của
yếu tố duyên vào nhân mà quả cũng có thể rất đa dạng,
phong phú. Hầu hết các
trường hợp khi quả ra đời nó thường ở cùng một cấp độ với nhân ví dụ con gà thì chỉ đẻ ra trứng gà mà không thể có chuyện đẻ ra trứng vịt. Hay trứng gà chỉ nở ra con gà mà không nở ra con vịt .
Tuy nhiên trên
thực tế từ nhân đến quả còn có các
yếu tố duyên
xen vào nên tuy quả cùng cấp độ với nhân nhưng vẫn khác nhân. Cũng không
nhất thiết một nhân tất yếu đưa đến quả, hay quả phải giống nhân.
Tùy thuộc sự
can thiệp mạnh yếu của các
duyên trung gian, thuận chiều hay nghịch chiều phát triển của nhân mà quả có thể hình thành sớm hay muộn hay cũng có khi không hình thành. Chính
vì vậy nếu có một cái
hoàn toàn mới ra đời mà lại khác
hoàn toàn với nhân thì đó là do sự tác động của
yếu tố duyên đến nhân trong quá trình tạo quả.
Gạt bỏ một số
yếu tố có tính
tôn giáo trong các
quan niệm trên về quả thì có thể thấy
Phật giáo nêu ra các
trường hợp khác nhau của
sự tạo quả để
nhấn mạnh rằng cũng giống như nhân và duyên, quả không phải là cái gì đó cứng nhắc, cố định. Quả như thế nào là do
tác động của nhân và duyên, nhân và duyên khác nhau,
tác động theo các chiều hướng khác nhau thì quả cũng không thể giống nhau. Nhưng dù có khác biệt thế nào thì quả vẫn là từ nhân và duyên mà hình thành
vì vậy sẽ tìm được cơ sở
giải thích cho mọi
trường hợp hình
thành quả. Như vậy, nếu
so sánh quan niệm nhân – duyên – quả của
Phật giáo với các
quan niệm của các
triết học khác, thì thấy điểm khác của
Phật giáo là không
đơn giản hay
tuyệt đối hóa nhân quả. Ở đây,
Phật giáo nhìn thấy
vai trò của từng
yếu tố nhân, duyên, quả trong chuỗi
nhân quả.
Nhân quả không phải quá trình một chiều,
nhân không phải
yếu tố tuyệt đối hình thành nên quả. Sự
chuyển hóa nhân – duyên – quả là mang tính
phức tạp. Chỉ ra sự
phức tạp này
Phật giáo dùng để
giải quyết vấn đề khổ và thoát khổ cho
con người, giúp
con người nhận thức tốt hơn về
vấn đề này.
Mục đích cuối cùng của
Phật giáo là
giải thoát, hướng
cá nhân con người đến tự
giải thoát khỏi khổ. Chính
vì vậy, sự
giải thích tỉ mỉ và
cặn kẽ của
Phật giáo về
nhân quả để chỉ ra cho
con người thấy rằng khổ là có
nguyên nhân,
nguyên nhân của khổ có nhiều và cũng do
yếu tố duyên
tác động mà mỗi người chịu
khổ không giống nhau (quả khác nhau) do vậy
khổ không phải là cái mang
tính chất định mệnh của mỗi người, do
thần linh quy định, cũng không phải là cái
bất biến không thể
xóa bỏ hoặc thay đổi. Khổ do chính
con người gây ra. Vì thế chính
con người cũng có thể
xóa bỏ hoặc thay đổi bằng cách
tác động thông qua các
yếu tố duyên. Chính duyên là
yếu tố có nhiều
tác động đến chuỗi
chuyển hóa nhân quả nên
Phật giáo rất
nhấn mạnh đến việc
con người có thể thông qua các
yếu tố duyên để thay đổi chiều hướng tạo quả theo hướng
tích cực, giảm hoặc
xóa bỏ tiêu cực.
Phật giáo tin rằng khi
con người có các hành động tạo nghiệp (thân, khẩu, ý) thiện hay ác thì
đồng thời các
nghiệp nhân thiện hay ác cũng được khởi lên. Và
tùy theo mức độ của
nghiệp nhân gây ra mà
con người phải chịu các
nghiệp quả khác nhau.
Nghiệp quả nặng nhẹ khác nhau có thể dẫn
con người đến
việc phải tái sinh vào các kiếp khác để trả các
nghiệp quả mà mình đã gây ra (
luân hồi). Quan hệ
nhân quả,
nghiệp báo,
luân hồi là một cách
giải thích tất cả các sự việc,
hiện tượng xảy ra trong
kiếp người, cũng như trong mọi sự vật,
hiện tượng.
3. Kết luận Tư tưởng nhân quả Phật giáo là
tư tưởng nổi bật trong
nhân sinh quan
Phật giáo.
Tư tưởng nhân quả của
Phật giáo có sự
kế thừa nhất định đồng thời có sự phê phán các khía cạnh khác nhau trong các
quan niệm chính thống và không
chính thống của
triết học Ấn Độ, để từ đó
xây dựng nên
hệ thống quan điểm nhân quả riêng.
Tư tưởng nhân quả Phật giáo đứng trên
lập trường vô thần với
giáo lý Duyên khởi làm nền tảng, do đó mà chỉ ra được tính khách quan, tất yếu,
vô tận của chuỗi
nhân quả.
Giáo lý Duyên khởi cho thấy
nhân quả là chuỗi
chuyển hóa bất tận, do
con người tự gây ra vì vướng vào vòng
vô minh, không do
thần thánh nào
ban cho hay
sắp đặt. Muốn
chấm dứt nhân quả thì phải
chấm dứt chuỗi
chuyển hóa của
mười hai nhân duyên này.
Nhân quả Phật giáo giúp
con người hiểu
cuộc đời vốn không phải là
định mệnh hay do
thần thánh điều khiển như một số người lầm tưởng.
Nhân quả Phật giáo dạy mỗi
con người chúng ta bài học quý giá để tự mỗi người
xây dựng cho mình
một đời sống
an lành,
hạnh phúc dựa trên chất liệu tự thân. Tin và hiểu
nhân quả dường như đã
xây đắp nên
tính cách con người chúng ta đức tính
bao dung,
rộng lượng,
hiền hòa dễ mến. Chính
vì vậy mà
trong đời sống
con người luôn phải biết chia sẻ, động viên nhau
vượt qua khó khăn
hoạn nạn. Ai cũng hiểu rằng đem đến cho người khác những điều
bất hạnh thì tự thân sẽ phải đón nhận những quả khổ đau. Ngược lại, làm điều tốt đem lại an vui cho
mọi người thì mình sẽ được hưởng
hạnh phúc.
Giáo lý nhân quả dạy cho
con người biết
chế ngự mọi
bất hạnh,
ngăn ngừa cái ác trong tâm khởi sinh, khuyến khích cái
thiện sinh sôi, xua tan
nghiệp quả, đem lại
niềm tin cho
bản thân, cho người khác và cho
xã hội.
Nguyễn Tiến Nghị
__________________________
Tài liệu tham khảo:
1. Chơn Thiện,
Phật học khái luận, Nxb
Văn hóa Sài Gòn, 1997.
2. Kalupahana,
Nhân quả trết lý
trung tâm Phật giáo (
Đồng Loại, Trần Nguyên Trung , dịch), Nxb Tổng hợp TPHCM, 2007.
3. Doãn Chính, Kinh văn của các trường phái
triết học Ấn Độ, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nôi, 2003.
4. Chân Quang, Nghiệp và kết quả, Nxb
Tôn giáo, 2005.
5. Chơn Quang, Luận về
nhân quả, Nxb
Tôn giáo, 2001.
6.
Thường Quang,
Nhân Quả Luân hồi, Nxb Hương Đạo, 1960.