Năm Tý nói chuyện Chuột Túi KANGAROO
Bộ Thú Có Túi (Marsupialico) có đến 240 loài đang tồn tại trên hành tinh xanh cùng với chúng ta. Bộ này được chia ra làm 3 bộ phụ, với 8 “chi tộc”. Chi tộc Kangaroo (hay Kanguru) có đến 3 loài: Sóc Túi, Gấu Túi và Chuột Túi. Chúng ta vẫn quen gọi loài Chuột Túi với cái tên chung là “con Kangaroo”.
Nguồn gốc của cái tên Kangaroo rất đơn giản, chuyện kể rằng xưa kia, khi có một du khách đến Úc du sơn ngoạn thủy, nhìn thấy mấy con Chuột to đùng đang nhảy cà tưng, trước bụng lại có cái túi đựng Chuột con, lấy làm kinh ngạc bèn hỏi một thổ dân “Con vật đó tên là gì?”. Người thổ dân đáp: “Kangaroo!” (tiếng bản địa có nghĩa là… “Tôi không hiểu!”). Từ đó, Kangaroo trở thành tên của con Chuột Túi.
Chuột Túi có tên khoa học là Macropus, tên tiếng Anh: Wallaby, là loài phổ biến ở châu Đại Dương, chúng chỉ sống được ở châu lục này, và không thể tồn tại ở các vùng địa lý khác trên thế giới. Có chăng, chỉ có trong một vài sở thú lớn ở bên châu Âu, Mỹ… nhưng chúng sẽ không thích nghi được với môi trường sống trong thời gian dài. Người ta xem Chuột Túi như là một biểu tượng của nước Úc và các đảo lân cận trong khối liên bang, nên thường nói “Xứ Sở Kangaroo”, “Quê hương của Kangaroo”. Vì vậy đừng lấy làm ngạc nhiên khi ngành Bưu chính Úc đã có nhiều đợt phát hành tem mang hình ảnh của Chuột Túi (xem các tem trên ảnh minh họa 1), và trên mẫu tem “Kỷ niệm 100 năm đảo New South Wales” phát hành năm 1905 cũng trân trọng đưa hình ảnh của loài thú có túi này (xem tem trên ảnh 2).
Đặc biệt nhất, phải nói đến cái túi da dùng để đựng con của loài Chuột Túi. Khi Chuột con chào đời, nó rất bé nhỏ, chỉ dài chừng 25mm, nhỏ bằng ngón ngón chân cái của con người chúng ta, nó chưa mở mắt được nhưng phải bò bằng hai chân trước có móng sắc, từ cơ quan sinh dục của mẹ lên đến chiếc túi da mất từ 10-30 phút, mẹ nó sẽ dùng lưỡi liếm lông cho con và phụ lực để cho con bò lên đúng đường. Chuột con khi đã vào nằm trong túi của mẹ, nó sẽ được ấp ủ, được bú hằng ngày. Sau vài tuần, Chuột con đã hoạt động được, thò đầu ra khỏi túi để ngắm cảnh sắc xung quanh. Phải đến một năm sau, Chuột con mới thôi bú mẹ, nhảy ra khỏi túi và bắt đầu tìm cỏ cây hoa lá để tự làm no bụng mình. Trước thời gian quy định đó, nếu Chuột con có muốn tự do bay nhảy sớm cũng không được, vì mẹ nó sẽ giữ rịt nó lại ngay bằng cách co bụng để miệng túi thắt lại.
Chuột Túi là loài động vật “đặc thù đặc sản” của châu Đại Dương, ai cũng biết điều đó, nhưng không phải ai cũng biết rằng có nhiều loài Kangaroo khác nhau đang tồn tại trên những đồng cỏ bao la, giữa những vùng núi đồi hoang dã ở Úc và các quần đảo lân cận. Qua những mẫu tem sưu tập, chúng ta thử nhận dạng từng loài như sau:
Ngoài ra còn có các “chi tộc” khác như: Chuột Túi Đá Đuôi Vòng (Ring-tailed Rock Wallaby) tương tự như loài Chuột Túi Đá Đuôi Bút Lông, nhưng đuôi của chúng rậm và thon dài, và lông đuôi có những vòng khác màu chia chiếc đuôi ra thành nhiều đoạn, tập trung sống ở các vùng núi đá ở miền Trung và Đông nước Úc. Chuột Túi Đầm Lầy (tên khoa học Wallabia bicolor- tên Anh: Swamp Wallaby), kích thước 45-90cm, đuôi dài 36-60cm, sống ở các vùng có nhiều bụi cây rậm rạp gần các khu đầm lầy thuộc miền Đông và Đông Nam nước Úc. Còn có loài Chuột Túi Rừng New Guinea (tên khoa học Dorcopsis veterum, tên Anh: New Guinea Forest Wallaby), kích thước 49-80cm, đuôi dài 30-55cm, ăn cỏ, chỉ thấy ở các vùng rừng, đất thấp trên đảo New Guinea… và một vài loài khác.
Do loài Chuột Túi mang tính đặc thù hiếm lạ, nên chúng cũng được xuất hiện trên tem của nhiều quốc gia khác, như: Việt Nam, Ba Lan (Polsska), Bulgarie, Guatemala, Magyar Postar, Hadhramaut (thuộc Liên Minh miền Nam Ả Rập)…
MÃN ĐƯỜNG HỒNG