Sn 4.9 – Magandiya Sutta Kinh về Không Giữ Quan Điểm Nào

28/10/201810:01 SA(Xem: 3336)
Sn 4.9 – Magandiya Sutta Kinh về Không Giữ Quan Điểm Nào
NGUYÊN GIÁC
Dịch Việt & Chú Giải
KINH NHẬT TỤNG SƠ THỜI
Nhà xuất bản Ananda Viet Foundation

 

Sn 4.9MAGANDIYA SUTTA

KINH VỀ KHÔNG GIỮ QUAN ĐIỂM NÀO

 

 

Duyên khởi kinh này, theo chú giải, là do ông Magandiya ngỏ ý muốn gả cô con gái xinh đẹp cho Đức Phật. Trong bài Kệ 835 đầu kinh, Bhikkhu Bodhi không dịch ba chữ Tanha, Arati, Raga và ghi chú rằng đó là tên ba cô con gái của Mara; các bản của Bhante Varado, của Müller & Fausboll cũng làm như Bodhi. Trong khi đó, bản của Fronsdal dịch là craving (tham), aversion (sân), lust (sắc dục); các bản của Thanissaro Bhikkhu, Khantipalo, Pannobhasa Bhikkhu dịch bằng các chữ tương đương. 

Đức Phật nói trong bài Kệ 839 rằng thanh tịnh (hiểu là giải thoát) không thể tới từ quan điểm (kiến, giáo thuyết), từ việc học (cái ngoài tâm mình), từ kiến thức (cái biết của quá khứ), từ giới luật, từ nghi thức tôn giáo.

Đức Phật cũng trong bài kệ  đó, nói giải thoát cũng không phải là khi bác bỏ giáo thuyết, bỏ việc học, bỏ kiến thức, bỏ giới luật, bỏ nghi thức tôn giáo.

Điểm quan trọng không phải là học hay không học, không phải là giữ giới hay phá giới, không phải là tụng kinh hay không tụng kinh, không phải là nắm giữ Pháp Phật hay rời bỏ Pháp Phật… Mà là không nắm giữ gì (vô sở trụ).

Khi nghe Đức Phật dạy như đoạn trên, Magandiya nói rằng ông có cảm giác lời Đức Phật dạy là hoàn toàn rối bời (bản dịch Bodhi: utterly confused), ngốc nghếch (bản Fronsdal: foolish), rất mờ ảo (bản Khantipalo: very deluded)… Nghĩa là, nói theo Thiền Tông, một khi tay hoa chuyển, tứ chúng đều mờ mịt.

Ngôn phong bài này y hệt như Long Thọ trong Trung Luận. Nghĩa là, Đức Phật nói, ta không một pháp dạy cho người.

Tuy nhiên, phải tin sâu nhân quả, để không bao giờ làm gì sai trái.

Đặc biệt, lời Đức Phật nói ở câu đầu trong bài Kệ 847 gợi nhớ pháp tu vô niệm của Thiền Tông, khi dạy là phải xa lìa tưởng. Tưởng là khởi đầu, trước khi dẫn tới niệm (xin mời xem phân tích chi tiết ở Kinh Sn 5.13 trong Phẩm Qua Bờ Bên Kia). 

-- Câu đầu bài Kệ 847 ở bản Khantipalo dịch là: For one detached from perception, there exist no ties.

-- Bản Thanissaro: For one dispassionate toward perception, there are no ties.

-- Bản Bodhi: For one detached from perception, there are no knots.

-- Bản Fronsdal: Someone freed from concepts has no ties.

-- Bản HT Minh Châu: Người không ưa thích tưởng, không có bị trói buộc.

-- Nơi đây, sẽ dịch là: Với người đã xa lìa tưởng, sẽ không còn gì trói buộc

Tóm lược ý kinh: Lìa ái dục, bỏ tranh cãi. Không nắm giữ một pháp nào. Y hệt như người lên tới đầu sào trăm trượng và bước thêm một bước vào chỗ không gì nương tựa.

Kinh này gồm các bài kệ từ 835 tới 847.

 

835

(Đức Phật nói)

Đã thấy Tham, Sân, và Sắc Dục

ta không ham muốn tình dục chút nào.

Cái thân gì đây – đầy những nước tiểu và phân –

ta không muốn, ngay cả đưa bàn chân ta chạm tới.

 

836

(Magandiya nói)

Nếu Ngài không muốn viên ngọc như thế này,

một thiếu nữ được nhiều quân vương thèm muốn,

xin cho biết Ngài thuyết giảng gì về quan điểm,

giới luật, nghi lễ tôn giáo, nếp sống, muốn tái sinh về đâu.

 

837

(Đức Phật nói)

Xem các giáo thuyết người ta nắm giữ,

ta không thuyết một pháp nào cho đời nắm giữ

Nhìn vào các quan điểm, ta không nắm giữ gì (vô sở trụ)

Khảo sát, ta nhìn thấy bình an nội tâm.

 

838

(Magandiya nói)

Ngài nói về không nắm giữ gì (về vô sở trụ)

với những thuyết đã được dựng lập

Nhưng bình an nội tâm có nghĩa là gì?

Làm sao người trí có thể tuyên thuyết nó?

 

839

(Đức Phật nói với Magandiya)

Ta nói rằng thanh tịnh không thể tới từ quan điểm,

học hỏi, kiến thức, giới luật, và nghi lễ tôn giáo;

cũng không thể tới từ thiếu vắng quan điểm,

học hỏi, kiến thức, giới luật, và nghi lễ tôn giáo.

Nhưng chỉ là khi buông xả hết, khi không nắm giữ gì hết,

thì sẽ bình an (không dựa vào đâu), không còn muốn sanh hữu nữa.

 

840

(Magandiya nói)

Nếu thanh tịnh không tới từ quan điểm, việc học,

kiến thức, giới luật, nghi lễ tôn giáo

mà cũng không phải không quan điểm, không việc học,

không kiến thức, không giới luật, không nghi lễ tôn giáo

Tôi nghĩ đó là lời dạy rất mực rối bời;

một số người dựa vào quan điểm (giáo thuyết) để tịnh hóa.

 

841

 (Đức Phật nói)

Ngươi hỏi liên tụcdựa vào các quan điểm của ngươi

và thấy rối bời vì chính do các thứ do người nắm giữ

Ngươi không nhận ra một chút ý nào ta nói

do vậy ngươi thấy rất mực rối bời.

 

842

Khi có ai suy nghĩ rằng họ ngang bằng, cao hơn, hay thấp hơn

là tự họ rơi vào tranh cãi.

Với người không lay động về 3 xếp loại đó

sẽ không suy nghĩ gì về ngang bằng hay cao hơn.

 

843

Tại sao người Phạm hạnh đó nói ‘cái này đúng’?

hay là với ai, người này cãi rằng ‘cái này sai’?

Đã không thấy cả ‘bằng nhau’ và ‘không bằng nhau’

với ai mà người này còn tranh cãi nữa?

 

844

Đã xuất gia, làm người du sĩ không nhà

không thân cận với dân làng nào

xa lìa ái dục, không ưa thích mong đợi

Bậc trí sẽ không tranh cãi gì với ai.

 

 

845

Không dính mắc, vị đó lang thang trong thế giới này

bậc long tượng đó không nắm giữ và cũng không tranh cãi gì

hệt như bông sen mọc lên trong nước

không nhiễm cả nước lẫn bùn

như thế, vị này bênh vực hòa bình, xa lìa tham,

không nhiễm gì với lạc thọthế giới này.

 

846

Không vì có quan điểm hay vì có ý kiến

mà bậc trí tuệ trở nên kiêu hãnh

vì vị này không thấy cái gì là “của tôi” nữa.

Không bị nghiệp và kiến thức (cái đã học) dẫn đi nữa,

vị này sẽ không bị kéo về bất kỳ chỗ nào nữa.

 

847

Với người đã xa lìa tưởng, sẽ không còn gì trói buộc

Với người giải thoát bởi trí tuệ sẽ không lầm lạc hư ảo nữa.

Với người nắm giữ các tưởng và quan điểm

họ sẽ xô xát tranh cãi khi đi trong thế giới này.

 

Hết Kinh Sn 4.9





Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Tôi hôm nay hân hạnh được góp một vài ý kiến trong Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An, vị đạo sư đã khai sáng Bửu Sơn Kỳ Hương, một tôn giáo nội sinh trong lòng dân tộc và vì ngài có một thời gian cư trú ở Chùa Tây An (Thiền phái Lâm Tế) dưới chân núi Sam (Châu Đốc), nên vị đạo sư họ Đoàn được người dân một cách tôn kính gọi là Đức Phật Thầy Tây An. Từ gốc rễ đó, Phật Giáo Hòa Hảo do Đức Huỳnh Giáo Chủ sáng lập, thường được coi là sự kế thừa và phát triển của Bửu Sơn Kỳ Hương trong bối cảnh mới. Truyền thống Phật Giáo Hòa Hảo mỗi năm đều có Lễ Vía Đức Phật Thầy Tây An. Ngài đã từng được nhìn theo nhiều phương diện khác nhau. Nhưng hôm nay, tôi xin phép trình bày về một bản văn quan trọng do Đức Phật Thầy Tây An để lại. Đó là bài thơ Mười Điều Khuyến Tu.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Tâm thư KHẨN THIẾT KÊU GỌI cứu trợ đồng bào nạn nhân bão lụt Miền Bắc VN Một đồng.. giữa lúc nguy nan Hơn giúp bạc triệu lúc đang yên bình.. Bão giông tan tác quê mình.. Ơi người con Việt đoái nhìn, sẻ chia.... Như Nhiên- Thích Tánh Tuệ
Trước hết là giải thích lý do vì sao đi so sánh giữa hai người này. Câu trả lời là vì họ có lập trường đối lập với nhau và đều rất nổi tiếng. Một người là nhà khoa học nổi tiếng nhất của nhân loại có quan điểm duy thực (tin thế giới vật chất là có thật khách quan nằm ngoài ý thức). Một người là đại biểu có sức ảnh hưởng của Phật giáo tu theo hạnh đầu đà (khổ hạnh) không tin vật chất kể cả thân xác là tuyệt đối có thật (bản chất là tánh không) và thực hành tánh không bằng cách tu tập khổ hạnh, đối diện với khổ nhưng không cảm thấy khổ, chứng tỏ khổ cũng không có thật. Người giải ngộ phải hiểu rằng Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) chỉ là giáo lý bất liễu nghĩa. Bát Nhã Tâm Kinh đã nêu rõ :