Saddharmapuṇḍarīkasūtram
BẢN VIỆT DỊCH PHÁP HOA PHẠN VĂN ĐẦU TIÊN
[TỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM]
Samantamukhaparivartaḥ
*
nhân ngày kỷ niệm Đại sĩ Quán Âm 19/9/ Mậu tuất - PL. 2562]
#Lược ghi Phổ môn Phạn văn:
Có mấy điểm cho là cần thiết ghi nhận sơ lược ở đây:
**Nói Phổ Môn ở đây là nói phẩm 24 của bản Phạn, thường được biết đến là phẩm 25 trong bản Pháp sư La-thập.
(1) Nói là Avalokiteśvara tức là nói về vị Đại sĩ có năng lực biến thể và toàn diện, đó là nói sự, còn nói lý tánh, tức nói về Bi & Trí của Quán Âm tính, Bi của Đại sĩ được Phổ Môn miêu tả rất rõ nét, còn Trí thì Bát-nhã Tâm kinh đã thuật kỹ. Trí tính ấy là nước pháp và đất pháp nuôi lớn tâm Bồ-đề, để khởi hành trên Bồ-tát thừa.
(2) Về biến thể Quán Âm Đại sĩ, theo bản Hán là 32 thân biến thể, bản Phạn chỉ có 16 thân biến thể.
(3) Kệ tụng Phổ môn, bản Phạn đặc biệt có 5 kệ tụng 29 -33, mà các bản Hán đều không có. Trong đây lưu ý tụng 12 của Phạn Bản, các bản Việt - Hán thường hiểu đại khái: "Trù ếm, các thuốc độc, muốn hại đến thân kia. Do sức niệm Quán-Âm, Trở hại nơi bổn-nhân", câu này nếu hiểu như vậy sẽ có những trắc trở, nên hiểu theo tụng 12 trong bản Phạn, thì mới thấy được hoạt dụng đại bi của Quán Âm.
(4) Nói về năng lực gia trì của Quán Âm Đại sĩ, đây không thể nói bâng quơ năm ba hàng, cho là linh ưng hay bất linh ứng, mà phải nói năng lực đó là "nan tư nghị", liên hệ đến phước - trí và tâm nguyện lễ bái hành trì, từ nơi bản lai pháp tính mà hoạt dụng phương tiện.
Ở đây, ghi thêm điểm chót, đọc Phổ Môn xong, kế tiếp đọc lại Tâm kinh, sẽ thấy bài kinh mở đầu bằng hình ảnh Đại sĩ Avalokiteśvara là đại diện cho Bi tính; khởi đầu bằng Bi tính - thể, Đại sĩ Avalokiteśvara quán chiếu Bát-nhã thâm sâu, quá trình tu tập ấy diễn ra một cách liên tục và thường trực, dẫn đạo thể nhập Không tính, đây là sự kết hợp đặc biệt và hài hòa về Bi - Trí, hình ảnh độc đáo mô tả quá trình tu tập cần thiết của bất cứ hành giả nào muốn chứng nhập Không tính hay Thực tính Bát-nhã.
Đọc Phổ Môn có hai cách:
-Hoặc đọc như một truyện cổ tích, đọc như nước chảy mây trôi.
- Hoặc đọc giữa hai hàng chữ, thấy lửa không phải là lửa vật lý mà là lửa phiền não, nước không không phải H20 mà là dòng ái lưu...
Đảnh lễ Pháp - Hóa thân Đại Sĩ Quan Âm.
Kính ghi,
Phước Nguyên (18/9/2562)
_________________________
CHƯƠNG 24
MÔ TẢ VỀ BỒ TÁT AVALOKITEŚVARA:
VỊ TOÀN DIỆN VÀ CÁC BIẾN THỂ
1.
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
"Bạch đức Thế Tôn, vì sao Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara[4] được gọi là Avalokiteśvara?”
2.
Sau câu hỏi ấy, đức Thế Tôn dạy Bồ Tát Đại sĩ Akshayamati:
“Này người con trai của gia đình hiện thiện! Trong tất cả hàng trăm ngàn, hàng trăm triệu, hàng trăm tỉ chúng sinh[5], mà có bất cứ chúng sinh nào hiện thời đang phải chịu đựng[6] những khổ nạn bất an, nếu họ nghe được danh hiệu của Bồ Tát Đại Sĩ Avalokiteśvara, thì tất cả họ được thoát ra khỏi[7] khối khổ nạn đó[8].
3.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Có bất cứ người nào trì niệm[9] danh hiệu Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara, nếu họ bị rơi vào[10] đống lửa lớn[11], thì bằng sức mạnh ánh sáng[12] của Bồ Tát Đại sĩ Avalokiteśvara mà họ sẽ thoát ra khỏi đống lửa lớn đó.
4.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Trong trường hợp, có chúng sinh nào bị cuốn trôi theo các dòng sông[13], nên khấn nguyện[14] Bồ Tát Đại sĩ Avalokiteśvara, thì tất cả các dòng sông ấy nhất định sẽ xuất hiện chỗ nước cạn[15].
5.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Trong trường hợp, có hàng trăm ngàn, hàng trăm triệu, hàng trăm tỉ chúng sinh đi tàu thuyền ra đại dương để tìm kiếm tài vật[16]: vàng, ma-ni, ngọc trai, kim cương, lưu y, xà cừ, đá quý, san hô, ngọc lục bảo, hổ phách, các viên ngọc trai, cùng các tài vật khác, và thuyền của họ bị chuyển động dữ dội[17], một cơn gió hắc ám[18] đã đẩy họ vào hòn đảo của rākṣasī[19] (nữ La-sát), mà nếu trên con thuyền đó dù chỉ có một chúng sinh khấn nguyện Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara, thì tất cả họ cũng đều sẽ thoát ra khỏi đảo của rākṣasī đó.
Vì những lý do đó, Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara được mệnh danh[20] là Avalokiteśvara.
6.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Thậm chí có bất cứ ai hiện phải bị đưa ra tử hình[21], nếu người đó khấn nguyện Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara, thì thanh gươm[22] của người hành hình[23] sẽ bị gãy thành từng đoạn[24].
7.
Lại nữa, này người con trai của gia đình hiền thiện! Giả sử, toàn bộ cả một tỷ thế giới này[25] có mặt đầy dẫy[26] các loài yakṣa (dạ-xoa)[27] và rākṣa (La-sát), nhờ sức mạnh danh hiệu của Bồ-tát Đại sĩ Quán Thế Âm được trì niệm mà chúng không còn dám nhìn người[28] bằng tâm tư xấu ác nữa[29].
8.
Thêm nữa, này người con trai của gia đình hiền thiện! Nếu có bất cứ chúng sinh nào bị giam hãm bằng những chiếc gông gỗ hay sắt [ở đầu], bị xiềng xích ở tay hoặc bị cùm chân, dù người đó có tội hay vô tội[30], nếu ngay khi đó mà danh hiệu của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara được trì niệm, thì những gông, cùm, xiềng xích đó đều sẽ nhanh chóng[31] trong tình trạng được tháo mở hoàn toàn[32].
Như thế, này người con trai của gia đình hiền thiện, đó là thần lực[33] của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara vậy.
9. Này người con trai của gia đình hiền thiện, giả sử toàn bộ một tỷ thế giới này, có mặt đầy dẫy những kẻ bất lương, oán địch và cường đạo tay cầm gươm đao cướp bóc, lại có người trưởng đoàn thương buôn cùng đoàn tùy tùng đang đi trên đường bằng những cổ xe to lớn sang trọng có chất nhiều châu báu; Nếu sau khi gặp phải những kẻ bất lương, oán địch và cường đạo tay cầm gươm đao đó, thì họ trở nên lo lắng và sợ hãi, khởi lên ý nghĩ bản thân hiện tại không có nơi trú ẩn[34]. Giả sử, lúc ấy người trưởng đoàn thương buôn nói với đoàn tùy tùng đang căng thẳng kia:
“Đừng hoảng sợ, này người con trai của gia đình hiền thiện, đừng khiếp đãm! Tất cả các ông, hãy bằng lời kêu cứu mà khấn nguyện Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara - vị ban cho sự an ninh[35], thì các ông sẽ thoát khỏi mối nguy hiểm từ sự đe dọa của giặc cướp và kẻ thù.”
Rồi thì, lúc bấy giờ, đoàn tùy tùng với một lời kêu cứu mà khấn nguyện nguyện ngài Avolokiteśvara, với nội dung: “Xin Quy kỉnh! Xin đảnh lễ Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara là đấng ban cho sự an ninh”[36]. Ngay khi đó, chỉ nhờ hành động trì niệm danh hiệu ấy mà đoàn tùy tùng sẽ giải thoát được tất cả mọi nguy hiểm.
Như vậy, này người con trai của gia đình hiền thiện, đó là thần lực của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara vậy.
10.
Này người con trai của gia đình hiền thiện, trong trường hợp, có chúng sinh nào hành động dưới sự thúc đẩy của tham đắm[37], sau khi tôn kính Bồ-tát đại sĩ Avalokiteśvara, nhất định họ sẽ đi ra khỏi tham đắm.
Hay chúng sinh nào hành động dưới sự thúc đẩy của sân hận[38], sau khi tôn kính Bồ-tát đại sĩ Avalokiteśvara, nhất định họ sẽ đi ra khỏi sân hận.
Còn chúng sinh nào hành động dưới sự thúc đẩy của si mê[39], sau khi tôn kính Bồ-tát đại sĩ Avalokiteśvara, nhất định họ sẽ đi ra khỏi si mê.
Như vậy, này người con trai của gia đình hiền thiện, đó là do sức mạnh tâm linh vĩ đại[40] của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara.
11.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Nếu người đàn bà nào thực hành sự tôn kính với Bồ-tát Đại sĩ Avolokiteśvara, mà ước muốn có con trai, thì nàng sẽ có được con trai tử tế, khôn ngoan, tề chỉnh; thành tựu các đặc điểm của một bé trai, thường được mọi người quấn quýnh yêu thương và chìu chuộng, [bé trai đó] là người đã vun trồng gốc rễ lành thiện.
Này người con trai của gia đình hiền thiện. Nếu người đàn bà ấy, ước muốn có con gái, thì cô ta sẽ có được con gái đoan chính, khôn ngoan, dễ thương; thành tựu sự hoàn hảo cao nhất của hình dáng kiều diễm[41] và thành tựu các đặc điểm [tốt] của một bé trai, thường được mọi người quấn quýnh yêu thương và chìu chuộng, [bé gái đó] là người đã vun trồng gốc rễ lành thiện.
Như vậy, này người con trai của gia đình hiền thiện, đó là sức mạnh siêu việt của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara.
12.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Những ai thực hành sự tôn kính Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara và hành trì danh hiệu của vị ấy, thì nhất định sẽ nhận được kết quả ích lợi không bao giờ cạn.
13.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Giả sử, có ai thực hành sự tôn kính Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara và hành trì danh hiệu của ngài; Lại có một người khác, tôn kính chư Phật Thế Tôn có số lượng bằng gấp sáu mươi hai lần số hạt cát sông Gaṅgā, hành trì danh hiệu của các vị ấy; và phụng sự rất nhiều chư Phật Thế Tôn trong suốt thời gian các ngài lưu trú, hiện hữu và duy trì đời sống, bằng cách hiến cúng những vật dụng như: y phục, bình bát, giường ghế và thuốc men chữa bệnh, ông nghĩ sao, sự tích lũy phước báu[42] mà người con trai hay con gái của gia đình hiền thiện đó, tạo ra được bởi nhân tố ấy là bao nhiêu?
Sau câu hỏi ấy, Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir thưa lên đức Thế Tôn: “Rất nhiều, bạch Thế Tôn! Quả thật quá nhiều, bạch đức Thiện Thệ! Sự tích lũy phước báu của người con trai hay người con gái của gia đình hiền thiện ấy, đã tạo ra thông qua nhân tố ấy là rất nhiều.”
Đức Thế Tôn dạy tiếp:
“Này người con trai của gia đình hiền thiện! Xét thấy, sự tích lũy phước báu của hai người đó, thông qua việc tôn kính chư Phật Thế Tôn và sự tích lũy phước báu của một người dù chỉ một lần thực hành sự tôn kính Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara và trì niệm danh hiệu của ngài, [cả hai] đều bằng nhau.”
Có ai tôn kính Chư Phật Thế Tôn có số lượng bằng gấp sáu mươi hai lần số hạt cát sông Gaṅgā, hành trì danh hiệu của các vị ấy, và có người nào khác thực hành sự tôn kính Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara và trì niệm danh hiệu của ngài. Họ có sự tích lũy công đức bằng nhau; cả hai khối phước đức ấy không dễ gì hủy hoại dù [trải qua] trong hàng trăm ngàn, hàng trăm triệu, hàng trăm tỉ kiếp.
Vì vậy, này người con trai của gia đình hiền thiện, phước đức của việc hành trì danh hiệu Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara, rất là mênh mông[43].
14.
Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir bạch đức Thế Tôn:
“Vị Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara du hành[44] trong thế giới Sa-bà này ra sao?[45] Diễn thuyết giáo pháp cho hữu tình như thế nào?[46] Và những phương tiện thiện xảo mà Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara sử dụng có phạm vi thế nào?”
Sau câu hỏi đó, Đức Thế Tôn đã trả lời cho Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir:
“1.Này người con trai của gia đinh hiền thiện! Trong khá nhiều thế giới, Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara diễn thuyết Pháp yếu cho các chúng sinh bằng cách biến thể dưới hình thái Phật-đà.
2. Đối với một số thế giới khác, vị ấy[47] diễn thuyết pháp yếu cho chúng sinh bằng cách biến thể dưới hình dạng Bồ-tát;
3. Trong trường hợp khác, vị ấy diễn thuyết pháp yếu cho chúng sinh bằng cách biến thể dưới hình dạng Bích-chi Phật;
4. Đối với một số chúng sinh, ngài diễn thuyết pháp yếu bằng cách biến thể dưới hình dạng Thanh văn;
5. Hoặc vị ấy diễn thuyết pháp yếu cho các chúng sinh bằng sự biến thể dưới hình dạng Phạm thiên;
6. Đối với một số chúng sinh ngài biến thể hình dạng đế Thích để diễn thuyết pháp yếu;
7. Hoặc ngài lại biến thể hình dạng Càn-thác-bà để diễn thuyết pháp yếu cho một số chúng sinh khác;
8. Hoặc đối với những chúng sinh cần được hóa độ bởi Dạ-xoa, ngài liền biến thể hình dạng Dạ-xoa để diễn thuyết pháp yếu;
9. Chúng sinh nào cần được hóa độ bởi Tự tại thiên, ngài biến thể hình dạng Tự tại thiên để diễn thuyết pháp yếu;
10. Hoặc đối với chúng sinh khác, cần được hóa độ bởi Đại Tự tại thiên, ngài liền biến thể hình dạng Đại Tự tại thiên để diễn thuyết pháp yếu;
11. Hoặc chúng sinh nào, cần được hóa độ bởi Chuyển luân vương, vị ấy biến thể hình dạng Chuyển luân vương mà diễn thuyết pháp yếu;
12. Đối với những chúng sinh nào cần được hóa độ bởi Tiểu Quỷ, vị ấy liền biến thể hình dạng Tiểu quỷ để diễn thuyết pháp yếu;
13. Hoặc có chúng sinh nào, cần được hóa độ bởi Đa văn Sa-môn, vị ấy biến thể hình dạng Đa văn Thiên vương mà diễn thuyết pháp yếu;
14. Lại có chúng sinh nào, cần được giáo hóa bởi Đại Tướng Quân, ngài liền biến thể hiện thân Đại Tướng Quân để dễ thuyết pháp yếu;
15. Hay chúng sinh nào cần giáo hóa bởi Bà-la-môn, ngài liền biến thể hình dạng Bà-la-môn mà diễn thuyết pháp yếu;
16. Và chúng sinh nào cần hóa độ bởi Kim cương thủ, Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara liền biến thể hình dạng Kim cương cương thủ mà diễn thuyết pháp yếu.
Này người con trai của gia đình hiền thiện, Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara thành tựu phẩm tính không thể nghĩ bàn như thế. Cho nên, này người con trai của gia đình hiền thiện, hãy tôn kính hiến cúng Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara.
Này người con trai của gia đình hiền thiện, Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara ban sự an ninh cho những chúng sinh đang lo sợ. Vì những lý do đó, mà ngài được thiết lập[48] danh hiệu Abhayaṃdada [người ban sự an ninh] trong Thế giới Sa-bà.
15.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir thưa với đức Thế Tôn: “Bạch đức Thế Tôn! Bây giờ chúng con muốn hiến cúng đức Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara một phẩm vật của Pháp[49], khôi giáp của Pháp[50] có thích hợp chăng?”
Thế Tôn trả lời: “Này người con trai của gia đình hiền thiện! Nếu ông nghĩ điều đó là hợp thời thì hãy cứ làm như thế”.
Lúc ấy, Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir từ cổ mình cởi xâu chuỗi trân bảo Anh lạc[51], trị giá trăm nghìn lượng [vàng miếng], và dâng lên Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara như là khôi giáp của Pháp, với những lời: “Hỡi bậc Thiện sĩ! Xin ngài hãy nhận lấy từ tôi chiếc khôi giáp của Pháp này”. Nhưng vị ấy không nhận lấy nó.
Rồi thì, Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir nói với Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara: “Hỡi bậc Thiện sĩ! Từ lòng bi mẫn đối với chúng tôi, hãy nhận lấy chuỗi trân bảo anh lạc này.” Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara nhận lấy chuỗi trân bảo anh lạc từ Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir, do bởi lòng bi mẫn đối với Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir, từ lòng bi mẫn đối với bốn chúng, và từ lòng bi mẫn đối với chư Thiên, rắn thần, dạ-xoa, càn-thác-bà, a-tu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân loại và phi nhân loại.
Sau đó, vị ấy chia [xâu chuỗi] thành hai phần: một hiến cúng lên đức Thế Tôn Śākyamui và phần thứ hai là ngọc báu Stūpa hiến cúng lên đức Thế Tôn Prabhūtaratna, là bậc Như Lai, Chánh đẳng giác, vị đã tịch diệt hoàn toàn.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara du hóa trong thế giới Sa-ha này với một năng lực biến thể như vậy.
16.
Và vì những lý do đó mà đức Thế Tôn đã cảm hứng những bài chỉnh cú này:
17.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Dharaṇiṃdhara từ chỗ ngồi đứng lên, vắt thượng y qua một bên vai, đầu gối chân phải quỳ sát đất, chắp hai tay lại, hướng về đức Thế Tôn mà bạch rằng: “Những người đang nghe chương này, [tức] Pháp thoại về Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara và thần lực biến thể của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara thì phải biết họ đã thành tựu không ít thiện căn”.
18.
Khi đức Thế Tôn đã thuyết giảng hoàn tất chương mô tả về sự toàn diện này, tám vạn bốn ngàn người hiện hữu trong chúng hội đó phát khởi tâm vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà không gì có thể so sánh được.
[1] Skt. akṣayamatir, Tib. blo gros mi zad pa [Lhasa:T-260a2], Lt. 無盡意 vô tận ý, có lẽ nên dịch là 無盡慧vô tận tuệ, vì “mati” có nghiã ‘tuệ’ nhiều hơn là ‘trí’, nên tiếng Anh dịch là: inexhaustible understanding (trí tuệ vô tận).
[2] Skt. uttara-āsaṅgam, Tib. bla gos, Hán: 鬱多羅僧 uất-đa-la-tăng, dịch là thượng y: áo trên.
[3] Bản tiếng Pháp thêm: “et posé à terre le genou droit”: đầu gối chân phải quỳ xuống sát đất.
[4] Tib. spyan ras gzigs kyi dbaṅ phyug. Lt. 觀世音 Quán thế âm.
[5] Skt. sattvakoṭīnayutaśatasahasrāṇi. Tib. sems can bye ba khrag khrig brgya stoṅ (Xem cht. 27, 28, 29, Giới thiệu nguồn gốc A-di-đà, tr. 267-268)
[6] Pratyuanubhavanti: pratī (hướng đến) + anubhavanti: hiện tại đang phải chịu, trải qua. Tib. myoṅ bar gyur pa. Lt. 受 thọ.
[7] Parimucyeran, do Parimuc: tự do, cởi trói, thoát ra từ…Tib. thar bar, Lt. 解脱 giải thoát
[8] duḥkhaskandhā: khối khổ đau, skandhā: đống, khối, một tụ. Tib. sdug bsṅal gyi.
[9] dhārayiṣyanti: động từ vị lai, ngôi thứ 3, số ít, do động từ: √dhṛ: giữ gìn, nên chữ này dịch sát phải là: duy trì hay bảo tồn, tức làm cho danh hiệu ngài luôn xuất hiện trong tâm trí. Tib. dzin-ba.
[10] prapateyuḥ: rơi xuống, xa chân xuống. Tib. lhuṅ naḥaṅ
[11] Mahatyagniskandhe: đống lửa to lớn, cũng có thể hiểu là hầm lửa lớn. Tib. meḥi phuṅ po chen por.
[12] Tejasā: năng lực ánh sáng, rực rỡ, cũng hiểu là oai thần hay thần lực. Tib. gzi brjid kyis.
[13] Nadībhir-uhyamānā: Nadībhir (dòng nước, dòng chảy của sông, Tib. cu kluṅ dag gis); uhyamānā: cuốn trôi, Tib. khyer la. Lt. 大水所漂 nước lớn cuốn trôi.
[14] Skt. ākrandaṃ kuryuḥ, Tib. bos na, kêu cứu, cầu cứu đến, than khóc với, sự thỉnh cầu… Lt. 稱, xưng.
[15] gādhaṃ: chỗ nông có thể lội qua được, không sâu, chỗ cạn. Tib. gtiṅ tshugs par.
[16] Về tiếng Skt. và cách dịch của từ châu báu này, xem Cht. 32, giới thiệu nguồn gốc A-di-đà, tr. 250-251.
[17] nidhīnāṃ: chấn động, bị dịch chuyển, Tib. doṅ ba de rnams.
[18] kālikā-vātena: gió tối tăm, gió màu đen. Lt. 黒風 hắc phong. Tib. rluṅ nag pos
[19] Tib. srin moḥi, loài ác quỷ trong văn học Ấn độ, ăn thịt hoặc hút máu người.
[20] saṃjñāyate: mệnh danh, gọi là, được gắn cho, thiết lập, tib. btags so
[21] vadhya-utsṛṣṭa: Vadhya: án tử hình, kết án tử hình, sự trừng phạt giết chết + utsṛṣṭa: bị đưa ra, bị dẫn đến, hiện đang phải chịu. Tib. bsad par bkri ba las.
[22] śastrāṇi: nghĩa đen là chỉ cho đao, kiếm, nhưng cũng chỉ cho các vũ khí, công cụ hành hình, có sức bén nhọn, hay có khả năng cắt chặt. Tib. mtshon.
[23] Vadhya-ghātakānāṃ: người hành quyết, đao phủ, người hành án. Tib. gśed ma
[24] Vikīryeran: tách lìa thành từng đoạn, Kern: shall snap asunder. Tib. de dag dum bu dum bur chag ciṅ grugs par ḥgyur ro.
[25] trisāhasramahāsāhasro lokadhātur, Lt. 三千大千國土Tam thiên đại thiên quốc độ, Tib. stoṅ gsum gyi stoṅ chen poḥi ḥjig rten gyi khams (Xem Giới thiệu, Cht. 62, tr. 273).
[26] paripūrṇo bhavet, Tib. gaṅ bar gyur kyaṅ, Lt. 滿 mãn.
[27] Yakṣa, dạ-xoa: một trong tám bộ chúng, hoặc đôi khi cũng chỉ các vị thần có oai lực lớn. cf. Trường A-hàm 12, Tì-bà-sa 31.
[28] draṣṭumapyaśaktāḥsyuḥ: draṣṭum, nhìn; apyaśaktāḥsyuḥ: không dám. Tib. ltaḥaṅ mi phod do.
[29] Skt. duṣṭacittā, Tib. sdaṅ baḥi sems kyis, tâm hận thù, tâm phẫn nộ. Lt. thêm: 況復加害: huống nữa làm tổn hại…
[30] Aparādhy-anaparādhī, Tib. ñes yod kyaṅ ruṅ ñes med kyaṅ ruṅ na. Tib. 若有罪若無罪 nhược hữu tội nhược vô tội.
[31] kṣipraṃ: tức thời, mau chóng, lập tức. Tib. bcug pa dag gi.
[32] vivaramanuprayacchanti, Tib. bu ga bye bar ḥgyur ro. Lt. 皆悉斷壞 đều bị hư hỏng.
[33] prabhāvaḥ: ức đức, ánh sáng, thế lực, bản Tib. mthu ni: hiệu lực/ sức mạnh, bản Nhật đọc là: uy lực 威力 (これが観世音菩薩の威力なのだ). Bản Pháp: la puissance – quyền năng, uy lực (Car telle est,… la puissance du Bôdhisattva Mahâsattva Avalôkitêçvara); Bản Anh, Kern đọc là: power.
[34] aśaraṇam ātmānaṃ, Tib. bdag cag skyabs med par. Chữ śaraṇam: cứu hộ, trú ẩn, bản Tib. skyabs med par: hiện tại không có nơi trú ẩn. bản tiếng Nhật đọc là 頼る nơi nương tựa, do hiểu là quy y (自分には何も頼るものがないと思うかもしれない). Bản Anh: helpless-nơi nương tựa. Bản Pháp: resource – chỗ trong cậy (il se reconnût sans resource). Bản Hán không có chi tiết này.
[35] abhayaṃdadam, bản Lt. 施無畏者 Thí vô úy giả. Tib. mi ḥjigs pa sbyin pa: người ban cho sự không sợ; Bản Pháp: người mang đến sự an ninh - qui donne la sécurité. Người ban tặng sự an toàn-the giver of safety. Abhayaṃ: An toàn, an ninh, trú ẩn, nương náu, không sợ hãi.
[36] Namo namas tasmā abhayaṃdadāya avalokiteśvarāya bodhisattvāya mahāsattvāya. Tib. ḥjigs pa med paḥi sbyin pa byaṅ chub sems dpaḥ sems dpaḥ chen po spyan ras gzigs dbaṅ phyug de la phyag ḥtshal lo.
[37] rāgacaritāḥ, tib. ḥdod chags spyod pa, Lt. 多於婬欲 đa ư tham dục.
[38] Skt. dveṣa-caritāḥ, Tib. she sdaṅ spyod pa, Lt. 若多瞋恚
[39] Skt. mohacaritāḥ, Tib. gti mug spyod pa, Lt. 若多愚癡
[40] Maha-rddhikaḥ, rddhi sức mạnh hay năng lực tâm linh, Hán thường dịch là thần thông.
[41] Bản Anh và Hán không dịch câu này, bản tiếng Pháp dịch: douée de la perfection suprême d’une belle forme.
[42] puṇyābhisaṃskāraṃ: hiện hành phước báu, abhisaṃskāra: hoạt động, hay sự dồn chứa, tích lũy lại thành một khối.
[43] aprameyaṃ: bao la, vô hạn.
[44] Pravicarati: du hành, dạo đi, đến đi, lui tới.
[45] ….sahāyāṃ lokadhātau pravicarati?
[46] kathaṃ sattvānāṃ dharmaṃ deśayati?
[47] Trong các biến thể hình thái của Đại sĩ ở đây, trong bản Skt. đều dùng đầy đủ danh hiệu ‘Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara’. Trong bản dịch này, để gọn văn chúng tôi thay bằng từ ‘vị ấy’/ ngài.
[48] saṃjñāyate
[49] Dharma-prābhṛtaṃ: món quà Pháp, tặng phẩm của Pháp. Kern dịch là: gift of piety món quà của lòng thành kính.
[50] Dharmācchādam: chiếc áo giáp của Pháp, áo Pháp. Kern: a decoration of piety: sự trang hoàng của pháp.
[51] Muktāhāram: anh lạc.
[52] Hán thường dịch: 莊嚴幢 Trang Nghiêm tràng.
______________________
THƯ MỤC VĂN BẢN:
- PHẠN BẢN:
Vaidya p. 250,1 (250,1)24: samantamukhaparivartaḥ ||
- HÁN BẢN:
T.263, Dharmarakṣa 竺法護, 286 A.D., p. 63a6 .
T.262, Kumārajīva 鳩摩羅什, 405 A.D., p. . 1100 A.D.? Kj mdo sde ja 16a7.
ANH BẢN: Kern 1884.