- Mục Lục
- Lời Nói Đầu & Lời Giới Thiệu
- 1 Jetsun Dragpa Gyaltsen (1147 – 1216) Bài Ca Vĩ Đại Của Kinh Nghiệm
- 2 Ngonchen Kunga Zangpo Bài Nguyện Cầu Hạnh Phúc Cho Tất Cả Chúng Sinh Đang Sống
- 3 Cuộc Phỏng Vấn Pháp Vương Sakya Trizin Giáo Lý Cốt Tủy Của Đạo Phật
- 4 Giáo Chủ Chogye Trichen Rinpoche Lịch Sử Phật Giáo
- 5 Khenpo Appey Rinpoche Sự Sản Sinh Niềm Tin
- 6 Jetsun Dragpa Gyaltsen Bài Ca Về Việc Làm Thế Nào Để Dựa Vào Các Giải Độc
- 7 Khenpo Appey Rinpoche Ý Muốn Giác Ngộ
- 8 Pháp Vương Sakya Trizin Bản Tánh Của Tâm
- 9 Cuộc Phỏng Vấn Ngài Sakya Pandita Giáo Lý Cốt Tủy Của Đạo Phật
- 10 Acharya Lama Migmar Tseten Năm Kết Tập
- 11 Khenpo Appey Rinpoche Đánh Thức Phật Tánh
- 12 Khenpo Appey Rinpoche Năm Con Đường Đến Giác Ngộ
- 13 Khenpo Appey Rinpoche Mười Bhumi Đến Giác Ngộ
- 14 Chogyal Phakpa Tặng Phẩm Của Giáo Pháp Cho Kublai Khan
- 15 Khenpo Appey Rinpoche Sự Hoàn Thiện Của Tư Cách Đạo Đức
- 16 Khenpo Appey Rinpoche Sự Hoàn Thiện Của Nhẫn Nhục
- 17 Khenpo Appey Rinpoche Sự Hoàn Thiện Của Tinh Tấn
- 18 Khenpo Appey Rinpoche Sự Hoàn Thiện Của Thiền Định
- 19 Jetsun Rinpoche Dragpa Gyaltsen Bài Ca Thăm Hỏi Về Thể Chất Lành Mạnh
- 20 Jetsun Rinpoche Dragpa Gyaltsen Bài Ca Tán Dương Nhiệm Vụ
- 21 Jetsun Rinpoche Dragpa Gyaltsen Bài Ca Về Tám Thực Hành Của Giấc Mộng
- 22 Từ Sutra Avatamsaka Vua Của Các Bài Nguyện Cao Quý Khao Khát Các Việc Làm Xuất Chúng
- 23 Jetsun Dragpa Gyaltsen Bài Ca Mang Lại Kinh Nghiệm Về Thực Hành
- 24 Kính Lễ Đến Đức Phật Bậc Thực Hiện Mười Hai Việc Làm Giác Ngộ
- 25 Acharya Lama Migmar Tseten Lịch Sử Của Phái Sakya
- Tiểu Sử Các Tác Giả
1
Jetsun Dragpa Gyaltsen (1147 – 1216)
Bài Ca
Vĩ Đại Của Kinh Nghiệm
Namo gurubhadraya
Đến chư đạo
sư và bổn tôn cá nhân an trụ bất khả phân,
Bậc hợp
nhất mọi phẩm tính vào dòng tâm thức,
Con đảnh lễ
với thân, khẩu, ý thanh tịnh;
Con cúng
dường thoát khỏi người bám chấp và sự chấp bám;
Con tán
thán bằng tâm, vượt lên hoạt động của ngữ, thoát khỏi sự tạo tác;
Con sám hối
mà không vướng mắc bởi tội lỗi vi phạm trong ba thời;
Con quy y
không đối tượng, thoát khỏi sợ hãi;
Con tạo tác
vô lượng bồ đề tâm không có đối tượng,
Bản tánh
của điều đó là dharmata,1 như không gian;
Gốc rễ của
công đức không tích lũy là sự hồi hướng để giác ngộ;
Chấp nhận
hiện tượng rỗng rang của mandala này;
Xin ban
phước cho con, đấng ban phước.
Chỉ khi nào sự thấu suốt
được thiết lập (thành tựu),
thì sẽ như
chư Phật từng nói,
“Tất cả
thấy biết về tánh không đều là nguồn gốc của lỗi lầm,”
Cho nên, sự
thấy biết là không thể thấy biết.
Người có
trí tuệ, thì không thấy biết;
Người có
trí thông minh sắc bén, thì vượt trên mọi ngôn từ;
Với người
tinh tấn, chẳng có gì để thiền định;
Với người
có niềm tin, chẳng có nguyên nhân và kết quả;
Với người
có lòng bi thì không có chúng sinh;
Với người
tích lũy công đức và trí tuệ, chẳng có Phật quả.
Thoát khỏi
những cực đoan là vượt lên tri kiến, biểu hiện, và đối tượng, Madhyamaka,3
Chittamatra,4
và còn nữa,
biểu hiện
trong ngôn từ là sự tạo tác.
tư duy
trong tâm là khái niệm,
bản tánh5
thì không thể biểu hiện và không thể nghĩ bàn.
Chừng nào
thấy biết còn tiếp tục hiện hữu,
thì chẳng
giải thoát khỏi mọi đau khổ.
Dựa trên
khái niệm là đại vô minh;
nên mới nói
rằng, chúng sinh bị chìm đắm trong biển luân hồi.
Nếu dòng
tâm thức không được giải thoát bằng việc nghe,
đừng diễn
tả cái thấy bằng ngôn từ!
Với kinh
điển, nguyên nhân, và upadesha,
cái thấy
được xác quyết, tâm được thanh thản.
Chỉ khi
thực hành thiền định đã được thực hiện,
thì chẳng
có thiền định và cũng không có người thiền định.
Thiền định
đó, thoát khỏi các cực đoan là không có đối tượng,
do vậy hãy
buông bỏ các hoạt động và thực hành của mình.
Với tâm không có tâm,
hãy nhìn vào tâm;
nếu thấy
được, đó không phải là tự tâm.
Với cái
thấy không có cái thấy, tự tâm sẽ được thấy;
hãy an trụ
không sao lãng trong tâm không có cái thấy.
Nếu bám
luyến, hãy tạo nối kết với sự trong sáng;
nếu tán
loạn, hãy neo giữ với móc sắt của sự hồi tưởng.
Thiền định
là sự trong sáng không khái niệm.
Đừng diễn
tả thiền định bằng ngôn từ,
khi chưa
kết nối được với cam lồ của kinh nghiệm!
Hãy bắt đầu
với việc phát triển lòng bi và bodhichitta (ý muốn giác ngộ);
vào lúc kết
thúc, hãy hồi hướng công đức cho sự giác ngộ.
Chỉ khi thực hành hạnh,
người ta
kinh nghiệm được kiến và thiền.
Có dấu ấn
những điều thích thú,
hãy thực
hiện hạnh không lấy và không bỏ.
Đừng đặt
hạnh vốn tự nhiên không giả tạo như vậy
về phía tà
hạnh.
Đừng đặt
hạnh thăm viếng bạn bè
về phía cư
xử bừa bãi.
Đừng đặt
hạnh không bám chấp vào một sở thích
về phía
tham dục và sân hận.
Đừng đặt
hạnh buông xả không hoạt động
về phía bất
thiện!
Đừng đặt
hạnh tịnh hóa hoàn toàn ba thừa6 vào đạo đức bị nhiễm ô.
Đừng đặt
hạnh thiếu đạo đức và vô đạo đức trong sự trung lập.
Chỉ khi Phật quả được
thiết lập,
ngoài tâm
ra thì chẳng có Giáo Pháp.
Khi nhận
biết được tự tâm, đó là Phật,
đừng tìm
kiếm Phật ở nơi nào khác.
Hãy đừng
đặt dharmakaya đang sở hữu hai thanh tịnh7
về phía nền
tảng.8
Đừng bám
chấp cốt tủy của Phật
trong rupakaya
(Sắc Thân), xuất hiện
nhằm điều
phục chúng sinh.
Về căn bản,
chẳng có Phật;
đừng hy
vọng đạt thành tựu.
Về tối hậu,
chẳng có chúng sinh;
đừng sợ hãi
đau khổ.
Trong cái thấy thiếu tư
duy hay diễn tả,
người ta bị
lừa gạt bởi việc nghe và
sự suy ngẫm
về sutra và tantra.
Trong thiền
định không bị rơi vào các thái cực,
người ta bị
lừa gạt bởi việc tạo nỗ lực của thân và tâm.
Trong hoạt
động tự nhiên không ngừng đó của hạnh,
người ta bị
lừa gạt bởi lạc vào tà hạnh và cư xử bừa bãi.
Kết quả là,
bất khả phân giữa luân hồi và niết bàn,
người ta bị
lừa gạt vì bị rơi về phía hy vọng và sợ hãi.
Cái thấy đó
của Đại Trung Đạo
là cực lạc
không ảo tưởng vì đó không phải là sự xác nhận.
Thiền định
ấy buông xả thân và tâm,
là cực lạc
không ảo tưởng vì điều đó không cần nỗ lực.
Hạnh đó,
nguyên nhân nền tảng của tham dục và sân hận,
là cực lạc
không ảo tưởng vì nó không lấy hay bỏ.
Kết quả đó,
mahamudra,
là cực lạc
không ảo tưởng vì kết quả ấy không có hy vọng và sợ hãi.
Nếu không
tạo tác, đó là kiến.
Nếu không
sao lãng, đó là thiền.
Nếu buông
bỏ hoạt động, đó là hành.
Nếu tự tâm
được nhận biết, đó là kết quả.
Nếu cắt đứt
nghi ngờ, đó là kiến.
Nếu không
sao lãng, đó là thiền.
Nếu không
bám luyến và chấp giữ, đó là hành.
Nếu các
phẩm tính được đầy đủ, đó là kết quả.
Nói chung, với người đã
nhận ra cái thấy,
nếu không
có đối tượng của thiền định,
vị đại
thiền giả đó không có một thực hành.
Nếu không
có hành để thực hiện,
đó là yoga thoát
khỏi hạnh.
Nếu không
có kết quả,
[trong bản
văn gốc Tây Tạng thiếu mất dòng này]
cái thấy
rốt ráo là không có cái thấy,
kết luận
triết học không cần thiết ở đây;
thiền định
cao nhất là không thiền định,
tâm chấp
bám không cần thiết ở đây,
hạnh cao
nhất là không hạnh,
tà hạnh
không cần thiết ở đây;
quả cao
nhất là không kết quả,
hy vọng và
sợ hãi không cần thiết ở đây.
Nói chung, không có đối
tượng để thấy trong Thực tại,
bây giờ,
tương tự, cái thấy không là cái thấy.
Không có
đối tượng của thiền định trong bản tánh bổn nguyên,
giờ đây,
tương tự, thiền định là không thiền định.
Trong trạng
thái tự nhiên,12 không có hạnh,
giờ đây,
cũng vậy, hạnh là không hạnh.
Nếu kiến
không có trung tâm và giới hạn,
chắc chắn
người ta có thể nghĩ nó là không gian.
Nếu không
dao động hay chuyển động trong thiền định,
chắc chắn
người ta có thể nghĩ nó là núi.
Nếu sự
trong sáng trong kinh nghiệm không bị che ám,
chắc chắn
người ta có thể nghĩ nó là mặt trời và mặt trăng.
Nếu không
lấy hay bỏ trong hành,
chắc chắn
người ta có thể nghĩ nó là mặt đất.
Nếu không
có hy vọng và sợ hãi trong kết quả,
chắc chắn
người ta có thể nghĩ họ đã thoát khỏi bám chấp.
Thiền định có thể hoặc
không thể hòa nhập vào cái thấy,
nhưng khi
thiền định được hòa nhập vào cái thấy,
thì chẳng
có sao lãng trong tánh rốt ráo bổn nguyên.
Cái thấy có
thể hoặc không thể được hòa nhập vào thiền định,
nhưng khi
cái thấy được hòa nhập vào thiền định,
thì chẳng
còn bám chấp vào mùi vị của dhyana.13
Kiến và
thiền có thể hoặc không thể được hòa nhập vào hành,
nhưng khi
kiến và thiền được hòa nhập vào hành,
kinh nghiệm
nhận biết của thiền định và hậu thiền định sẽ khởi lên.
Vì nhận
biết không khởi lên trong tâm,
vậy cái
thấy cao có lợi gì?
Vì nó không
trở thành một giải độc cho các nhiễm ô,
vậy thiền
định giỏi được ích lợi gì?
Vì trí tuệ
không được kết nối với lòng bi,
vậy hành
nghiêm ngặt có lợi gì?
Vì lỗi lầm
của ta không giảm, thậm chí trên bề mặt,
vậy Phật
quả bổn nguyên ích lợi gì?14
Nếu ý nghĩa
của sự không khởi lên được nhận biết,
người ta đã
đạt đến giới hạn của kiến.
Nếu cả hai
thiền định và hậu thiền định không hiện hữu,
người ta đã
đạt đến giới hạn của thiền.
Nếu hủy
hoại và bảo vệ bị vô hiệu hóa,15
người ta đã
đạt đến giới hạn của hành.
Nếu người
ta đạt được cả hai dharmakaya và rupakaya,16
người ta đã
đạt đến giới hạn của kết quả.
Khảo sát tâm về
kiến;
xem coi có
sự hiện hữu hay không hiẹân hữu của thường kiến và đoạn kiến?
Khảo sát
tâm về thiền định;
xem có thấy
sự hiện hữu hay không hiện hữu của tâm sao lãng?
Khảo sát
tâm về hành;
xem có thấy
sự hiện hữu hay không hiện hữu của cái thấy thô tục?
Khảo sát
tâm về kết quả,
xem có thấy
sự hiện hữu hay không hiện hữu về khả năng chịu đựng gian khổ?
Kiến là sự
hướng dẫn của tâm,
thiền là
con đường của tâm,
hành là bạn
hữu của tâm,
kết quả là
nơi trú của tâm.
Bầu trời
của kiến được xem là cao,
biển của
thiền được xem là sâu,
lãnh vực
của hành được xem là nơi trồng trọt,
thu hoạch
của kết quả được xem là đã chín.
Dù con không có được
hiểu biết tốt nhất,
nhưng nhờ
học hỏi với các vị đạo sư uyên bác,
nhờ tích
lũy tri kiến của việc nghe và suy niệm,
đây là cách
hiểu của nhận biết xuất hiện ra sao.
Tương tự
với cái ách và cổ của con rùa biển,17
hiểu rằng
cuộc sống làm người là khó có được.
Tương tự
như viên ngọc trên đỉnh đầu của Takshaka,18
hiểu biết
rằng khó tìm được vị đạo sư.
Hiểu được
sự thay đổi của thân qua bốn mùa,
như dấu
hiệu bí mật của cái chết.
Giống như
người bị lưu vong nơi xứ sở của kẻ thù,
hiểu rằng
mọi thứ đều phải bỏ lại sau khi chết.
Giống như
màu sắc của lông con công,
hiểu ra
được mọi sự đều sinh từ nghiệp.
Nếu bản
tánh của rỗng không được nhận biết,
hiểu được
rằng không có việc sinh ra trong samsara.
Giống như
sự phản chiếu trong gương,
hiểu ra bản
tánh của hình tướng là rỗng không.
Giống như
thấy sự phô diễn trong giấc mộng,
hiểu được
rằng bản tánh của rỗng không là hình tướng.
Giống như
màu vàng rực rỡ của whey (chất lỏng giống nước còn lại khi sữa chua đã đông),
hiểu ra bản
tánh19 là hoàn toàn thuần khiết.
Giống như
những đám mây, đồ dơ bẩn, gỉ sắt,
hiểu ra
việc dựa trên khái niệm là ngẫu nhiên.
Hiểu được
tính dựa trên khái niệm là samsara (luân hồi),
hiểu ra
tính không khái niệm là nirvana (niết bàn).
Hiểu được
luân hồi là đau khổ,
hiểu biết
giải thoát là cực lạc.
Hiểu ra cả
hai hạnh phúc và đau khổ đều không hiện hữu,
hiểu được
rỗng không bổn nguyên là giải thoát từ ban sơ.20
Nói chung, nếu nhận biết
xuất hiện trong tâm, đó là cực lạc,
nếu kiến
được nhận biết, cực lạc lần nữa.
Huyễn thân
chín muồi21 là cực lạc;
nếu không
có bệnh tật, cực lạc lần nữa.
Dựa vào ẩn
tu nơi hẻo lánh là cực lạc,
nếu hoạt
động được từ bỏ, cực lạc lần nữa.
Sinh kế phù
hợp với Giáo Pháp, là cực lạc,
nếu từ bỏ
sinh kế xấu, cực lạc lần nữa.
Những đối
tượng khao khát của thân và tâm trẻ trung là cực lạc,
nếu được
kết nối với phương pháp,22 cực lạc lần nữa.
Bạn bè đồng
thuận với kiến và hành là cực lạc,
thực hành
nơi vắng vẻ là cực lạc.
Không bám
chấp và bám luyến thực phẩm và tài sản là cực lạc,
không xác
định nơi cư trú là cực lạc.
Tình bạn
không có nghĩa vụ là cực lạc,
nếu có được
tự do, là cực lạc.
Con không phải là người
có công đức,
nhưng được
sinh ra có thân người đầy đủ và
truyền bá
Phật Pháp;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Chuyển tâm
thoát khỏi bám chấp pháp thế gian và
khởi lòng
nhiệt thành cho Giáo Pháp tâm linh;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Lìa bỏ xứ
sở bị ruồng bỏ của mình và
Gặp vị đạo
sư trong lúc lưu vong;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Nghiên cứu
kinh điển và
hiểu được
ngôn từ và ý nghĩa;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Tìm được
một vị đạo sư của Kim Cương Thừa và
và có được
đầy đủ bốn abhisheka (quán đỉnh);
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Được ban trao
truyền miệng, các hướng dẫn và
sự xuất
hiện của tri kiến xác quyết uyên thâm;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Khơi dậy sự
sùng kính vị thầy và
tiếp nhận
sự ban phước vào dòng tâm thức;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Cắt đứt
những nghi ngờ về các đối tượng bên ngoài và
khởi lên
trí tuệ tự nhiên;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Có được sự
rõ ràng trong giai đoạn phát sinh bổn tôn và
kinh nghiệm
được sự nhận biết của giai đoạn hoàn thiện;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Có được sức
nóng của cực lạc23 rực sáng trong thân và
sự xuất
hiện của cực lạc và tánh không trong tâm;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Hiểu ra ảo
tưởng là tương đối và
hiểu biết
tánh không là tối thượng;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Từ bỏ nhận
thức về đối tượng
và được kết
nối với cái neo của sự hồi tưởng;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Sự bất hạnh
được cướp mất và
bạn hữu, sự
giải độc xuất hiện;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Mất đi tham
dục vào đối tượng,
và được kết
nối với phương tiện thiện xảo;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Đang kinh
nghiệm hạnh phúc và đau khổ
và hiểu ra
chúng là huyễn ảo;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Thấy nỗi
đau khổ của chúng sinh và
lòng bi sâu
xa khởi lên;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Đưa ra lý
lẽ với người đối lập
và khơi dậy
chứng cớ trong chính mình;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Phát hiện
suối công đức
và loại bỏ
khỏi bám luyến tài sản và thực phẩm;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Từ bỏ tà hạnh và
làm bất kỳ
hạnh nào mang lại hoan hỷ;
cả hai điều
này xảy ra cùng lúc.
Cầu mong việc lắng nghe
và trí tuệ cũng gặp gỡ nhau;
cầu mong
kinh điển và nguyên do cũng gặp gỡ nhau;
cầu mong
dòng truyền và vị guru cũng gặp gỡ nhau;
cầu mong sự
thực hành và các hướng dẫn miệng cũng gặp gỡ nhau;
cầu mong sự
tinh tấn và niềm tin cũng gặp gỡ nhau;
cầu mong
danh tiếng và phẩm tính cũng gặp gỡ nhau.
Nhận biết
sẽ chẳng xuất hiện
qua việc
nghe mà thiếu trí tuệ.
Tri kiến
xác quyết sẽ chẳng khởi lên
qua lý luận
mà không nối kết với kinh điển.
Sự ban phước
sẽ chẳng xảy ra
qua vị guru
(đạo sư) không có dòng truyền.
Sẽ chẳng có
thành tựu
qua niềm
tin mà không tinh tấn.
Chẳng có
lợi ích cho chính mình
qua hướng
dẫn miệng mà không thực hành.
Chẳng có
lợi ích cho người khác
qua những
phẩm tính mà không có tiếng tăm.
Không có trứng, từ đâu
con gà bắt đầu sinh?
Không có
con gà, trái trứng bắt nguồn ra sao?
Con gà hay
quả trứng, cái nào có trước tiên?
Trong bản
tánh không hiện khởi
nếu không
có sự tạo tác bởi điều kiện,
thì cái nào
trước, nguyên nhân hay kết quả?
Trong thanh
tịnh bổn nguyên của tự tâm,
nếu cả hai
khái niệm và trí tuệ không hiện hữu,
thì cái nào
trước, Đức Phật hay chúng sinh?
Vì Giáo Pháp24 không
hiện hữu từ khởi thủy,
nếu kết
quả, Phật tánh, chưa từng xuất hiện,
thì cái nào
có trước, Giáo Pháp hay Đức Phật?
Trong tuyệt
đối chẳng bao giờ có bất cứ gì;
nếu cả hai
ảo tưởng và không ảo tưởng không hiện hữu,
cái nào
trước, tương đối hay tuyệt đối?
Vì trong
tuyệt đối chẳng có Phật,
vậy ai đã
giảng dạy Tripitaka25?
Nếu Dharma
(Giáo Pháp)26 không được giảng dạy bởi vị thầy,
Làm sao có
được những bộ kinh điển?
Nếu nói
rằng “Sự chấm dứt không hiện hữu,
tất cả
những gì có điều kiện, được sinh và sẽ chết,
cuối cùng
đều không hiện hữu,”
làm sao nó
có thể là kết quả được phát sinh từ hành động?
Nếu bản
tánh không xuất hiện từ khởi thủy,
Làm thế nào
sẽ có sự chấm dứt?
Ngoại trừ
dharmata (pháp tánh)
chẳng có gì
hiện hữu trong bất cứ cách nào.
Trong pháp
tánh chẳng thể biến đổi,
làm thế nào
có thể có sinh và tử?
Nếu tất cả
Giáo Pháp đều không thật,
tại sao
chúng ta nghĩ chúng đáng tin?
Nếu tất cả
Giáo Pháp đều đúng,
Làm thế nào
mọi thứ đều lừa gạt?
Nếu tự thân
samsara (luân hồi) là đau khổ,
Thực hiện
điều bất thiện là sự cực kỳ lừa dối.
Nếu không có sự giải
thoát đến các cõi cao,
việc thực
hiện đạo đức để tạo ra giải thoát như vậy là lừa dối.
Nếu kết quả
của tự thân karma (nghiệp) là đúng,
Thì bản
tánh, tánh không, đều lừa dối.
Mặt trăng
trong nước không phải là mặt trăng trong bầu trời,
nhưng không
dựa vào mặt trăng đó, thì sự phản chiếu không xuất hiện;
tương tự,
bản chất của mọi thứ
được dạy là
hai chân lý (nhị đế – chân đế và tục đế)
sẽ chẳng có
Giáo Pháp nào
mà không
gồm chứa trong hai chân lý ấy.
Vì bản tánh
là không thật và không hư,
bám chấp
vào hai chân lý là bị lừa dối.
Thèm muốn các đối tượng,
giống như khát mà uống nước muối,
chẳng bao
giờ có thể thỏa mãn cơn khát vào bất cứ lúc nào;
giống như
người cùi nhìn vào gương,
khi buông
bỏ bám luyến, người ta được thỏa mãn.27
những gợn
sóng lăn tăn của sông duhkha28
không bao
giờ có thể loại bỏ vào bất cứ lúc nào;
tương tự
như khói của ngọn lửa đã tắt,
nếu chuyển
đổi bất thiện bằng phương pháp,
[duhkha của
họ] được tẩy trừ.
Từ dòng
sông của sinh, già, bệnh, chết
người ta
chẳng bao giờ có thể tự do vào bất cứ lúc nào;
giống như
việc xây cầu trên sông,
nếu nhận ra
sự bất sinh, người ta được giải thoát.
Đại dương
của sinh tử
không bao
giờ có thể khô cạn vào bất kỳ lúc nào;
giống như
sự xuất hiện của bảy mặt trời;
nếu loại bỏ
được sự thèm khát đối tượng,
[thì samsara
của chính họ] được khô cạn.
Các hoạt
động khó khăn có điều kiện của công việc
chẳng bao
giờ có thể hoàn tất vào bất cứ lúc nào;
giống như
sự thay đổi kênh đào cho việc tưới tiêu
cứ để [công
việc] như nó là, thì công việc hoàn tất.
Bóng tối
đậm đặc của vô minh
không bao
giờ có thể được loại bỏ vào bất cứ lúc nào;
giống như
ngọn đèn trong phòng tối,
nếu mặt
trời trí tuệ xuất hiện, [vô minh] được loại bỏ.
Mặt trời
trí tuệ của sự vô ngã
chẳng bao
giờ có thể xuất hiện vào bất cứ lúc nào;
giống như
buổi bình minh của mặt trời mọc,
nếu Giáo
Pháp tối thượng xuất hiện trong dòng tâm thức, thì [trí tuệ] xuất hiện.
Sự nhiễm ô
đau khổ của khái niệm
chẳng bao
giờ có thể rút ra được vào bất cứ lúc nào;
giống như
vị bác sĩ có kinh nghiệm lấy viên đạn ra,
nếu có được
năng lực giải độc, đau khổ được lấy ra.
Sự ràng
buộc của tính tham lam ích kỷ
chẳng bao
giờ có thể cởi được vào bất cứ lúc nào;
giống như
việc cởi nút thắt của sợi chỉ,
nếu hiểu
được những sở hữu là ảo huyễn, sự ràng buộc sẽ được cởi.
Từ ngục tù
của ba cõi sinh tử
người ta
không bao giờ có thể được tự do vào bất kỳ lúc nào;
giồng như
tù nhân được thả khỏi ngục,
nếu giải
thoát khỏi xích sắt của người bám chấp và bị bám chấp, người ta được tự do.
Thành phố
của nirvana (niết bàn)
chẳng bao
giờ có thể đến được vào bất cứ lúc nào;
giống như
vị khách đi vào con đường,
nếu nối kết
được với sự bắt đầu của con đường giải thoát, người ta sẽ đến niết bàn.
Vị guru,
người bạn tâm linh,
chẳng bao
giờ có thể gặp được vào bất cứ lúc nào;
giống như
Dharmodgata và Sadaprarudita,30
nếu nghiệp
tích lũy nối kết với hiện hữu, sẽ gặp được guru.
Dòng cam lồ
của hướng dẫn khẩu truyền
không bao
giờ có thể được uống vào bất cứ lúc nào;
giống như
tìm nước uống lúc khát,
nếu người
đệ tử từ bỏ những hoạt động [thế gian] một cách thích hợp, đệ tử đó được uống.
Tính bất
nhị của Mahamudra
chẳng bao
giờ có thể nhận ra vào bất cứ lúc nào;
giống như
con lạc đà gặp được con của nó,
nếu tâm
được nhận biết, [mahamudra] sẽ nhận ra.
Phóng ra
những lời lẽ theo lệ thường
không bao
giờ có thể cạn vào bất kỳ lúc nào;
giống như
việc đóng cửa hoạt động kinh doanh vì hết hàng hóa,
nếu chấm
dứt tính dựa trên khái niệm, [lời lẽ] sẽ hết.
Cái thô che
dấu trong dòng tâm thức
không bao
giờ có thể được điều phục vào bất kỳ lúc nào;
giống như
thuốc để chữa bệnh,
nếu thực
hành phù hợp với Giáo Pháp, [bệnh tật] được chữa lành.
Việc sở hữu
ba kaya (thân) và năm trí
không bao
giờ có thể đạt được vào bất kỳ lúc nào;
giống như
vương quốc được tạo nên từ tích lũy công đức,
nếu hai
tích lũy được đầy đủ,
[các thân
và trí tuệ] ấy đều đạt được.
Các tu sĩ đã thực hành
lắng nghe và thiền định
có biết
được mục đích của sutra và tantra hay không?
Điều nguy
hiểm là không cắt bỏ nghi ngờ;
xin đừng
ngả về phía lệ thường.
Tất cả các
vị thầy giảng dạy và viết lách
có được sự
lợi ích của trí tuệ xác quyết hay không?
Hãy tìm
hiểu trong hướng dẫn miệng thiêng liêng!
Có một sự
nguy hiểm mà các học giả sẽ chết theo lối thường.
Mọi thiền
giả vĩ đại nào đang thực hành,
xin đừng
tham gia nói chuyện vô ích;
xin đừng
quá mong muốn thực phẩm và quần áo;
xin đừng
bám luyến vào mùi vị của dhyana (thiền).
Tất cả hành
giả của Giáo Pháp đã từ bỏ điều bất thiện
mong hãy
nhận thức thấu đáo một ít về sutra và tantra,
thỉnh thoảng
hãy đi theo vị guru như một người phục vụ,
hãy luôn
nhìn vào tâm mình.
Nếu lười
biếng đối với đức hạnh,
[hãy nhớ]
sự vô thường về cái chết trong tâm!
Nếu tham
dục và sân hận khởi lên hướng đến đối tượng,
[hãy giữ]
dharmata (Pháp Tánh) và Giáo Pháp trong tâm!
Nếu bị kết
nối với vòng luẩn quản của người và công việc,
[hãy giữ]
hiểu biết về sự lừa gạt của Mara (Ma Vương)!
Bất chấp
việc gì người ta có thể làm, nếu không có hạnh phúc,
[hãy giữ]
những khiếm khuyết của samsara trong tâm!
Có Giáo
Pháp, đời này và đời sau đều hạnh phúc,
trung ấm
hiện tại (bardo đời này) được hạnh phúc,
tái sinh
được hạnh phúc –
[đó] chính
là cực lạc vì không sinh.
Hành giả
được hạnh phúc, người khác hạnh phúc, cả hai đều hạnh phúc,
thế nên,
hãy luôn giữ việc thực hành Pháp.
Vào lúc có được cuộc
sống làm người đầy đủ,
tại sao
không thực hành Giáo Pháp tâm linh?
Nhiều lần
được ở cùng vị guru thiêng liêng,
tại sao lại
không làm vừa lòng Ngài?
Nhiều lần
khẩn cầu hướng dẫn khẩu truyền thâm sâu,
tại sao lại
không làm bất cứ thực hành nào?
Nhiều lần
khơi dậy tri kiến xác quyết trong Giáo Pháp,
Tại sao lại
để nó quay ngược trở lại lần nữa?
Nói chung, rời bỏ quê
hương sống lưu vong,
dù bị chia
cắt khỏi quê hương cũng không hối tiếc.
Hãy luôn
hướng tâm đến Giáo Pháp tích cực,
dù sinh vào
cõi địa ngục cũng không hối tiếc.
Hãy nương
tựa vào vị guru như bổn tôn chính,
Dù nguồn
vui của mình bị cạn cũng không hối tiếc.
Hãy làm bất
cứ phục vụ sùng kính nào đến vị guru;
dù Ngài không
quan tâm đến đệ tử; người đệ tử cũng không hối tiếc.
Khẩn cầu
giáo lý upadesha phù hợp với kinh điển;
dù không
thể thực hành cũng không hối tiếc.
Hạnh đạo
đức chính là từ bỏ những hoạt động,
dù chưa đạt
được siddhi 31 cũng không hối tiếc.
Bảo vệ hứa
nguyện là công việc chính của mình;
dù bị bạn bè nhạo báng cũng không hối tiếc.
Tiêu tốn cuộc sống trong
Giáo Pháp tích lũy công đức;
dù có chết
đi cũng không hối tiếc.
Cầu mong
đừng tạo hối tiếc cho chính mình;
dù người
khác trách cứ cũng không hối tiếc.
Ở một mình
không bám luyến bạn bè;
dù không có
người đi theo cũng không hối tiếc.
Hãy nhìn
vào tâm như sự nhận biết chính của kiến;
dù nhận
biết là nhỏ bé cũng không hối tiếc.
Dựa vào
việc ăn uống để hòa hợp bệnh tật;
dù bị bệnh
cũng không hối tiếc.
Thực hiện
hạnh phù hợp với nguyện đã thọ;
Dù trở
thành tà hạnh cũng không hối tiếc.
Hãy xét lỗi
của mình, đừng xét lỗi người khác;
dù không
được yêu thích cũng không hối tiếc.
Xem lợi ích
của người khác là quan tâm chính của mình;
Dù lợi ích
của mình bị mất đi cũng không hối tiếc.
Hát một bài
ca nhỏ phù hợp với kinh nghiệm;
Dù mất đi
cuộc nói chuyện phiếm cũng không hối tiếc.
Áp dụng các
cách tiết kiệm đối với của cải;
dù lễ nghi
có nghèo nàn cũng không hối tiếc.
Giống như việc ném hòn
đá vào đại dương,
xin hãy tìm
kiếm Giáo Pháp không thể thay đổi!
Giống như
cắt đứt ngọn cây chuối,
xin hãy tìm
kiếm Giáo Pháp không sinh khởi!
Giống như
ánh sáng trong đêm tối,
xin hãy tìm
kiếm Giáo Pháp giải độc!
Giống như
đệ tử của Vedic Brahmin (Bà la môn theo phái Vệ Đà),
xin hãy tìm
kiếm Giáo Pháp của kinh điển vững chắc!
Giống như
áp dụng a-xít với vàng,
xin hãy tìm
kiếm Giáo Pháp có ích!
Mặc dù các
vị hộ pháp giữ cửa đền chùa,
có vẻ như
đang sắp đánh, sắp đánh, nhưng họ không đánh.
Mặc dù có
những người bình thường tăng trưởng quyền lực,
dường như
được hạnh phúc, hạnh phúc, họ lại đau khổ.
Mặc dù có
những hành giả của Pháp đối mặt với gian khó
dường như
khốn khổ, đáng thương, họ lại hạnh phúc.
Mặc dù sự giàu
sang xuất phát từ rộng lượng
có vẻ như
hao mòn dần, suy yếu dần, nhưng lại tăng trưởng.
Chúng sinh
và chư Phật ngang bằng nhau,
nhưng hạnh
phúc và đau khổ tạo ra sự khác biệt to lớn giữa họ.
Ta và người
khác ngang nhau,
nhưng nguyên
nhân bám chấp tạo ra sự khác biệt lớn giữa họ.
Kẻ thù và
trẻ em ngang nhau,
nhưng lòng
từ-ái và sân hận tạo ra sự khác biệt lớn giữa họ.
Mọi người
đều có được thân người như nhau,
song, chiến
thắng hay thất bại tạo ra sự khác biệt lớn giữa họ.
Chúng sinh nào có được
thân người,
đừng vui
sướng trong hoạt động tội lỗi;
vì đau khổ
của cuộc sống này là không thể chịu nổi,
sao không
tính đến những đau khổ của các cõi thấp?
Mọi công
đức ta thực hiện,
hãy thực
hiện kết nối với cái thấy và hồi hướng;
xin đừng
làm nó trở thành công đức nhiễm ô.
“Không có
hạnh phúc cho chúng sinh trong luân hồi” –
nếu ý nghĩa
đó không hiện hữu trong chính mình,
thì việc
ban giáo lý có ích lợi gì?
Không loại
bỏ suy nghĩ về cuộc sống này,
việc đi vào
Giáo Pháp được lợi ích gì?
Không sợ
hãi sinh và tử,
Việc giảng
dạy chỉ dẫn khẩu truyền có lợi ích gì?
Nếu không
cắt đi những râu ria của việc dựa trên khái niệm,
thì việc
cắt tóc trên đầu mình được lợi ích gì?
Không đem
sự thay đổi vào những nhận thức thông thường,
thì việc
thay đổi màu của tấm vải được lợi ích gì?
Nếu không
nương tựa vào những guru thiêng liêng,
Thì việc từ
bỏ xứ sở của mình được lợi ích gì?
Nếu không
thực hành các hướng dẫn khẩu truyền,
thì việc
nghe và suy ngẫm được lợi ích gì?
Khi thời
khắc của cái chết xảy đến, chẳng gì có thể giúp được, ngoại trừ Giáo Pháp.
Nói chung, một guru tham
lam và dối trá,
chẳng có
thời gian ban hướng dẫn khẩu truyền thâm sâu;
kẻ dối trá
phô trương làm mê muội với ý nghĩa tạm thời
chẳng có
thời gian gặp được ý nghĩa dứt khoát;
kẻ quá
phóng đại về đau khổ của luân hồi
chẳng có
thời gian đạt được niết bàn.
Người đến
từ bóng đen to lớn của vô minh
chẳng có
thời gian cho mặt trời trí tuệ hé rạng.
Nếu ý nghĩa của việc so
sánh về ảo ảnh được nhận biết,
thì người
ta đã tìm được lời lẽ của chân lý.
Nếu ý nghĩa
của sự không hiện khởi được nhận biết,
thì người
ta đã tìm được ảo tưởng.
Nếu ý nghĩa
của nhân quả được nhận biết
thì người
ta đã tìm được ý nghĩa tạm thời.
Nếu ý nghĩa
của sự so sánh với không gian được nhận biết,
thì người
ta đã tìm được ý nghĩa xác quyết.
Nếu ý nghĩa
của rỗng không được nhận biết,
thì người
ta đã tìm được tính dựa trên khái niệm.
Nếu kết nối
được với tâm vị guru thiêng liêng,
thì người
ta đã tìm được hướng dẫn khẩu truyền.
Thêm nữa, tuy hiểu được
nhiều Giáo Pháp,
nếu không
phải người nhận thích hợp của lời hướng dẫn,
kiến sẽ
không được nhận biết.
Đừng bị sao
lãng bởi những sao lãng thế gian
về việc
không cắt đứt được những phát triển theo lệ thường.
Nếu không
thể sống nơi hẻo lánh,
người ta sẽ
không đạt được siddhi (thành tựu);
từ bỏ và
quên đi vòng luẩn quẩn của người và sự việc.
Nếu mầm
mống của sự tối thượng không được nhận biết,
thì chẳng
có tinh hoa trong lớp vỏ bên ngoài vô giá trị của lệ thường.
Không nên
sao lãng bởi tám pháp thế gian,
hãy từ bỏ
các hoạt động, nên tiếp tục thực hành.
Hãy thấy sự nối kết giữa
kiến và thiền;
hãy thấy sự
nối kết giữa hành và thời gian;
hãy thấy sự
nối kết giữa hướng dẫn khẩu truyền và kinh điển;
hãy thấy sự
nối kết giữa con người và sự thực hành Giáo Pháp;
hãy thấy sự
nối kết giữa thiền định và hậu thiền định;
hãy thấy sự
nối kết giữa dòng truyền và vị guru.
Nói chung, không có kết
thúc với ngôn từ của sutra và tantra;
ngay bây
giờ, hành động quan trọng là ngưng lại lời nói.
Đã cắt đứt
nghi ngờ trong ý nghĩa;
giờ đây
việc quan trọng là ngưng tìm kiếm.
[Đó là]
không có mục tiêu trong các hoạt động thế gian,
bây giờ
hành động quan trọng là từ bỏ sao lãng.
Người ta
không thể lệ thuộc vào Yama,32 Thần Chết,
Bây giờ
hoạt động quan trọng là thực hành;
giờ chết là
bất định, hãy biểu lộ sự siêng năng.
Nếu được
hạnh phúc, đó là lòng từ của vị guru,
nếu buồn
phiền, thì nó là sự lưu xuất từ nghiệp trước;
nếu bị mất
mát, đừng chán nản,
và nếu
thành đạt, đừng kiêu căng.
Người có niềm tin
vào tám
mươi bốn ngàn cổng của Giáo Pháp
có thể từ
bỏ hành động tội lỗi.
Người ta
phải dấn thân vào hoạt động đạo đức;
cần thiết
phải có một tâm không có hoạt động thế gian.
Hơn nữa,
hãy từ bỏ và quên đi các hoạt động Giáo Pháp.
Đừng nên
phỉ báng Giáo Pháp;
cũng đừng
lăng mạ người khác.
Vì nhận
thức được sự nhầm lẫn giữa Giáo Pháp và con người,
nếu hỏi
rằng điều đó được nhận thức ra sao,
một người
bị xem là mê lầm với Giáo Pháp
vì họ kém
thông minh và ít học hỏi.
Không có
mục đích của nhận biết,
phóng đại
quá mức, xem thường Giáo Pháp và con người,
bị che phủ
bởi đàm dãi đáng khinh của tính dựa trên khái niệm,33
bị chiếm
đoạt bởi cạm bẫy của mara,34 của tính tự cao tự đại,
không có
quan điểm nhiều người cùng một chí hướng,
cũng xa rời
Giáo Pháp Kadampa35 và bỏ đi!
Nhờ không
phân biệt giữa lấy và bỏ của điều thiện và bất thiện,
giả vờ
thành thạo mà không có hiểu biết, không có nồng nhiệt,36
người ta
thực hiện hạnh phóng túng,
tạo sự lừa
dối, tràn đầy xứ sở với sự dối trá,
cũng xa rời
Giáo Pháp Yogin37 và bỏ đi!
Đã chấp
nhận Mantra Bí Mật38 là Giáo Pháp,
lại không
sở hữu con đường chín muồi của abhisheka39
và tách
khỏi quan điểm của phương pháp40 con đường giải thoát
vì không gặp
được đức Thế Tôn của Mantra Bí Mật,41
cũng xa rời
Giáo Pháp Mahamudra (Đại Ấn) và bỏ đi!
Đã chấp
nhận Mahayana (Đại Thừa) là Giáo Pháp,
bị tách rời
khỏi lòng bi và bồ đề tâm,
hành động,
Giáo Pháp, và con người không được nối kết
trong Giáo
Pháp của nền tảng không nỗ lực42,
cũng xa rời
Giáo Pháp Dzogchen43 (Đại Viên Mãn) và bỏ đi!
Giống như
sừng thỏ, các kết tập (uẩn) đều không có nền tảng,
nói cụ thể
là đếm số miệng, số mắt, số nếp nhăn,
tìm một đặc
tính mà không có nền tảng của đặc tính;
cũng xa rời
Abhidharma44 và bỏ đi!
Sự tính
toán nối kết mâu thuẫn với mâu thuẫn
với vẻ bên
ngoài lừa gạt, dối trá, không thật là vô nghĩa,
không lợi
ích cho tâm, người ta bị lừa gạt vào lúc chết;
cũng xa rời
Giáo Pháp Luận lý và bỏ đi!
Có khối u
bên trong của việc bám chấp chân lý trong hình tướng lừa gạt,
giữ chặt sự
chấp nhận của tánh không như tinh túy,
với nỗ lực
thiết lập sự tỏa khắp của giả thuyết45 không quan trọng;
cũng xa rời
Madhyamika (Trung Quán) và bỏ đi!
Tiêu tốn
cuộc sống vào những lời lẽ theo lệ thường,
mặc dù am
hiểu, người ta lại không hiểu được ý nghĩa của tâm,
người ta
chết trong thân ảo tưởng vào lúc chết;
cũng xa rời
Giáo Pháp Biện Chứng và bỏ đi!
Bậc thầy,
không có các phẩm tính,
tạo nối
kết46 Giáo Pháp với ba điều sau –
tham lam
đưa một giá cả cho Giáo Pháp,
thích thú
phối ngẫu của vị guru không có samaya,
bám luyến
vào cả hai sự hòa hợp47 và giải thoát48 mà không có phương pháp49;
cũng xa rời
Giáo Pháp Vajrayana (Kim Cương Thừa) và bỏ đi!
Bị giữ chặt
trong ngục tù tà hạnh của thân và ngữ,
tự tâm
không có kiến và ý nghĩa của thiền.
Gian khổ
nhân đôi là không mục đích;
Cũng xa rời
Giáo Pháp được Thọ Phong và bỏ đi!
Thiền định
ngu si mà không lắng nghe và suy niệm
xây dựng
hay may vá khi ngồi,
cư xử với
tà hạnh nếu đi vào làng mạc,
thời thiền
định kết thúc trong giấc ngủ lờ mờ, uể oải,
nếu tìm
kiếm, chỉ tìm kiếm quà tặng,
cho phép
người nào có quà tặng được vào cửa,
người không
có quà, chặn lại ngoài cổng,50 –
nuôi dưỡng
thân nhân bằng của cúng dường;
cũng xa rời
Giáo Pháp của Đại Thiền Giả và bỏ đi!
Không hiểu
biết, nếu Giáo Pháp thâm sâu được giải thích;
thích thú
tận hưởng những vui đùa, nói chuyện phiếm không mục đích, ca hát và những điệu
nhảy múa quyến rũ;
lừa gạt có
Giáo Pháp và kiến chỉ bằng miệng,
tạo vu
khống và nghi ngờ ở chỗ này và chỗ khác,
nếu có thể,
đi đánh cắp tài sản của nhà hàng xóm,
rũ bỏ trách
nhiệm gia đình như chẳng có gì khác để làm;
cũng xa rời
Giáo Pháp Người Nội Trợ và bỏ đi!
lợi nhuận,
danh vọng, xung đột, tranh cãi, sinh kế, thất vọng, không thỏa mãn,
là nguồn
gốc của bất hạnh, đau khổ, ngược với Giáo Pháp đạo đức;
tiêu tốn
cuộc sống trong khốn khó mà không có bất kỳ mục đích nào,
chẳng còn
chỗ nào có thể đi ngoại trừ ba cõi thấp;
xa rời Giáo
Pháp Chủ Nhà và đi!
Trước tiên
từ bỏ hoạt động bất thiện;
lúc giữa,
từ bỏ hoạt động thế gian;
sau đó, từ
bỏ hoạt động Giáo Pháp.
Tâm của
yogin đã buông bỏ các hoạt động là hạnh phúc;
đại thiền
giả mà thu góp của cải là người thường;
thiền định
với các đặc tính là dựa trên khái niệm;
thiện hạnh
của thân và ngữ là tà hạnh.
Không hoạt
động, để cho sáu thức51 được buông lỏng.
Nếu bám
chấp, bám luyến bổn tôn cũng là sự lệ thuộc.
Nếu khao
khát, thèm muốn Phật quả cũng là sự lừa gạt.
Nếu chấp
cứng, bám chặt vào Giáo Pháp cũng là sự lừa dối.
Hòa tan tánh giác vào
trạng thái tự nhiên.
Đây là
hướng dẫn khẩu truyền cho người hiểu biết;
tánh giác
chuyển vào sự rỗng không của tâm,
những đặc
tính của sự bám chấp và người chấp bám được giải thoát ngay tại chỗ của nó52,
ngay cả cái
gọi là quan điểm định kiến cũng không hiện hữu;
tâm khiến
kiến được xác quyết là hạnh phúc.
Không sao
lãng chuyển thành không thiền định;
ngay cả cái
gọi là hôn trầm và trạo cử đều không hiện hữu;
tâm khiến
sự thiền định được vững chắc là hạnh phúc.
Hành xảy ra
tự nhiên chuyển thành bất tận;
các đặc
tính của tà hạnh được giải thoát ngay tại chỗ của nó;
ngay cả cái
gọi là lấy hay bỏ đều không hiện hữu;
tâm mà hành
được xác quyết là hạnh phúc.
Bất tử
chuyển vào trong trạng thái bất sinh;
các đặc
tính hy vọng và sợ hãi được giải thoát ngay tại chỗ của nó;
ngay cả cái
gọi là hiện tại và tương lai đều không hiện hữu;
tâm mà kết
quả vững chắc là hạnh phúc.
Kiến được
phát sinh không bị che lấp,
nếu ảo
tưởng được tiêu diệt, nó được tiêu diệt bởi điều này (kiến);
vì không sở
hữu định kiến kiên cố,
không có sự
gây hại của người bám chấp và bị chấp bám thật đáng ngạc nhiên!
Thiền định
không tạo tác xảy ra một cách tự nhiên,
nếu con
đường và các giai đoạn được đạt đến, chúng được đạt đến bởi điều này;
vì không sở
hữu nguyên nhân của việc tập trung vào đối tượng,
không có sự
gây hại của hôn trầm và trạo cử là đáng ngạc nhiên!
Hành liên
tục xảy ra tự nhiên,
nếu buông
bỏ bám chấp, nó được buông bỏ bởi điều này;
vì không sở
hữu tư tưởng phản bác và kiến lập,
không có sự
gây hại của lấy và bỏ thật đáng ngạc nhiên!
không tìm
kiếm kết quả được tạo ra một cách dễ dàng,
theo thông
lệ, dharmakaya đạt được bởi điều này,
vì không sở
hữu tư tưởng buông bỏû và thành tựu
không có sự
gây hại của hy vọng và sợ hãi thậtø đáng ngạc nhiên!
Đôi khi có cực lạc trong
không gian của bầu trời;
đó là cực
lạc trong trạng thái không có các cực đoan và trọng tâm.
Đôi khi có
cực lạc trong đáy sâu của đại dương;
đó là cực
lạc trong trạng thái không chuyển động và kích thích.
Đôi khi có
cực lạc trong mặt trời và mặt trăng;
đó là cực
lạc trong trạng thái trong sáng không che ám.
Đôi khi có
cực lạc ở giữa sông;
đó là cực
lạc trong trạng thái liên tục.
Đôi khi có
cực lạc trong sự hiện diện của vị guru;
đó là cực
lạc trong hướng dẫn khẩu truyền để loại bỏ sự phát triển.
Đôi khi có
cực lạc trong an trụ lúc nhập thất;
đó là cực
lạc trong việc thực hành ở nơi hẻo lánh.
Đôi khi có
cực lạc ở giữa chợ;
đó là cực
lạc trong việc đem hình tướng vào con đường.
Đôi khi có
cực lạc trong một loạt các yogin;
đó là cực
lạc trong việc so sánh các nhận biết.
Đôi khi có
cực lạc ở giữa các người cùi hành khất;
đó là cực
lạc trong việc thực hiện hạnh cùng một vị.
Đôi khi có
cực lạc nếu xứ sở được mở mang;
đó là cực
lạc trong việc lang thang không mục đích và đơn độc.
Có cực lạc
khi thường trụ trong thực tại,
đó là cực
lạc trong trạng thái không thành kiến hay cục bộ.
Vào lúc đầu, sự bàn bạc
tốt đẹp khởi lên,
vào lúc
giữa, khởi lên sự thích thú,
cuối cùng,
cực lạc tâm thức hiện khởi;
nhờ rời bỏ
các hoạt động, người ta được nối kết với
sự khởi đầu
của con đường,
nhờ buông
lỏng, con đường và các giai đoạn được đạt đến,
nhờ che
đầu,53 người ta có thể thấy khoảng cách xa rõ ràng.
Thậm chí địa ngục sâu
nhất của chúng sinh,
là cung
điện Giáo Pháp của cõi Akanistha.54 (Trời Sắc Cứu Cánh)
Ngay cả sự
đau khổ của nóng và lạnh,
là dharmakaya
(Pháp Thân) thoát khỏi sự phát triển.
Thậm chí
những kết luận triết học không thuộc đạo Phật,
đều là ý
nghĩa tinh túy của Madhyamaka.
Ngay cả
hướng dẫn khẩu truyền của vị guru linh thánh
là ảo tưởng
bị lừa gạt bởi ảo tưởng.
Thậm chí
kinh nghiệm về nhận biết của hành giả
là sự vẽ
tranh trên nước.
Ngay cả sự
xuất hiện của năm con đường và mười giai đoạn (thập địa)
giống như
việc đếm số sừng trên đầu con thỏ.
Thậm chí
đức Phật đã thành tựu
cũng chỉ là
danh hiệu không rốt ráo có thực.
Ngay cả
dharmata được thiết lập bởi tánh giác
là cây
chuối ruột rỗng bên trong.55
Vì nhận
biết của thực tại mà không có hành động
và ngôn từ
của kiến không có tri thức chắc chắn,
đều tương
tự như nhau, đó là sự nguy hiểm của sai lầm.
Vì hướng
dẫn khẩu truyền về việc buông lỏng các giác quan
và lạc mất
sáu thức giác gây ra sao lãng
đều tương
tự như nhau, đó là sự nguy hiểm của sai lầm.
Vì sự từ bỏ
được phát sinh mãnh liệt và
hạnh cư xử
thô tục của người điên
đều tương
tự như nhau, đó là sự nguy hiểm của sai lầm.
Vì hoàn
toàn cạn kiệt hy vọng và sợ hãi
và sự ác
cảm của người đố kỵ ở bên trong
đều tương
tự như nhau, đó là sự nguy hiểm của sai lầm.
Bài ca của kinh nghiệm này được hát bởi upasaka Dragpa Gyaltsen. Được đặt nền tảng trên cả hai sutra và tantra, bài ca đã được soạn thảo thành thơ và được tô điểm bằng thơ kệ trang hoàng để làm giảm kiêu mạn của học giả và gia tăng lòng nhiệt thành của người sùng mộ. Như thế, giáo lý về bài ca được hoàn tất.
Chú Giải
1. Dharmata (Pháp
Tánh) ám chỉ bản tánh tối hậu của Pháp, thoát khỏi các cực đoan.
2. Sự
tích lũy trí tuệ và công đức.
3. Madhyamaka
(Trung Đạo) là kết luận triết học nhấn mạnh sự thoát khỏi các cực đoan.
4. Chittamatra
(Duy Thức) là kết luận triết học nhấn mạnh thực tại tối hậu của tâm.
5. Trong
bối cảnh này, bản tánh ám chỉ bản tánh của thực tại đó là thoát khỏi các cực
đoan.
6. Ba
bánh xe là quà tặng, người cho, và người nhận.
7. Hai
thanh tịnh là sự thoát khỏi che ám của nhiễm ô và tri kiến của dharmakaya.
8. Trong
bối cảnh này, nền tảng ám chỉ nguyên nhân liên tục, thoát khỏi các cực đoan,
bao gồm tất cả các pháp trong luân hồi và niết bàn.
9. Mahamudra,
hay “đại ấn” liên quan đến việc nhận biết sự hợp nhất của trong sáng và rỗng
không trong tướng bổn tôn trong thực hành tantra du già bổn tôn cao nhất.
10. Trong
bối cảnh của kiến (cái thấy), thực tại có nghĩa bản chất của sự vật thoát khỏi
các cực đoan.
11. Trong
bối cảnh của thiền, bản tánh bổn nguyên là bản tánh nền tảng của tâm khi thoát
khỏi các cực đoan.
12. Trong
bối cảnh của hành, trạng thái tự nhiên có nghĩa bản chất của sự vật thoát khỏi
các cực đoan.
13. Dhyana
(Thiền Na) là thiền định tập trung.
14. Phật
quả ban sơ là Phật tánh không điều kiện tỏa khắp tất cả chúng sinh.
15. Phá
hủy có nghĩa tiêu diệt kẻ thù của hành giả và bảo vệ là để bảo vệ những người
đi theo hành giả.
16. Dharmakaya
(Pháp Thân) là kết quả của sự tích lũy trí tuệ, sự nhận biết trọn vẹn của bản
tánh tối thượng của tâm. Rupakaya (Sắc Thân) là kết quả của sự tích lũy công đức,
xuất hiện theo quy luật tự nhiên trong cõi Phật và luân hồi.
17. Dòng
này liên quan đến phép loại suy nổi tiếng về cái ách bằng gỗ trôi bồng bềnh
trên mặt biển và cơ hội hiếm hoi của con rùa biển nổi lên mặt nước mà đầu của
nó chui lọt vào cái ách.
18. Takshaka,
một trong tám long vương, trên đỉnh đầu có viên ngọc quý.
19. Ở
đây, bản tánh ám chỉ tánh không.
20. “Thoát
khỏi nguồn gốc” có nghĩa không điều kiện.
21. “Huyễn
thân chín muồi” ám chỉ thân người như kết quả của nghiệp chín muồi.
22. “Phương
pháp” ám chỉ thực hành của Kim Cương Thừa.
23. “Sức
nóng của cực lạc” liên quan đến cực lạc, kết quả từ việc dấn thân vào thực hành
giai đoạn hoàn thiện của du già nội hỏa.
24. Ở
đây, các pháp ám chỉ các sự vật sở hữu những đặc tính.
25. Tripitaka
(Tam Tạng Giáo Điển) là kinh sách được công nhận của đạo Phật bao gồm ba phần:
Vinaya (Luật tạng), Abhidharma (Luận tạng), và Sutra (Kinh tạng).
26. Dharma
(Giáo Pháp), ở đây ám chỉ học thuyết của Đức Phật.
27. Hai
dòng đầu của bốn dòng kệ ám chỉ hoàn cảnh chung của luân hồi, hai dòng thứ hai
ám chỉ các phương pháp tự mình giải thoát khỏi các hoàn cảnh đó.
28. Duhkha
là từ tiếng Phạn có nghĩa “đau khổ”.
29. Giáo
Pháp cao nhất là Giáo Pháp thế tục cao nhất đạt được như giai đoạn thứ tư của
con đường chuyên cần, trực tiếp đi trước con đường của cái thấy.
30. Điều
này liên quan đến câu truyện của Ngài Sadaprarudita thấy trong bản dịch của
Edward Conze, Sự Viên Mãn Của Trí Tuệ Trong Tám Ngàn Câu Và Bài Kệ Tóm Tắt
(Bolina: Bốn Mùa, 1973), chương 30.
31. Siddhi
bao gồm cả hai siddhi thông thường (giàu sang v.v..) và siddhi phi thường (toàn
giác).
32. Yama
(Dạ Ma – Thần Chết) vua của cái chết.
33. Ẩn
dụ này liên quan đến việc nói về thực hành Giáo Pháp từ quan điểm dựa trên khái
niệm thanh tịnh không kết hợp với kinh nghiệm cá nhân.
34. Mara
(Ma Vương) ám chỉ chúng sinh và các thế lực gây chướng ngại cho thực hành tâm
linh. Thông thường họ được chia thành bốn phạm trù: mara của các kết tập (uẩn),
mara của nhiễm ô, mara của sự chết, và mara là con trai của trời dục giới
(Cupid).
35. Dòng
truyền Kadampa được đặt nền tảng ở Tây Tạng bởi bậc thầy Jowo Atisha của Ấn độ
vào giữa thế kỷ thứ mười một. Dòng truyền này nổi tiếng về sự truyền bá rộng
rãi giáo lý Rèn luyện Tâm, như Bảy Điểm Rèn Luyện Tâm và các giáo lý khác.
36. Ở
đây, sức nóng ám chỉ trình độ nhận biết đầu tiên của con đường chuyên cần trước
khi nhận ra trí tuệ như lửa của con đường của cái thấy.
37. Yogin
là hành giả tâm linh.
38. “Mantra
Bí mật” là tên thông thường cho giáo lý tantric trong Phật giáo Tây Tạng.
39. Abhisheka
là phương pháp đạt giác ngộ trong một đời bằng việc tạo ra căn nguyên lệ thuộc
đặc biệt giữa nguyên nhân – các kết tập, nguyên tố và ayatana – và kết quả –
các kaya (thân) và trí tuệ – và cũng giới thiệu đệ tử vào Vajrayana.
40. Quan
điểm của phương pháp con đường giải thoát là những hướng dẫn và thực hành thấy
trong Vajrayana.
41. Ở
đây, Thế Tôn của Mantra Bí Mật là một bổn tôn; gặp gỡ ám chỉ việc nhận ra bổn
tôn như Vajrayogini như sự hợp nhất của trong sáng và tánh không, hay
Mahamudra.
42. “Pháp
của nền tảng không nỗ lực” ám chỉ bản tánh của tâm, sự hợp nhất của trong sáng và
tánh không.
43. Dzogchen,
hay ati yoga (Đại Viên Mãn) là giáo lý cao nhất của phái Nyingma thuộc Phật
giáo Tây Tạng.
44. Abhidharma
(giáo lý A Tỳ Đàm) là các kinh điển và luận giảng liên quan đến việc rèn luyện
trí tuệ.
45. Giả
thuyết không quan trọng là một thuật ngữ trong phép suy luận.
46. Tạo
“nối kết với Giáo Pháp” có nghĩa tạo ra đệ tử.
47. Hợp
nhất ám chỉ du già hợp nhất với một phối ngẫu đủ phẩm tính.
48. Sự
giải thoát có nghĩa nghi lễ tiêu diệt khiến giải thoát chúng sinh xấu ác
49. Ở
đây, phương pháp ám chỉ lòng bi và động cơ thích đáng.
50. Đoạn
này ám chỉ “các đại hành giả” tỏ ra thiên vị với những người đem quà tặng và
phớt lờ những người không có quà tặng.
51. Năm
giác thức của thân và ý thức.
52. “Giải
thoát ngay tại chỗ của nó” có nghĩa “thoát khỏi các cực đoan nhị nguyên.”
53. “Che
đầu” ám chỉ sự che mắt.
54. Akanistha
là cõi tịnh độ của sambhogakaya (Báo Thân).
55. Cũng
giống như cây chuối thì rỗng ruột hoặc không có lõi, Pháp tánh cũng không có
thực thể bên trong.