KINH TỤNG PĀḶI-VIỆT
II- KINH GIA NIỆM AN LÀNH
(Sau khi tụng Xưng Tán Tam Bảo theo thời khóa hằng ngày, nếu muốn Cầu An Lành thì tùy nghi lựa chọn một số kinh trong mục này)
KARAṆĪYA METTĀ SUTTĀ
1. Karaṇīyam’attha-kusalena
Yaṃ taṃ santaṃ padaṃ abhisamecca
Sakko ujū ca su-h-ujū ca
Suvaco c’assa mudu anatimānī.
2. Santussako ca subharo ca
Appa-kicco ca sallahuka-vutti
Sant’indriyo ca nipako ca
Appagabbho kulesu an-anugiddho.
3. Na ca khuddaṃ samācara kiñci
Yena viññū pare upavadeyyuṃ
Sukhino vā khemino hontu
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.
4. Ye keci pāṇa-bhūt’atthi
Tasā vā thāvarā va anavasesā
Dīghā vā ye mahantā vā
Majjimā rassakā anuka-thūlā.
5. Diṭṭhā vā ye va addiṭṭhā
Ye ca dūre vasanti avidūre
Bhūtā vā sambhavesī vā
Sabba sattā bhavantu sukhitattā.
6. Na paro paraṃ nikubbetha
N’ātimaññetha katthaci naṃ kiñci
Byārosanā paṭigha-saññā
Naññam’aññassa dukkham’iccheyya.
7. Mātā yathā niyaṃ puttaṃ
Āyusā eka-puttam’anurakkhe
Evam’pi sabba bhūtesu
Mānasam bhāvaye aparimānaṃ.
8. Mettañca sabba lokasmiṃ
Mānasam bhāvaye aparimānaṃ
Uddhaṃ adho ca tiriyañca
Asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ.
9. Tiṭṭhañ caraṃ nisinno vā
Sayāno vā yāva’tassa vigata-middho
Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya
Brahmam’etaṃ vihāraṃ idham’āhu.
10. Diṭṭhiñca anupagamma
Sīlavā dassanena sampanno
Kāmesu vineyya gedhaṃ
Na hi jātu gabbha-seyyaṃ punaretī’ti.
TỪ BI KINH
Người hằng mong an tịnh
Nên thể hiện pháp lành
Có khả năng, chấc phác
Ngay thẳng và nhu thuận
Hiền hòa, không kiêu mạn.
Sống dễ dàng, tri túc
Thanh đạm, không rộn ràng
Lục căn luôn trong sáng
Trí tuệ càng hiển minh
Chuyên cần, không quyến niệm.
Không làm việc ác nhỏ
Mà bậc trí hiền chê
Nguyện thái bình an lạc
Nguyện tất cả sinh linh
Tròn đầy muôn phúc hạnh.
Chúng sanh dù yếu mạnh
Lớn nhỏ hoặc trung bình
Thấp cao không đồng đẳng
Hết thảy chúng hữu tình
Lòng từ không phân biệt.
Hữu hình hoặc vô hình
Đã sinh hoặc chưa sinh
Gần xa không kể xiết
Nguyện tất cả sinh linh
Tròn đầy muôn phúc hạnh.
Đừng lừa đảo lẫn nhau
Chớ bất mãn điều gì
Đừng mong ai đau khổ
Vì tâm niệm sân si
Hoặc vì nuôi oán tưởng.
Như mẹ giàu tình thương
Suốt đời lo che chở
Đứa con một của mình
Hãy phát tâm vô lượng
Đến tất cả sinh linh.
Từ bi gieo cùng khắp
Cả thế gian khổ hãi
Trên dưới và quanh mình
Không hẹp hòi oan trái
Không hờn giận oán thù.
Khi đi, đứng, ngồi, nằm
Bao giờ còn thức tỉnh
Giữ niệm từ bi này
Thân tâm thường an lạc
Phạm hạnh chính là đây.
Ai xả ly kiến thủ
Có giới hạnh nghiêm trì
Cùng chánh tri viên mãn
Không ái nhiễm dục trần
Thoát ly đường sinh tử.
BUDDHA-JAYAMAṄGALA GĀTHĀ
1. Bāhuṃ sahassam’abhinimmita s-āyudh’antaṃ
Girimekhalaṃ udita ghora-sasena-māraṃ
Dān’ādi dhaṃma-vidhina jitavā Mun’indo
Taṃ tejasā bhavatu me (te) jaya-maṅgalāni.
2. Mār’ātirekam-abhiyujjhita sabba rattiṃ
Ghorampan’Ālavakamakkham’ath’addha yakkhaṃ
Khantī sudanta-vidhinā jitavā Mun’indo
Taṃ tejasā bhavatu me (te) jaya-maṅgalāni.
3. Nālāgiriṃ gaja-varaṃ ati-matta-bhūtaṃ.
Dāv’aggi cakkaṃ-asanī’va su-dāruṇ’antaṃ
Mettaṃbu-seka vidhinā jitavā Mun’indo
Taṃ tejasā bhavatu me (te) jaya-maṅgalāni.
4. Ukkhitta-khaggam-atihaṭṭha sudāruṇ’antaṃ
Dhāvan tiyojana-path’Aṅgulimālavantaṃ
Iddhī’bhisaṅ’khata-mano jitavā Mun’indo
Taṃ tejasā bhavatu me (te) jaya-maṅgalāni.
5. Katvāna kaṭṭham’udaraṃ iva gabbhinīyā
Ciñcāya duṭṭha-vacanaṃ jana-kāya majjhe
Santena somma-vidhinā jitavā Mun’indo
Taṃ tejasā bhavatu me (te) jaya-maṅgalāni.
6. Saccaṃ vihāyam-ati-Saccaka-vāda-ketuṃ
Vād’ābhiropita-manaṃ ati-andha-bhūtaṃ
Paññā-padīpa-jalito jitavā Mun’indo
Taṃ tejasā bhavatu me (te) jaya-maṅgalāni.
7. Nandopananda-bhujagaṃ vibudhaṃ mah’iddhiṃ
Puttena thera bhujagena dam’āpayanto
Iddh’ūpadesa-vidhinā jitavā Mun’indo
Taṃ tejasā bhavatu me (te) jaya-maṅgalāni.
8. Duggāha-diṭṭhi bhujagena sudaṭṭha-hatthaṃ
Brahmaṃ visuddhi-jutim-iddhi-Bak’ābhidhānaṃ
Ñān’āgadena vidhinā jitavā Mun’indo
Taṃ tejasā bhavatu me (te) jaya-maṅgalāni.
Etāpi Buddha-jaya-maṅgala-aṭṭha-gāthā
Yo vācano dina-dine sarate ma tandī
Hitvāna neka-vividhāni c’upaddavāni
Mokkhaṃ sukhaṃ adhigameyya naro sapañño.
PHẬT LỰC THẮNG HẠNH KỆ
(Bài này tụng Cầu An hoặc Cầu Siêu đều được)
Tích xưa dưới cội Bồ-đề
Đức Phật cảm thắng tứ bề ma quân
Ma Vương hung dữ bội phần
Ngàn tay khí giới hiển thần, dương oai
Cỡi trên Khá-lá thần voi
Quân binh lớp lớp trong ngoài bao vây
Hét như sấm động tầng mây
Bồ-đoàn quyết chiếm tỏ bày hơn thua
Dùng pháp bố thí bờ kia
Thế Tôn nhiếp độ ác tà ma vương
Uy đức Phật Tổ vô lường
Cầu cho hạnh phúc, an khương mọi nhà.
A-lá-vá-ká Dạ-xoa
Hung tàn bạo ngược hơn là Ma Vương
Tự phụ, ngang ngạnh phi thường
Khoe tài, khoe lực kiên cường trọn đêm
Thế Tôn nhẫn nhục như nhiên
Dạ-xoa quy phục, nhu hiền từ đây
Uy đức Phật Tổ cao dày
Cầu cho hạnh phúc trổ đầy mười phương.
Na-la-gí-rí Tượng vương
Bị người phục rượu phát khùng, hóa điên
Khủng khiếp lửa cháy, sấm rền
Luân xa, bảo khí rần rần thẳng xông
Từ bi rải khắp hư không
Thế Tôn chế ngự cuồng ngông voi này
Uy đức Phật Tổ tròn đầy
Cầu cho hạnh phúc hiển bày thế gian.
Ăng-gu-li tinh nhuệ ngang tàng
Chém người lấy ngón tay làm tràng hoa
Kẻ hung bạo tợ ác ma
Cầm gươm giết Phật, rượt ba do-tuần
Thế Tôn khai triển phép thần
Độ tên hiếu sát thiện tâm quay về
Uy đức vô thượng Bồ-đề
Cầu cho hạnh phúc đề huề hằng sa.
Còn nàng mỹ nữ Chinh-cha
Cây tròn độn bụng, giả là mang thai
Vu oan miệng tiếng Như Lai
Ngài dùng Chánh Định nhiếp loài quỷ mưu
Uy đức Phật Tổ cao siêu
Cầu cho hạnh phúc trăm điều thăng hoa.
Kẻ ngoại đạo Xách-chá-ka
Chối bỏ sự thật, ba hoa lắm điều
Ngã mạn, tự phụ, kênh kiêu
Dựng cao cột phướng, trá điêu loè đời
Mù lòa chẳng thấy mặt trời
Phật dùng trí tuệ độ người cuồng si
Uy đức Phật Tổ vô nghì
Cầu cho hạnh phúc bảo trì gần xa.
Rồng Nanh-đô-pá-nanh-đa
Có đại thần lực, có tà kiến sai
Mục Liên tôn giả ra oai
Nghe lời Đức Phật thử tài Long vương
Thần thông biến hóa khôn lường
Thâu phục rồng dữ về nương pháp lành
Uy đức Phật Tổ cao minh
Cầu cho hạnh phúc phát sanh đến người.
Lại thêm Sắc giới cõi trời
Phạm thiên Bá-ká sáng ngời hào quang
Thần thông, đại lực phi phàm
Tự cho cao thượng hơn hàng Thánh Tăng
Thuần tịnh, đức hạnh ai bằng
Chấp ngã, chấp kiến tưởng rằng chánh tri
Do nhờ Giác Tuệ diệu kỳ
Thế Tôn bi mẫn độ vì Phạm thiên
Uy đức Phật Tổ vô biên
Cầu cho hạnh phúc khắp miền nhân gian.
Những người hiền trí, thiện căn
Ngày đêm trì niệm tinh cần kệ ngôn
Tám Phật Lực: Diệu Pháp môn
Tán dương uy đức Thế Tôn đời đời
Nhân lành tránh khỏi nạn tai
Phúc duyên tăng trưởng lâu dài về sau
Tấn tu quả báu nhiệm mầu
Viên thành chánh quả, ngõ hầu vô sanh.
MAṄGALASUTTĀRAMBHO
Ye santā santacittā tisaraṇasaraṇā ettha lokantare vā bhummā bhummā ca devā guṇagaṇagahanā byāvaṭā sabbakālaṃ.
Ete āyantu devā varakanakamaye merurāje vasanto.
Santo santo sahetum munivaravacanaṃ sotumaggaṃ samaggaṃ
Sabbesa cakkavālesu yakkhā devā ca brahmaṇo yaṃ amhehi kataṃ puññaṃ sabba sampattisādhakaṃ.
Sabbe taṃ anumoditvā samaggā sāsane ratā pamādarahitā hontu ārakkhāsu visesato.
Sāsanassa ca lokassa vuḍḍhī bhavatu sabbadā sāsanam-pi ca lokañca devā rakkhantu sabbadā.
Saddhiṃ hontu sukhī sabbe parivārehi attano anīghā sumanā hontu saha sabbehi ñātibhi.
Yañca dvādasa vassāni cintayiṃsu sadevakā cirassaṃ cintayantāpi neva jāniṃsu maṅgalaṃ cakkavālasahassesu dasasu yena tattakaṃ kālaṃ kolāhalaṃ jātaṃ yāvabrahmanivesanā.
Yaṃ lokanātho desesi sabbapāpavināsanaṃ yaṃ sutvā sabbadukkhehi muñcantā saṅkhiyā narā evamādiguṇūpetaṃ maṅgalantambhaṇāma he.
BỐ CÁO HẠNH PHÚC KINH
Xin thỉnh tất cả chư thiên
Là bậc có sẵn thiện duyên đủ đầy
Hư không ngự khắp trời mây
Hoặc ngoài thế giới đông tây địa cầu
Là bậc sang cả phước mầu
Đã từng Tam Bảo đê đầu quy y
Các ngài tinh tấn, kiên trì
Thích ưa hạnh phúc chỉ vì người, ta
Chư thiên ngự khắp gần xa
Tu Di núi chúa chói loà vinh quang
Các ngài xin hãy giáng phàm
Chúng tôi thiết lễ trầm nhang đón mời
Về đây, vân hội kịp thời
Đặng nghe vàng ngọc tiếng lời ngàn xưa
Thế Tôn, chuông pháp vẳng đưa
Phát sanh phỉ lạc thượng thừa hiếm hoi
Hai hàng thiện tín chúng tôi
Vật thí, pháp thí hiện thời chia chung
Phước kia sang cả vô cùng
Có thể thành tựu ước mong cho mình
Dạ-xoa, thiên chúng vô hình
Phạm thiên, Đế Thích pháp tình bao la
Và cùng tín chủ, đàn-na
Hỷ hoan phước báu, hợp hòa nhân thiên.
Dạ-xoa, thiên chúng các miền
Phạm thiên, Đế Thích thắng duyên đồng hành
Học tu tịnh giới trong lành
Tùy nghi giúp đỡ chúng sanh cõi trần
Hộ trì giáo pháp chánh chân
Dễ dàng hoằng hóa, thêm phần vị tha
Lộ trình tiến hóa thế là
Bình tâm, sáng trí, ta-bà lợi duyên
Cầu cho sanh chúng các miền
Lắng yên khổ não, bỏ phiền, được an
Là người tư cách đàng hoàng
Đức tin trong sạch, giỏi dang hạnh lành
Bà con quyến thuộc xung quanh
An vui cả thảy, thiện sanh người trời.
Chư thiên, nhân loại khắp nơi
Muôn triệu thế giới hết lời nguyện mong
Đã từng xét đục, suy trong
Đâu là hạnh phúc, chẳng đồng ý nhau
Mười hai năm, khổ công cầu
Xôn xao bàn cãi, chẳng đâu yên bình
Phạm thiên thấy rõ sự tình
Trong khi đức Phật giải minh rõ ràng
Đâu là hạnh phúc, lạc an
Đâu là phước báu cao sang trời người
Đâu là tự tại trong đời
Đâu là trong sạch, xa rời tham sân
Chúng sanh vô lượng vi trần
Đã nghe, đã hiểu, mười phần sáng thông
Mở ra hạnh phúc mênh mông
Từ đây tu tập gia công niệm trì.
MAṆGALA SUTTĀ
Evaṃ me sutaṃ:
Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati Jetavane Anāthapiṇdikassa ārāme. Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkanta-vaṇṇā kevala-kappaṃ Jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā ten’upasaṅkami upasaṅkamitvā Bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ thitā kho sā devatā Bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.
Bahū devā manussā ca
Maṅgalāni acintayuṃ
Ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ
Brūhi maṅgalaṃ’uttamaṃ.
1. Asevanā ca bālānaṃ
Paṇḍitānañca sevanā
Pujā ca pūjanīyanaṃ
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ.
2. Patirūpa-desa-vāso ca
Pubbe ca kata-puññatā
Atta sammā panīdhi ca
Etaṃ maṅgagam’uttamaṃ.
3. Bāhu saccañca sippañca
Vinayo ca susikkhito
Subhāsitā ca yā vācā
Etaṃ maṅgagam’uttamaṃ.
4. Mātā-pitu upaṭṭhānaṃ
Putta-dārassa saṅgaho
Anākulā ca kammantā
Etaṃ maṅgagam’uttamaṃ.
5. Dānañca dhamma-cariyā ca
Ñātakānañca saṅgaho
Anavajjāni kammāni
Etaṃ maṅgagam’uttamaṃ.
6. Āratī-viratī pāpā
Majja-pānā ca saññamo
Appamādo ca dhammesu
Etaṃ maṅgagam’uttamaṃ.
7. Gāravo ca nivāto ca
Santuṭṭhī ca kataññutā
Kālena dhamma-savanaṃ
Etaṃ maṅgagam’uttamaṃ.
8. Khantī ca sovacassatā
Samaṇānañca dassanaṃ
Kālena dhamma-sākacchā
Etaṃ maṅgagam’uttamaṃ.
9. Tapo ca brahma-cariyā ca
Ariya-saccāni dassanaṃ
Nibbāna-sacchikiriyā ca
Etaṃ maṅgagam’uttamaṃ.
10. Phuṭṭhassa loka-dhammehi
Cittaṃ yassa na kampati
Asokaṃ virajaṃ khemaṃ
Etaṃ maṅgagam’uttamaṃ.
11. Etādisāni katvāna
Sabbattham’aparājitā
Sabbattha-sotthiṃ gacchanti taṃ
Tesam maṅgagam’uttaman’ti.
HẠNH PHÚC KINH
(Chính Kinh)
Như vậy tôi nghe
Một thời Thế Tôn
Ngự tại Kỳ Viên tịnh xá
Của trưởng giả Cấp Cô Độc
Gần thành Xá-vệ
Khi đêm gần mãn
Có một vị trời
Dung sắc thù thắng
Hào quang chiếu diệu
Sáng tỏa Kỳ Viên
Đến nơi Phật ngự
Đảnh lễ Thế Tôn
Rồi đứng một bên
Cung kính bạch Phật
Bằng lời kệ rằng:
“Chư thiên và nhân loại
Suy nghĩ điều hạnh phúc
Hằng tầm cầu mong đợi
Một đời sống an lành
Xin Ngài vì bi mẫn
Hoan hỷ dạy chúng con
Về phúc lành cao thượng.”
Thế Tôn tùy lời hỏi
Rồi giảng giải như vầy:
Không gần gũi kẻ ác
Thân cận bậc trí hiền
Đảnh lễ người đáng lễ
Là phúc lành cao thượng.
Ở trú xứ thích hợp
Công đức trước đã làm
Chơn chánh hướng tự tâm
Là phúc lành cao thượng.
Đa văn, nghề nghiệp giỏi
Khéo huấn luyện, học tập
Nói những lời chơn chất
Là phúc lành cao thượng.
Hiếu thuận bậc sinh thành
Dưỡng dục vợ và con
Sở hành theo nghiệp chánh
Là phúc lành cao thượng.
Bố thí, hành đúng pháp
Giúp ích hàng quyến thuộc
Giữ chánh mạng trong đời
Là phúc lành cao thượng.
Xả ly tâm niệm ác
Chế ngự không say sưa
Trong pháp không phóng dật
Là phúc lành cao thượng.
Biết cung kính, khiêm nhường
Tri túc và tri ân
Đúng thời nghe chánh pháp
Là phúc lành cao thượng.
Nhẫn nhục, lời nhu hoà
Yết kiến bậc Sa-môn
Tùy thời đàm luận pháp
Là phúc lành cao thượng.
Tự chủ, sống phạm hạnh
Thấy rõ lý Thánh Đế
Giác ngộ quả Niết-bàn
Là phúc lành cao thượng.
Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động, không sầu
Tự tại và vô nhiễm
Là phúc lành cao thượng.
Những sở hành như vậy
Không chỗ nào thối thất
Khắp nơi được an toàn
Là phúc lành cao thượng.
KINH CẦU AN LÀNH CHO BỆNH NHÂN
(GIRIMĀNANDA SUTTĀ)
Như vậy tôi nghe
Một thời Thế Tôn
Ngự tại Kỳ Viên tịnh xá
Của trưởng giả Cấp Cô Độc
Gần thành Xá-vệ
Lúc ấy, có thầy Tỳ-khưu
Gi-ri-ma-nanh-đá
Thọ bệnh trầm kha
Vật vã, đau đớn
Thị giả Ānanda
Cảm thấy xót thương
Vào nơi Phật ngự
Đảnh lễ Thế Tôn
Ngồi xuống một bên
Cung kính bạch rằng:
“Bạch đức Thế Tôn
Thầy Gi-ri-ma-nanh-đá
Thọ bệnh trầm kha
Vật vã, đau đớn
Xin đấng Thiện Thệ
Rũ lòng bi mẫn
Tùy nghi, tùy thời
Thăm viếng, ủi an
Thuyết pháp cứu độ.”
Lúc ấy Đức Phật dạy:
“Này, Ānanda!
Ngươi nhiều từ tâm
Xót thương đồng đạo
Thật đáng khen ngợi
Vậy hãy thay mặt Như Lai
Đến chỗ Tỳ-khưu
Gi-ri-ma-nanh-đá
Truyền dạy cho thầy
Mười phép quán tưởng
Giảng giải chi ly
Minh bạch, thông suốt
Bệnh nhân nghe được
Chú tâm lãnh hội
Bệnh dẫu trầm kha
Vật vã, đau đớn
Lập tức thuyên giảm.
Này, Ānanda!
Hãy nghe cho kỹ
Mười phép quán tưởng
Chúng là thế nào?
Là vô thường tưởng
Là vô ngã tưởng
Là bất tịnh tưởng
Là tưởng bệnh khổ thân
Là tưởng dứt bỏ tà tư duy
Là tưởng ly dục
Là tưởng tịch tịnh
Là tưởng không đeo níu
Là tưởng yểm ly các hữu vi pháp
Là quán niệm hơi thở.
Này, Ānanda!
Phàm thầy Tỳ-khưu
Sống trong Phật pháp
Ngụ ở trong rừng
Hoặc nơi cội cây
Nhà trống thanh vắng
Hằng nên quán tưởng:
Sắc uẩn vô thường
Thọ, tưởng, hành, thức
Thảy đều như vậy
Ngũ uẩn vô thường
Biến hoại đổi khác
Theo lẽ thông thường
Pháp nào vô thường
Pháp ấy đau khổ
Này, Ānanda!
Phép quán tưởng ấy
Như Lai gọi là
Tưởng vô thường vậy.
Này, Ānanda!
Phàm thầy Tỳ-khưu
Sống trong Phật pháp
Ngụ ở trong rừng
Hoặc nơi cội cây
Nhà trống thanh vắng
Hằng nên quán tưởng:
Từ mắt, tai, mũi
Đến lưỡi, thân, ý
Chúng là vô ngã
Không phải là ta
Tự ngã của ta;
Từ sắc, thanh, hương
Đến vị, xúc, pháp
Chúng là vô ngã
Không phải là ta
Tự ngã của ta;
Lục căn, lục trần
Vốn là như vậy
Này, Ānanda!
Phép quán tưởng ấy
Như Lai gọi là
Tưởng vô ngã vậy.
Này, Ānanda!
Phàm thầy Tỳ-khưu
Sống trong Phật pháp
Ngụ ở trong rừng
Hoặc nơi cội cây
Nhà trống thanh vắng
Hằng nên quán tưởng:
Từ chân trở lên
Từ đầu trở xuống
Bì da bao bọc
Chứa vật không sạch
Tính chất khác nhau
Hình dạng khác nhau
Chúng gồm tóc, lông
Răng, da, thịt, xương
Tuỷ, thận, tim, gan
Lá lách, phổi, ruột
Phẩn, mật, mủ, máu
Mồ hôi, nước mắt
Nước tiểu, đàm, dãi...
Là vật dơ uế
Tạo nên thân thế
Này, Ānanda!
Phép quán tưởng ấy
Như Lai gọi là
Tưởng bất tịnh vậy.
Này, Ānanda!
Phàm thầy Tỳ-khưu
Sống trong Phật pháp
Ngụ ở trong rừng
Hoặc nơi cội cây
Nhà trống thanh vắng
Hằng nên quán tưởng:
Nơi thân thể ta
Nguyên nhân tội khổ
Hang ổ chứa nhóm
Quá nhiều bệnh hoạn:
Bệnh mắt, tai, mũi
Bệnh lưỡi, thân, đầu
Bệnh miệng, răng, họng
Bệnh suyển, gầy, ho
Bệnh cùi, bướu, lác
Kinh phong, bệnh tả
Mụn, vảy, phong, lở
Ban trái, ghẻ phỏng
Đau máu, đau mật
Bạch đái, trĩ ngoại
Mủ mụt, trĩ lậu
Đàm sanh, cảm gió
Phong đàm, thời khí
Thương hàn, bón, lậu
Nóng, lạnh, đói, khát...
Này, Ānanda!
Phép quán tưởng ấy
Như Lai gọi là
Tưởng bệnh khổ thân.
Này, Ānanda!
Phàm thầy Tỳ-khưu
Sống trong Phật pháp
Ngụ ở trong rừng
Hoặc nơi cội cây
Nhà trống thanh vắng
Hằng nên quán tưởng:
Ái dục tham luyến
Duyên sanh phiền não
Phải biết ly dục
Ly dục: Niết-bàn
Tịch tịnh, cao thượng
Này, Ānanda!
Phép quán tưởng ấy
Như Lai gọi là
Tưởng ly dục vậy.
Này, Ānanda!
Phàm thầy Tỳ-khưu
Sống trong Phật pháp
Ngụ ở trong rừng
Hoặc nơi cội cây
Nhà trống thanh vắng
Hằng nên quán tưởng:
Niết-bàn tịch tịnh
Chấm dứt hữu vi
Diệt các sở hành
Đoạn tuyệt ái dục
Dứt bỏ phiền não
Là pháp cao thượng
Này, Ānanda!
Phép quán tưởng ấy
Như Lai gọi là
Tưởng tịch tịnh vậy.
Này, Ānanda!
Phàm thầy Tỳ-khưu
Sống trong Phật pháp
Ngụ ở trong rừng
Hoặc nơi cội cây
Nhà trống thanh vắng
Hằng nên quán tưởng:
Ái dục tham luyến
Đeo níu thế giới
Chúng là dục ái
Tham luyến cõi dục
Chấp thủ dục giới
Chúng là sắc ái
Tham luyến cõi sắc
Chấp thủ sắc giới
Chấp thủ thường kiến
Chúng là vô sắc ái
Tham luyến vô sắc
Chấp thủ vô sắc
Chấp thủ đoạn kiến
Chúng là vi tế
Phiền não, ác tâm
Phàm thầy Tỳ-khưu
Phải biết viễn ly
Chẳng nên tham luyến
Chẳng nên chấp thủ
Này, Ānanda!
Phép quán tưởng ấy
Như Lai gọi là
Tưởng không đeo níu
Tham luyến thế giới.
Này, Ānanda!
Phàm thầy Tỳ-khưu
Sống trong Phật pháp
Ngụ ở trong rừng
Hoặc nơi cội cây
Nhà trống thanh vắng
Hằng nên quán tưởng:
Các pháp hữu vi
Vô thường, biến hoại
Sinh diệt, khổ não
Phải biết nhàm chán
Sanh tâm yểm ly
Này, Ānanda!
Phép quán tưởng ấy
Như Lai gọi là
Tưởng yểm ly các hữu vi pháp.
Này, Ānanda!
Phàm thầy Tỳ-khưu
Sống trong Phật pháp
Ngụ ở trong rừng
Hoặc nơi cội cây
Nhà trống thanh vắng
Ngồi khép mắt lại
Thân hình ngay thẳng
Tâm ý chánh chơn
Tu tập thiền quán
Thở vô: Biết rõ
Thở ra: Biết rõ
Hơi thở vắn dài
Vô ra biết rõ
Hơi thở thô thiển
Nhẹ nhàng, vi tế
Thảy đều biết rõ
Những thọ và tưởng
Vi tế tâm hành
Thảy đều biết rõ
Thư thái, khinh an
Yên lặng, quân bình
Thảy đều biết rõ
Ngũ uẩn vô thường
Sinh hoại, biến diệt
Dứt trừ tình dục
Vô khổ, vô não
Giải thoát, tịch tịnh
Thảy đều biết rõ
Này, Ānanda
Phép quán tưởng ấy
Như Lai gọi là
Quán niệm hơi thở.
Này, Ānanda!
Nếu một người nào
Đi vào chỗ ngụ
Của thầy Tỳ-khưu
Gi-ri-ma-nanh-đá
Giảng giải cặn kẽ
Minh bạch, thông suốt
Mười phép quán tưởng
Bệnh nhân nghe được
Chú tâm lãnh hội
Bệnh dẫu trầm kha
Vật vã, đau đớn
Lập tức thuyên giảm.
Liền đó, này Ānanda!
Ghi nhớ nằm lòng
Mười phép quán tưởng
Thế Tôn vừa dạy
Giảng giải cho thầy
Gi-ri-ma-nanh-đá
Cặn kẽ, chi li
Minh bạch, thông suốt
Bệnh nhân nghe được
Chú tâm lãnh hội
Bệnh dẫu trầm kha
Vật vã, đau đớn
Lập tức thuyên giảm.
Do duyên khởi ấy
Bởi nguyên nhân ấy
Mười phép quán tưởng
Của đức Thế Tôn
Bi mẫn xót thương
Dành cho người bệnh
Luôn được chư Tăng
Các hàng tại gia
Thành tâm tụng đọc
Quán tưởng, nhiếp niệm
Hằng được an vui
Hằng được dứt khổ
Chúng sanh hữu tình
Khắp thảy trời người
Vô biên lợi lạc.
(Khi nào gặp nạn nước, nạn lửa hoặc những tai ương bất hạnh thì thành tâm tụng đọc kinh uy lực tối thượng dưới đây):
RATANA-SUTT’ĀRAMBHO
Paṇidhāna-to patthāya Tathāgatassa dasa pāramiyo dasa upapāramiyo dasa param’attha-pāramiyo pañca mahā-pari-ccāge tisso cariyā pacchima-bbhave gabbh’āvakkantiṃ jātiṃ abhinikkhamanaṃ padhāna-cariyaṃ bodhi-pallaṅ’ke māra vijayaṃ.
Sabb’aññuta-ññāṇa-ppaṭivedhaṃ nava lok’uttara-dhamme’ti. Sabbe’pi me Buddha-guṇe āvajjitvā Vesāliyā tīsu pākār’antaresu ti-yāma-rattiṃ parittaṃ karonto āyasmā Ānandā-thera viya kāruñña-cittaṃ upaṭṭhapetvā.
Koti-sata-hassasesu cakkavālesu Devatā yassānam paṭiggaṇhanti yañca Vesāliyaṃ pure rog’āmanussa dubbhikkha-sambhūtaṃ tividhaṃ bhayaṃ khippam’antara-dhāpesi parittaṃ tam bhaṇāmahe.
DUYÊN KHỞI
BỐ CÁO KINH TAM BẢO
Đại đức A-nan-đa
Đã phát tâm bi mẫn
Hộ niệm suốt ba canh
Ba vòng thành Vệ-xá
Niệm tất cả ân đức
Của Như Lai đại nguyện
Là mười Ba-la-mật
Mười thượng Ba-la-mật
Mười thắng Ba-la-mật
Năm pháp Đại thí xả
Ba Đại hạnh độ sinh
Trong kiếp chót xuống trần
Lâm-tỳ-ni giáng hạ
Chí xuất gia bất thối
Tu khổ hạnh bền tâm
Rồi chiến thắng Ma quân
Ngộ Nhất Thiết Liễu Trí
Chứng chín pháp siêu phàm
Chư thiên khắp các cõi
Mười muôn triệu thế giới
Đều thọ lãnh vui mừng
Kinh hộ trì uy lực
Và trong thành Vệ-xá
Những bệnh hoạn, tai ương
Đói khát cùng phi nhơn
Thảy đều mau tan biến
Tất cả đồng hỷ hoan
Uy lực kinh tối thượng
Chúng đệ tử nhất tâm
Xin trì kinh hộ niệm.
RATANA SUTTA
Yān’īdha bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāni’va antaḷikkhe
Sabbe’vabhūtā sumanā bhavantu
Atho’pi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ.
Tasmā hi bhūtāni sametha sabbe
Mettaṃ karotha mānusiyā pajāya
Divā ca ratto ca haranti ye baliṃ
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā.
Yaṃ kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā
Saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ
Na no samaṃ atthi Tathāgatena
Idam’pi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Khayaṃ virāgaṃ amataṃ paṇītaṃ
Yad’ajjhagā Sakyamunī samāhito
Na tena Dhammena sam’atthi kiñci
Idam’pi Dhamme ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Yaṃ Buddha-seṭṭho parivaṇṇayī suciṃ
Samādhim’ānantarik’aññam’āhu
Samādhinā tena samo na vijjati
Idam’pi Dhamme ratanaṃ panītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Ye puggalā aṭṭha sataṃ pasatthā
Cattāri etāni yugāni honti
Te dakkhiṇeyyā Sugatassa Sāvakā
Etesu dinnāni maha-pphalāni
Idam’pi Saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Ye su-ppayuttā manasā daḷhena
Nikkāmino Gotama sāsanamhi
Te patti-pattā amataṃ vigeyha
Laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā
Idam’pi Saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Yath’indakhīlo pathaviṃ sito siyā
Catūbhi vātebhi asampakampiyo
Tath’ūpamaṃ sappurisaṃ vadāmi yo
Ariya-saccāni avecca-passati
Idam’pi Saṅghe ratanaṃ panītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Ye ariya-saccāni vibhāvayanti
Gambhīra paññena sudesitāni
Kiñc’āpi te honti bhusa-ppamattā
Na te bhavaṃ aṭṭhamam’ādiyanti
Idam’pi Saṅghe ratanaṃ panītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Sahāvassa dassana-sampadāya
Tayassu dhammā jahitā bhavanti
Sakkāya-diṭṭhi vicikicchitañca
Sīlabbataṃ vā’pi yad’atthi kiñci
Catūh’apāyehi ca vippamutto
Cha c’ābhiṭṭhānāni abhabbo kātuṃ
Idam’pi Saṅghe ratanaṃ panītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Kiñc’āpi so kammaṃ karoti pāpakaṃ
Kāyena vācā uda cetasā vā
Abhabbo so tassa paṭicchādāya
Abhabbatā diṭṭha-padassa vuttā
Idam’pi Saṅghe ratanaṃ panītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Vana’ppagumbe yathā bhussit’agge
Gimhāna-māse paṭhamasmiṃ gimhe
Tath’ūpamaṃ Dhamma-varaṃ adesayi
Nibbāna-gāmiṃ paramaṃ hitāya
Idam’pi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Varo var’aññū varado var’āharo
Anuttaro Dhamma-varaṃ adesayi
Idam’pi Buddhe ratanaṃ panītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Khīnaṃ purāṇaṃ navaṃ n’atthi sambhavaṃ
Viratta-citt’āyatike bhavasmiṃ
Te khīṇa-bījā aviruḷhi chandā
Nibbanti dhīrā yathā yaṃ padīpo
Idam’pi Saṅghe ratanaṃ panītaṃ
Etena saccena suvatthi hotu.
Yān’īdha bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāni’va antaḷikkhe
Tathāgataṃ deva-manussa-pūjitaṃ
Buddhaṃ namassāma suvatthi hotu.
Yān’īdha bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāni’va antaḷikkhe
Tathāgataṃ deva-manussa-pūjitaṃ
Dhammaṃ namassāma suvatthi hotu.
Yān’īdha bhūtāni samāgatāni
Bhummāni vā yāni’va antaḷikkhe
Tathāgataṃ deva-manussa-pūjitaṃ
Saṅghaṃ namassāma suvatthi hotu.
KINH TAM BẢO
(Chính Kinh)
Phàm chúng thiên nhơn nào
Cư ngụ trên địa cầu
Hoặc hư không trú xứ
Đã vân tập về đây
Phát sanh lòng hoan hỷ
Chánh tâm và thành ý
Lắng nghe lời dạy này.
Tất cả chúng thiên nhơn
Hãy bi mẫn, đồng tâm
Lòng từ luôn rộng mở
Năng chuyên cần gia hộ
Đối với nữ, nam nào
Ngày đêm thường bố thí.
Phàm những tài sản gì
Đời này hay đời sau
Ngọc báu hoặc trân châu
Có cùng khắp thiên giới
Nhưng chẳng gì sánh nổi
Đức Thiện Thệ Như Lai
Chính Phật Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Ly dục diệt phiền não
Pháp diệu thù bất tử
Phật Thích Ca Mâu Ni
Bậc Tịch Tịnh vô vi
Trong thiền chứng ngộ Pháp
Chẳng pháp nào sánh nổi
Chính Pháp Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Bậc Vô Thượng Chánh Giác
Hằng ca ngợi pháp thiền
Trong sạch, không gián đoạn
Chẳng thiền nào sánh nổi
Chính Pháp Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Thánh Bốn Đôi Tám Vị
Bậc thiện hằng tán dương
Đệ tử đấng Thiện Thệ
Xứng đáng được cúng dường
Chính Tăng Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Các Ngài tâm kiên cố
Ly dục, sống chánh đạo
Khéo chơn chánh thiện hành
Lời Phật Gotama
Chứng đạt được quả vị
Thể nhập đạo bất tử
Hưởng tịch tịnh dễ dàng
Chính Tăng Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Ví như cột trụ đá
Khéo y tựa lòng đất
Dẫu gió bão bốn phương
Chẳng thể nào lay động
Ta nói bậc Chơn Nhơn
Liễu ngộ Tứ Thánh Đế
Cũng tự tại, bất động
Trước tám pháp thế gian
Chính Tăng Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Bậc Thánh Tu Đà Huờn
Thấu triệt lý Thánh Đế
Bởi thậm thâm trí tuệ
Mà đức Chuyển Pháp Vương
Đã khéo giảng, khéo dạy
Các Ngài dù phóng dật
Cũng chẳng thể tái sanh
Nhiều hơn trong bảy kiếp
Chính Tăng Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Nhờ vững chắc Chánh Kiến
Nhờ sáng suốt Chánh Tri
Đoạn lìa ba trói buộc
Là thân kiến, hoài nghi
Luôn cùng giới cấm thủ
Do vậy, chính các Ngài
Ra khỏi bốn đọa xứ
Không làm sáu trọng tội
Chính Tăng Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Bậc Thánh Tu Đà Huờn
Dẫu phạm lỗi vô tâm
Bằng ý, lời hay thân
Chẳng bao giờ khuất lấp
Bởi vì đức tính này
Được gọi là Thấy Pháp
Chính Tăng Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Ví như cây trong rừng
Đâm chồi đầu mùa hạ
Cũng vậy, Đức Thế Tôn
Thuyết giảng Pháp Siêu Việt
Pháp đưa đến Niết-bàn
Tối thượng, vô năng thắng
Lợi lạc chúng hữu tình
Chính Phật Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Đức Phật, Bậc Vô Thượng
Liễu thông Pháp Vô Thượng
Ban bố Pháp Vô Thượng
Chuyển đạt Pháp Vô Thượng
Tuyên thuyết Pháp Vô Thượng
Chính Phật Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Nghiệp cũ đã chấm dứt
Nghiệp mới không tạo nên
Nhàm chán kiếp lai sinh
Chủng tử, dục đoạn tận
Ví như ngọn đèn tắt
Bậc Trí chứng Niết-bàn
Chính Tăng Bảo, như vậy
Là châu báu thù diệu
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Phàm chúng thiên nhơn nào
Cư ngụ trên địa cầu
Hoặc hư không trú xứ
Đã vân tập về đây
Phát sanh lòng hoan hỷ
Chánh tâm và thành ý
Hãy đảnh lễ Đức Phật
Đã như thật xuất hiện
Được chư thiên, loài người
Thường cúng dường, tôn trọng
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Phàm chúng thiên nhơn nào
Cư ngụ trên địa cầu
Hoặc hư không trú xứ
Đã vân tập về đây
Phát sanh lòng hoan hỷ
Chánh tâm và thành ý
Hãy đảnh lễ Đức Pháp
Đã như thật xuất hiện
Được chư thiên, loài người
Thường cúng dường, tôn trọng
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
Phàm chúng thiên nhơn nào
Cư ngụ trên địa cầu
Hoặc hư không trú xứ
Đã vân tập về đây
Phát sanh lòng hoan hỷ
Chánh tâm và thành ý
Hãy đảnh lễ Đức Tăng.
Đã như thật xuất hiện
Được chư thiên, loài người
Thường cúng dường, tôn trọng
Mong với sự thật này
Được sống chơn hạnh phúc.
NHỮNG BÀI KỆ VÔ ÚY HỘ TRÌ
(5 bài kệ sau đây, chư Tăng thường tụng đọc chúc phúc an lành cho chư thí chủ - nhưng nếu cư sĩ có quy giới và thành tâm, có thể đọc tụng để mang đến an lành cho bà con, quyến thuộc cùng các gia đình bằng hữu.)
JAYA-PARITTA-GĀTHĀ
Mahā-kāruṇiko nātho
Hitāya sabba pāṇinaṃ
Pūretvā pāramī sabbā
Patto sambodhim-uttamaṃ
Etena sacca-vajjena
Hotu te jaya-maṅ’galam.
Jayanto bodhiyā mūle
Sakyānaṃ nandi-vaḍḍhano
Evaṃ tvaṃ vijayo hohi
Jayassu jaya-maṅgale
Aparājita-pallaṅke
Sīse pathavi-pokkhare.
Abhiseke sabba-Buddhānaṃ
Agga-ppatto pamodati
Su-nakkhattaṃ su-maṅgalaṃ
Su-pabhātaṃ su-h-uṭṭhitaṃ
Su-khaṇo su-muhutto ca
Su-yiṭṭhaṃ brahma-cāsisu.
Padakkhiṇaṃ kāya-kammaṃ
Vācā-kammaṃ padakkhiṇaṃ
Padakkhiṇaṃ mano-kammaṃ
Paṇidhī te padakkhiṇā
Padakkhiṇāni katvāna
Padakkhiṇāni katvāna
Labhant’atthe padakkhiṇe.
KỆ HỘ TRÌ TỐI THẮNG
Hồng ân đức Chánh Biến Tri
Là bậc cứu khổ, đại bi khó lường
Hành Ba-la-mật phi thường
Lợi ích cao cả sáu đường chúng sanh
Hôm kia, Chánh Giác viên thành
Chứng quả tối thượng, vô sanh luân hồi
Do nhờ chân thật thành lời
Cầu cho hạnh phúc bao người thiện tâm.
Do nhờ chiến thắng ma quân
Bồ đoàn kết cỏ, bảo trân sáng ngời
Địa cầu rúng động từng hồi
Bảo tọa bất thối, ma trời hoảng kinh
Thích Ca dòng tộc nghiêng mình
Vui mừng, cung kỉnh, phước sinh lộc chồi
Đăng quang, sen nở Phật ngồi
Tự mình, tự thắng - cầu người lạc an!
Giờ nào ba nghiệp chu toàn
Cả thân khẩu ý nhẹ nhàng lắng trong
Là giờ hoàng đạo tươi hồng
Là sao hạn tốt, cầu mong là thành
Là giờ may mắn, an lành
Cúng dường phạm hạnh, phát sanh phước vàng.
Là ngày thân nghiệp huy hoàng
Là ngày khẩu nghiệp vinh quang chói ngời
Là ngày ý nghiệp tuyệt vời
Thịnh vượng, phát đạt đúng thời trổ hoa.
Chúc cầu thiện tín mọi nhà
Bằng hữu, quyến thuộc gần xa toại lòng
Vô bệnh, ít não, khổ không
An vui, hạnh phúc, phước hồng đầy vai
Tiến tu Phật đạo miệt mài
Nguyện vọng nhiêu ích, lợi tài mãn sung
Mãn sung thiện pháp đi cùng
Vào dòng bất thối, ngự chung thánh tòa!
ABHAYA-PARITTA-SUTTA
Yaṃdu-nnimittaṃ ava-maṅgalañca
Yo c’āmanāpo sakuṇassa saddo
Pāp’āgho du-ssupinaṃ akantaṃ
Buddh’ānubhāvena vinassamentu.
Yaṃdu-nnimittaṃ ava-maṅgalañca
Yo c’āmanāpo sakuṇassa saddo
Pāp’āgho du-ssupinaṃ akantaṃ
Dhamm’ānubhāvena vinassamentu.
Yaṃdu-nnimittaṃ ava-maṅgalañca
Yo c’āmanāpo sakuṇassa saddo
Pāp’āgho du-ssupinaṃ akantaṃ
Saṅgh’ānubhāvena vinassamentu.
Dukkha-ppattā ca ni-ddukkhā
Bhaya-ppattā ca ni-bbhayā
Soka-ppattā ca ni-ssokā
Hontu sabbe-pi pāṇino
Etā-vatā ca amhehi
Sambhataṃ puñña-sampadaṃ
Sabbe dev’ānumodantu
Sabba sampatti-siddhiyā.
Dānaṃ dadantu saddhāya
Sīlaṃ rakkhantu sabbadā
Bhāvan’ābhiratā hontu
Gacchantu devat’āgatā.
Sabbe Buddhā bala-ppattā
Paccekānañca yam balaṃ
Arahantānañca tejena
Rakkhaṃ bandhāmi sabbaso.
VÔ ÚY KỆ HỘ TRÌ
Do nhờ Phật Bảo uy linh
Uy đức Pháp Bảo quang minh đời đời
Uy đức Tăng Bảo rạng ngời
Những điều bất hạnh kịp thời tránh xa
Gian nguy, bất hảo, ác tà
Điềm triệu mộng mị xấu xa chẳng còn
Tiếng gào điểu, thú bi thương
Những điều bất mãn, bất tường tiêu tan
Khổ đau, sợ hãi, hung tàn
Ưu sầu, phiền muộn hoàn toàn lặng yên.
Cầu xin hộ pháp chư thiên
Chở che, nâng đỡ mọi miền chúng sanh
Ngưỡng mong thiện sự tác thành
Các ngài hoan hỷ phước lành chúng tôi
Từ tâm, bác ái vun bồi
Giàu lòng tín thí, trời người lạc an
Giới điều, nết hạnh nghiêm trang
Tinh cần tu niệm, vẹt màn vô minh.
Chư thiên hộ pháp hiển linh
Các ngài đi đến phỉ tình hân hoan
Uy đức Thánh chúng Thinh Văn
Uy đức Độc Giác công năng diệu kỳ
Uy đức của đấng Toàn Tri
Con nguyền thủ hộ, duy trì từ đây.
ĀṬĀNĀṬIYA-PARITTA-GĀTHĀ
Sakkatvā Buddha-ratanaṃ
Osadhaṃ uttamaṃ varaṃ
Hitaṃ deva-manussānaṃ
Buddha-tejena sotthinā
Nassant’upaddavā sabbe
Dukkhā vūpasamentu te.
Sakkatvā Dhamma-ratanaṃ
Osadhaṃ uttamaṃ varaṃ
Pariḷāh’upasamanaṃ
Dhamma-tejena sotthinā
Nassant’upaddavā sabbe
Bhayā vūpasamentu te.
Sakkatvā Saṅgha-ratanaṃ
Osadhaṃ uttamaṃ varaṃ
Āhuneyyaṃ pāhuneyyaṃ
Saṅgha-tejena sotthinā
Nassant’upaddavā sabbe
Rogā vūpasamentu te.
KỆ HỘ TRÌ ĀṬĀNAṬIYA
Bao điều nguy khốn tiêu tan
Khổ não yên lặng, bình an cho người
Ân uy Phật Bảo cao vời
Vì lòng tôn kính, trọn đời tựa nương
Như thang linh dược phi thường
Thảy đều lợi lạc, mười phương trời, người.
Bao điều nguy khốn tiêu tan
Lo sợ yên lặng, bình an cho người
Ân uy Pháp bảo cao vời
Vì lòng tôn kính, trọn đời tựa nương
Như thang linh dược phi thường
Thảy đều lợi lạc, mười phương trời, người.
Bao điều nguy khốn tiêu tan
Lo sợ yên lặng, bình an cho người
Ân uy Tăng bảo cao vời
Vì lòng tôn kính, trọn đời tựa nương
Như thang linh dược phi thường
Thảy đều lợi lạc, mười phương trời, người.
RATANA-GĀTHĀ
Yaṃ kiñci ratanaṃ loke
Vijjati vividhaṃ putthu
Ratanaṃ Buddha-samaṃ n’atthi
Tasmā sotthī bhavantu te.
Yaṃ kiñci ratanaṃ loke
Vijjati vividhaṃ putthu
Ratanaṃ Dhamma-samaṃ n’atthi
Tasmā sotthī bhavantu te.
Yaṃ kiñci ratanaṃ loke
Vijjati vividhaṃ putthu
Ratanaṃ Saṅgha-samaṃ n’atthi
Tasmā sotthī bhavantu te.
KỆ CHÂU BÁU
Đầy tràn châu báu thế gian
Nhiều thứ, nhiều loại quý sang, chói ngời
Muôn hình, muôn vẻ tuyệt vời
Đâu bằng Phật Bảo trên đời hiện nay
Nguyện cho thiện tín quanh đây
Gia đình, quyến thuộc tròn đầy phước duyên.
Đầy tràn châu báu thế gian
Nhiều thứ, nhiều loại quý sang, chói ngời
Muôn hình, muôn vẻ tuyệt vời
Đâu bằng Pháp Bảo trên đời hiện nay
Nguyện cho thiện tín quanh đây
Gia đình, quyến thuộc tròn đầy phước duyên.
Đầy tràn châu báu thế gian
Nhiều thứ, nhiều loại quý sang, chói ngời
Muôn hình, muôn vẻ tuyệt vời
Đâu bằng Tăng Bảo trên đời hiện nay
Nguyện cho thiện tín quanh đây
Gia đình, quyến thuộc tròn đầy phước duyên.
KỆ HỒI HƯỚNG
Khắp miền tịnh xá quanh đây
Ở nơi đền tháp, gốc cây Bồ-đề
Chư thiên trú xứ liền kề
Cúng dường pháp thí, đề huề hưởng chung
Phước tâm, phước trí đi cùng
Các ngài che chở một vùng an sinh
Hộ trì Tăng chúng quang vinh
Thượng, trung hạ lạp, hạnh minh một tòa
Với cùng cận sự gần xa
Các hàng tín thí, chủ gia lòng lành
Thôn làng, châu quận, thị thành
Quan quyền, lãnh đạo thiện sanh đạo mầu
Chúng sanh khắp cả địa cầu
Noãn thai thấp hóa - khổ sầu dần vơi
Do ân chánh pháp trên đời
Dẫn đến giải thoát, trời người phúc duyên
Nguyện cho sanh chúng các miền
Tu hành tinh tấn, não phiền tiêu tan
Cầu cho Pháp Bảo diệu toàn
Trường tồn bất hoại, bốn hàng đồng tu
Mỗi ai giới pháp công phu
Đều y như vậy, xuân thu thanh bình
Cầu cho Tăng chúng trí minh
Lục hòa, Tứ nhiếp đạo tình thanh cao
An vui lợi lạc xiết bao
Tựu thành viên mãn ước ao kịp thì
Cầu xin Pháp Bảo hộ trì
Những người hành đạo, giới nghi đủ đầy
Hưng thịnh, tiến hóa đời này
Pháp khéo thuyết giảng, từ nay lên đường!