KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Giảng Giải: Hoà Thượng Tuyên Hoá
Hán dịch: Ngài Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Định
Phẩm bổn sự của Bồ Tát vua Diệu Trang
Nghiêm thứ hai mươi bảy
Rất lâu xa về trước, vua Diệu Trang
Nghiêm là một Tỳ Kheo tu đạo, ngoài ra còn có ba vị Tỳ Kheo
khác, phát tâm tu đạo ở trong rừng sâu. Vì chẳng có người cúng dường, vì đời
sống ưu lự nên ảnh hưởng đến sự tu hành. Trong đó có một Tỳ Kheo (tiền thân của
vua Diệu Trang
Nghiêm), phát tâm cúng dường ba vị Tỳ Kheo, khiến cho họ an tâm
tu đạo, chẳng vì cơm áo chỗ ở mà phân tâm. Do đó, quyết định hoàn tục để đi làm
việc kiếm tiền, để cúng dường ẩm thực, quần áo, thuốc thang, ngọa cụ, các thứ
đồ cần dùng hằng ngày, cho ba vị Tỳ Kheo đó.
Một ngày nọ, Ngài làm việc ở gần cung vua, thấy ông vua đi du tuần rất là oai
phong, trước sau có hộ vệ rất là oai võ. Tâm bèn sinh vọng tưởng : ‘’Kiếp sau
ta mà làm vua thì rất là oai phong, ai ai cũng đều cung kính ta ! Lúc đó, ta sẽ
cúng dường tất cả các vị Tỳ Kheo.’’ Một niệm đó sinh ra, quả nhiên đời sau làm
vua Diệu Trang
Nghiêm, nhưng quên mất lời nguyện làm hộ pháp.
Sau đó, ba vị Tỳ Kheo đều chứng quả Thánh, dùng pháp nhãn quán
sát nhân duyên hộ pháp, thì biết được vị này là người hộ pháp, do công đức xưa
kia mà tái sinh làm vua. Ông vua đó có tâm từ bi thương dân như con. Song, tin
về tà giáo, trong tâm có tà tri tà kiến. Ba vị Thánh nhân muốn báo ân hộ pháp
xưa kia, nên mới bày cách cứu ông ta ra khỏi biển khổ, mới cùng nhau tìm cách
giải cứu. Một vị phát nguyện làm vợ của ông ta (Tịnh Đức phu nhân), hai vị kia
phát tâm làm con của ông ta (Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn). Tại sao ? Vì phải nhờ vợ và
con có hiếu, dùng cảm tình để làm sức ảnh hưởng, mới làm thay đổi được tư tưởng
tà tri tà kiến tin ngoại đạo của ông vua.
Phẩm này thuật lại vua Diệu Trang
Nghiêm, nhờ sự cảm hóa của hai người con Tịnh Tạng và Tịnh
Nhãn (Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng), khai mở tri kiến của Phật, đắc
được pháp ích, sau đó theo Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí xuất gia tu đạo, mà chứng được A nậu đa la tam miệu
tam bồ đề.
Bấy giờ, đức Phật bảo các đại chúng rằng : Về đời xa xưa, trải qua vô lượng
vô biên A tăng kỳ kiếp không thể nghĩ bàn, có vị Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí Như Lai, ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Cõi nước tên
là Quang Minh Trang
Nghiêm, kiếp tên là Hỷ Kiến. Ở trong Phật pháp đó, có vị vua
tên là Diệu Trang
Nghiêm, phu nhân tên là Tịnh Đức, có hai người con, một tên là
Tịnh Tạng, hai tên là Tịnh Nhãn.
Sau khi nói xong Phẩm Đà La Ni,
thì lúc đó Đức Phật bảo đại chúng trong hội Pháp Hoa rằng : Vào thuở xa xưa
trong quá khứ, trải qua vô lượng vô biên số kiếp A tăng kỳ không thể nghĩ bàn. Lúc
đó, có vị Phật ra đời danh hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí Như Lai. Thừa đạo như thật, lai thành chánh giác. ứng
Cúng, xứng đáng thọ chúng sinh trong chín pháp giới cúng dường. Chín pháp giới
là gì ? Tức là pháp giới của Bồ Tát, pháp giới của Duyên Giác, pháp giới của
Thanh Văn, pháp giới của trời, pháp giới của loài người, pháp giới của A tu la,
pháp giới của súc sinh, pháp giới của ngạ quỷ, pháp giới của địa ngục.
Mỗi vị Phật đều có mười danh hiệu. Đó là Như Lai, ứng Cúng, Chánh Biến Tri,
Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhân Sư, Phật, có đủ mười danh hiệu này, mới đủ tư cách xưng là Thế Tôn,
tức là Thánh nhân tôn quý nhất của thế và xuất thế.
Vào thời Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí, có một cõi nước tên là Quang Minh Trang
Nghiêm, kiếp tên là Hỷ Kiến. Ở trong Phật pháp đó, có một ông vua
tên là Vua Diệu Trang
Nghiêm. Phu nhân của vua tên là Tịnh Đức phu nhân. Ông vua có
hai người con, một tên là Tịnh Tạng, hai tên là Tịnh Nhãn. Tiền thân của bốn
người này, trong quá khứ là bốn vị Tỳ Kheo cùng tu với nhau ở trong rừng sâu.
Hai người con đó, có đại thần lực phước đức trí huệ, từ lâu đã tu hành Bồ Tát
đạo, đó là đàn Ba la mật, Thi la Ba
la mật, Sàn đề Ba la mật, Tỳ ly gia Ba la mật, thiền Ba la mật, Bát nhã Ba la
mật, phương tiện Ba la mật, từ bi hỉ xả, cho đến ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo,
đều thấu suốt thông đạt.
Hai người con của Diệu Trang
Nghiêm là Tịnh Tạng (Bồ Tát Dược Vương) và Tịnh Nhãn (Bồ Tát Dược
Thượng), đều có sức đại thần thông, có thể hiện mười tám biến. Phước đức trí huệ
đầy đủ, từ lâu đã tu đạo Bồ Tát, tức cũng là pháp môn mười Ba la mật. Ba la mật
là gì ? Dịch là đến bờ kia. Tập quán của Ấn Độ là phàm làm việc gì xong đều là
Ba la mật. Nay lược giải mười Ba la mật như sau :
1). Đàn Ba la mật: Đàn dịch là bố thí. Bố thí có ba: a. Tài
thí.
b. Pháp thí.
c. Vô úy thí.
2). Thi la Ba la
mật : Thi là dịch là giới. Giới là mẹ thành Phật. Phạm giới giống như chiếc
thuyền ở giữa biển, phát hiện đáy thuyền có lỗ lủng. Nếu lập tức tu sửa, thì
còn có thể khỏi nguy hiểm. Bằng không thì thuyền sẽ chìm, người sẽ chết, hối hận
đã quá muộn. Tu bổ như thế nào? Tức là làm nhiều công đức, có tiền thì bố thí
tiền, có sức thì bố thí sức, ủng hộ đạo tràng, do đó có câu: ‘’Lập công chuộc
tội’’.
3). Sàn đề Ba la mật : Sàn đề dịch là nhẫn nhục. Việc không
nhẫn được cũng phải nhẫn, không thể chịu đựng được cũng phải chịu, đó là thuốc
hay tiêu trừ tội chướng. Tóm lại, khi nóng giận thì nên nhẫn nhịn, đừng bạo
phát, vì ‘’Nhẫn thì an ổn’’.
4). Tỳ ly gia Ba la mật : Tỳ ly gia dịch là tinh tấn. Người
học Phật pháp nhất định phải tinh tấn. Thân tinh tấn, tâm tinh tấn, ngày tinh tấn,
đêm tinh tấn. Tóm lại, dũng mãnh tinh tấn cũng như thuyền đi ngược dòng, không
tiến thì lùi.
5). Thiền Ba la mật: Thiền dịch là tĩnh lự, làm lắng đọng
tư tưởng, tức cũng là ngưng vọng tưởng. Tu đến cảnh giới như như bất động, thì
mới đắc được liễu liễu thường minh. Lúc đó sẽ nhậm vận tự tại, tùy theo ý muốn,
chẳng bị gì hạn chế, đó tức là ‘’Thần thông diệu dụng’’.
6). Bát nhã Ba la mật: Bát nhã dịch là trí huệ. Vì Bát nhã
gồm có ba nghĩa, cho nên không dịch.
A. Văn tự Bát nhã : Tức là tất cả kinh điển.
B. Quán chiếu Bát nhã : Tức là dùng văn tự để quán chiếu tất cả cảnh giới, mới thấu
hiểu được chân thật nghĩa.
C. Thật tướng Bát nhã : Từ văn tự Bát nhã mà phát khởi quán chiếu Bát nhã; từ quán
chiếu Bát nhã mà khế hợp với thật tướng Bát nhã. Ba điều này đều có mối quan hệ
vơi nhau.
7). Phương tiện Ba la mật.
8). Nguyện Ba la mật.
9). Lực Ba la mật.
10). Trí Ba la mật.
Bốn Ba la mật này, đều do Bát nhã phân ra, hợp làm mười pháp môn Ba la mật, đây
là hạnh môn của Bồ Tát tu.
Tu đạo của Bồ Tát thực hành, chẳng những có bốn tâm vô lượng từ bi hỷ xả, mà
còn phải tu bố thí, ái ngữ, lợi hành, và đồng sự, bốn pháp nhiếp, mới là hành
Bồ Tát đạo.
Bốn tâm vô lượng là gì ? Tức là :
1). Từ : Khiến cho tất cả chúng sinh được an vui.
2). Bi : Cứu tất cả khổ nạn của hết thảy chúng sinh.
3). Hỷ : Tức là hoan hỉ, hoan hỉ người ta có được chuyện vui.
4). Xả : Tức là bố thí. Bố thí vật mà người ta cần.
Bốn pháp nhiếp là gì ? Tức là :
1). Bố thí : Người thích tiền tài thì bố thí tiền tài, người thích pháp thì bố
thí pháp.
2). Ái ngữ : Dùng lời diệu dàng thân thiết để an ủi họ.
3). Lợi hành : Khởi thân khẩu ý hành lợi ích chúng sinh.
4). Đồng sự : Cùng làm việc với họ, khiến cho họ có tâm hướng thiện. Phối hợp bốn
pháp nhiếp và bốn tâm vô lượng mới là hành Bồ Tát đạo.
Lại phải tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tức là:
Bốn niệm xứ
Bốn chánh cần
Bốn như ý túc
Năm căn,
Năm lực
Bảy bồ đề phần
Tám chánh đạo.
Cộng lại là ba mươi bảy phẩm. Đây là chánh đạo của pháp tiểu thừa, ở trong đại thừa
là pháp trợ đạo, tại Phật thừa cũng chẳng phải là chánh đạo, cũng chẳng phải là
trợ đạo; ngược lại cũng là chánh đạo, cũng là trợ đạo. Vì Phật thừa là viên
giáo, tức là giáo lý viên dung vô ngại, do đó có câu:
‘’Viên mãn bồ đề, quy vô sở đắc’’.
Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, là hai vị Bồ Tát đều thấu suốt thông đạt mười pháp Ba
la mật, bốn tâm vô lượng, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, chẳng có gì chướng ngại.
Lại đắc được các tịnh tam muội của Bồ Tát, đó là tam muội nhật tinh tú, tam muội
tịnh quang, tam muội tịnh sắc, tam muội tịnh chiếu minh, tam muội trường trang
nghiêm, tam muội đại oai đức tạng. Nơi các tam muội này, cũng đều thông đạt.
Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, hai vị Bồ Tát lại chứng được các thứ tam muội của Bồ
Tát. Tam muội dịch là chánh định chánh thọ.
1). Tịnh tam muội : Tức là viên tịnh ba cấu. Ba cấu là gì ? Tức là tham, sân,
si, hoặc là kiến tư hoặc, trần sa hoặc, vô minh hoặc. Làm cho ba cấu bẩn này
đều thanh tịnh.
2). Tam muội nhật tinh tú : Nhật (mặt trời) ví như thật trí, tinh (ngôi sao) ví
như quyền trí, quyền thật không hai, nên gọi là tam muội nhật tinh tú.
3). Tam muội tịnh quang : Bổn tính thanh tịnh, thì hiện ra vô lượng quang minh.
4). Tam muội tịnh sắc : Bổn thân thanh tịnh thì hiện tất cả màu sắc.
5). Tam muội tịnh quang minh : Tịnh là thể của tam muội, chiếu sáng là dụng của
tam muội; tức cũng là tự tánh thanh tịnh, chiếu soi tất cả.
6). Tam muội trường quang minh : Dùng sự trang nghiêm của Phật, mà tự trang
nghiêm tam muội.
7). Tam muội đại oai đức tạng : Đại oai phục chúng, đại đức lợi sinh, tức cũng
là oai đức của thập lực. Hai vị Bồ Tát này, đều hoàn toàn thông đạt bảy thứ tam
muội này.
Bấy giờ, đức Phật đó muốn dẫn dắt vua Diệu Trang
Nghiêm, và thương xót chúng sinh, mà nói Kinh Pháp Hoa này.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí, muốn dẫn dắt Vua Diệu Trang
Nghiêm vào Phật trí, và vì thương xót tất cả chúng sinh, cho
nên giảng giải chân thật nghĩa của Kinh Pháp Hoa. Kinh này là kinh điển thành
Phật, nên xưng là vua trong các kinh.
Lúc đó, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn hai người con đến chỗ người mẹ, chắp tay lại bạch
rằng : Xin mẹ hãy đi đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần gũi cúng dường lễ bái.
Tại sao ? Vì đức Phật đó, đang ở trong tất cả đại chúng trời người, nói Kinh
Pháp Hoa, chúng ta nên đến đó để nghe.
Lúc đó, hai vị Bồ Tát Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn đến chỗ người mẹ (Tịnh Đức phu nhân),
chắp tay lại thưa với mẹ rằng : ‘’Chúng con xin thỉnh mẹ đi đến đạo tràng của
Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí, để nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Chúng con sẽ hầu theo
mẹ cùng nhau đi đến chỗ Phật để gần gũi, cúng dường, lễ bái vị Phật đó. Tại sao
? Vì vị Phật đó bây giờ đang ở trong đại chúng trời người, diễn nói Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, cơ hội khó gặp, chúng ta nên đi nghe, không thể bỏ qua cơ hội
thành Phật.’’
Người mẹ bảo các người con rằng : Cha của các con tin sâu pháp ngoại đạo Bà
la môn. Các con nên đến thưa với cha, để chúng ta cùng đi với nhau.
Tịnh Đức phu nhân nói với hai người con : Cha của các con chẳng tin Phật pháp,
mà tin tà pháp trường sinh bất lão, xuất huyễn nhập hóa, tin sâu chấp trước
pháp Ba la môn. Các con nên đến chỗ cha nói rõ tin tức này, để chúng ta cùng đi
đến chốn Phật nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.’’
Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay lại thưa với người mẹ rằng : Chúng con là con của
đấng Pháp Vương, mà sinh vào nhà tà kiến này.
Hai vị vương tử Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn bèn chắp tay lại, nói với người mẹ rằng
: ‘’Chúng con thuở xưa tu Bồ Tát đạo, đã là con của đấng Pháp Vương, nhưng lại bất
hạnh, sinh vào nhà tà kiến này, chúng con phải sửa đổi trở thành nhà chánh
kiến.’’
Người mẹ bảo các người con rằng : Các con nên thương nghĩ đến cha của các
con, mà hiện thần thông biến hóa. Nếu cha của các con mà thấy được, thì chắc
tâm sẽ thanh tịnh, hoặc nghe lời của chúng ta, mà cùng nhau đi đến chỗ đức
Phật.
Tịnh Đức phu nhân lại nói với hai người con rằng : ‘’Các con nên có tâm hiếu thuận,
thương nghĩ đến cha của các con, trong quá khứ ông ta là hộ pháp của các con. Bây
giờ các con đến độ ông ta thành Phật, ông ta mê tín ngoại đạo, chẳng chịu tin
chánh đạo. Các con nên vì ông ta mà hiện các thứ thần thông biến hóa, nếu ông
ta thấy được chắc tâm của ông ta sẽ thanh tịnh, sẽ giác ngộ hoặc sẽ nghe tin
lời của chúng ta nói, và cùng nhau đi đến chốn Phật, nghe Đức Phật Vân Lôi Âm
Tú Vương Hoa Trí
diễn nói Kinh Pháp Hoa.’’
Lúc đó, hai người con vì thương nghĩ đến người cha, mà vọt lên hư không cao khoảng
bảy cây đa la, hiện các thứ thần thông biến hóa. Ở trong hư không đi đứng nằm ngồi,
trên thân ra nước, dưới thân ra lửa; dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc
hiện thân lớn đầy khắp hư không, rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, biến mất
trong hư không, hốt nhiên ở dưới đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi
trên đất. Hiện các thứ thần thông biến hóa như thế, khiến cho vua cha tâm được
thanh tịnh tin hiểu.
Hai người con của vua Diệu Trang
Nghiêm vì nghĩ nhớ đến người cha, muốn độ cho cha cải tà quy chánh,
mới đến chỗ người cha vọt thân lên hư không, cao khoảng bảy cây đa la (khoảng
bốn mươi chín trượng), hiện ra đủ thứ thần thông biến hóa. Ở trong hư không đi
đứng nằm ngồi rất tự tại. Trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, hoặc dưới thân
ra nước, trên thân ra lửa. Nước lửa cùng nhau hòa hợp, chẳng có xung đột. Hoặc
hiện ra thân lớn đầy khắp hư không. Hoặc thân lớn lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện
lớn, biến hóa khó dò, khiến cho người thấy lấy làm hoan hỉ, được chưa từng có. Thân
ở trong hư không lại biến mất, hốt nhiên lại hiện ra ở dưới đất. Vào đất dễ như
vào nước, đi trên nước như đi trên đất, có thể nói nhậm vận tự tại, tùy theo ý muốn.
Hai vị vương tử hiện ra đủ thứ biến hóa như thế, mục đích là khiến cho tâm của
vua cha được thanh tịnh, sinh tâm hiểu Phật pháp, xả bỏ pháp ngoại đạo.
Khi ấy, người cha thấy thần lực của các người con như thế, thì tâm đại hoan hỉ,
được chưa từng có, chắp tay lại hướng về các người con nói rằng : Thầy của các
con là ai ? Các con là đệ tử của ai ?
Lúc đó, vua Diệu Trang
Nghiêm thấy hai người con có thần lực như thế, biến hóa vô
cùng, tâm sinh đại hoan hỉ, đắc được cảnh giới áo diệu chưa từng có. Do đó, bèn
chắp hai tay lại hướng về hai người con hỏi : ‘’Thầy của các con là ai ? Các
con là đệ tử của ai.’’
Hai người con bạch rằng : Thưa đại vương ! Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí, nay ở dưới cội bồ đề bảy báu, ngồi ở trên pháp tòa, ở
trong tất cả thế gian chúng trời người, diễn nói Kinh Pháp Hoa, là thầy của
chúng con, chúng con là đệ tử.
Hai vị Bồ Tát Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn bèn nói với vua Diệu Trang
Nghiêm rằng : ‘’Thưa Đại Vương ! Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí đó, hiện nay đang ngồi ở trên pháp tòa, dưới cội bồ đề
bảy báu, vì tất cả thế gian chúng trời người diễn nói Kinh Pháp Hoa, Ngài là
thầy của chúng con, chúng con là đệ tử của Ngài.’’
Người cha nói với con rằng, nay cha cũng muốn gặp thầy của các con, chúng ta
cùng đi với nhau.
Vua Diệu Tang Nghiêm nói với hai người con rằng : ‘’Hiện nay cha cũng muốn đi đến
gặp thầy của các con. Các con có thần thông như thế, thì thầy của các con chắc
chắn thần thông không thể nghĩ bàn, cha và các con cùng nhau đi đến chốn Phật,
để nghe Kinh Pháp Hoa.’’
Hai người con bèn từ hư không xuống, đến chỗ người mẹ chắp tay thưa với mẹ rằng
: Thưa mẹ ! Phụ vương nay đã tin hiểu, đã phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ
đề. Chúng con đã vì cha mà làm Phật sự, xin mẹ cho phép chúng con ở nơi đức
Phật đó, xuất gia tu đạo.
Hai người con của vua Diệu Trang
Nghiêm ở trong hư không hiện mười tám biến rồi, từ hư không đi
xuống đến chỗ Tịnh Đức phu nhân ở, chắp tay thưa với người mẹ rằng : ‘’Thưa mẹ
! Cha của chúng con, hiện nay chẳng còn tin pháp tà tri tà kiến của ngoại đạo
nữa, mà tin Phật pháp, hiểu Phật pháp. Hiện tại cha đã phát tâm A nậu đa la tam
miệu tam bồ đề. Chúng con đã vì cha làm đại Phật sự. Hy vọng mẹ thấy và nghe
rồi, cho phép chúng con anh em hai người đến chỗ Đức Phật, theo Phật xuất gia,
tu vô thượng đạo.’’
Bấy giờ, hai người con muốn thuật lại nghĩa trên, bèn nói bài kệ rằng :
Lúc đó, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn muốn thuật lại ý nghĩa vừa nói ở trên, bèn dùng kệ
để nói.
Xin mẹ cho chúng con
Xuất gia làm Sa môn
Chư Phật rất khó gặp
Chúng con theo Phật tu.
Như hoa ưu đàm bát
Gặp Phật càng khó hơn
Khỏi các nạn cũng khó
Xin cho con xuất gia.
‘’Chúng con anh em hai người, xin mẹ
từ bi thương xót, cho chúng con
xuất gia tu
đạo làm
Sa môn, sau đó sẽ
thành Phật đạo.
Sa Môn dịch là siêng tức, tức là
siêng tu
giới định huệ, tức diệt
tham sân si. Chư Phật ra đời chẳng dễ gì gặp
được.
Hiện tại có Phật ra đời, chúng con xin
đi theo Phật
tu học Phật pháp.
Giống như
hoa ưu đàm bát la, ba ngàn năm hoa mới nở
một lần, rất khó được gặp. Gặp
được Phật cũng khó như thế.
Thoát khỏi các
hoạn nạn cũng rất khó,
hy vọng mẹ
đáp ứng yêu cầu của các con,
cho phép các con
xuất gia tu đạo.’’
Người mẹ nói rằng : Cho các con xuất gia, tại sao ? Vì Phật khó được gặp.
Tịnh Đức phu nhân nói với hai người con rằng : ‘’Tốt lắm ! Mẹ
cho phép các con
xuất
gia tu đạo. Tại sao ? Vì Phật chẳng dễ gì gặp được. Mong rằng sau khi các con
xuất gia rồi, ngày đêm
tinh tấn tu
Bồ Tát đạo.’’
Hai người con bèn thưa với cha mẹ rằng : Lành thay cha mẹ ! Xin cha mẹ đi
đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí, để gần gũi cúng dường. Tại sao ? Vì Phật rất khó gặp được.
Hai người con của vua Diệu
Trang
Nghiêm nói với
cha mẹ rằng : ‘’Lành thay !
Cha mẹ thương yêu
chúng con,
cho phép chúng con
xuất gia tu đạo. Vì không thể
báo ân dưỡng dục
của
cha mẹ, xin
cha mẹ tha thứ tội chưa làm tròn bổn phận thiếu thảo.
Hy vọng
cha mẹ đi đến chỗ
đạo tràng của Phật Vân Lôi Âm Tú
Vương
Hoa Trí, để gần gũi,
cúng dường Phật. Tại sao ? Vì Phật ra
đời, nếu người chẳng có căn lành, thì chẳng dễ gì được gặp.’’
Như hoa ưu đàm bát la, như rùa một mắt gặp lỗ khúc gỗ nổi, mà chúng con phước
báu đời trước sâu dày, nên sinh ra được gặp Phật pháp, do đó mà cha mẹ cho
chúng con xuất gia tu đạo. Tại sao ? Vì chư Phật rất khó gặp, thời cơ cũng khó
gặp.
Giống như
hoa ưu đàm bát la, chẳng dễ gì gặp được lúc nở. Hoa này nở ra là tàn
liền,
thời gian rất ngắn, trong chốc lát thì tàn rụng. Lại giống như con rùa
một mắt, ở trong biển cả, muốn tìm lỗ khúc gỗ nổi để
nương náu, thật chẳng dễ gì,
khó như mò kim
dưới đáy biển. Muốn gặp Phật cũng khó khăn như thế.
Vì chúng con gieo trồng phước báu trong
kiếp trước đặc biệt sâu dày, cho nên
sinh vào thời có Phật ra đời, gặp được Phật,
nghe được pháp,
may mắn thay !
Vì
vậy, nên
cha mẹ cho phép chúng con
xuất gia tu đạo. Vì sao ? Vì chư Phật rất
khó gặp,
thời cơ khó thấy, đừng để mất cơ hội tốt, phải nắm lấy cơ hội
xuất gia
tu hành.
Khi đó, tám vạn bốn ngàn người đi theo vua Diệu Trang
Nghiêm, thảy đều thọ trì Kinh Pháp Hoa này. Bồ Tát Tịnh Nhãn
từ lâu đã thông đạt tam muội pháp hoa, Bồ Tát Tịnh Tạng thì ở trong vô lượng
trăm ngàn vạn ức kiếp, đã thông đạt tam muội ly chư ác thú. Vì muốn khiến cho
tất cả chúng sinh, lìa khỏi các đường ác.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói : ‘’Lúc đó, tám vạn người
cung nga thể nữ,
đi theo
vua Diệu
Trang
Nghiêm thảy đều
thọ trì Kinh Pháp Hoa.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói: Lúc đó tám vạn bốn ngàn người
cung nga thể nữ
đi
theo vua Diệu
Trang
Nghiêm, thảy đều
thọ trì Kinh Pháp Hoa.
Bồ Tát Tịnh Nhãn từ
lâu đã
thông đạt vô ngại tam muội pháp hoa (pháp
quyền thật không hai).
Bồ Tát
Tịnh Tạng ở trong
vô lượng trăm ngàn vạn
ức kiếp, đã
thông đạt tam muội ly chư
ác thú (
bốn đường ác địa ngục,
ngạ quỷ,
súc sinh,
A tu la). Vì muốn khiến cho
tất cả
chúng sinh lìa khỏi các đường ác.
Phu nhân của vua đắc được chư Phật tập tam muội, biết được tạng bí mật của chư
Phật. Hai người con khéo dùng sức phương tiện như thế, để giáo hóa người cha,
khiến cho sinh tâm tin hiểu, ưa thích Phật pháp.
Phu nhân của vua đắc được chư Phật tập
tam muội, tức là chư Phật ở trong định
thuyết
pháp,
phu nhân cũng thấu hiểu được
bảo tàng diệu pháp bí mật không truyền cuả chư
Phật nói. Hai vị
Bồ Tát Tịnh Tạng và
Tịnh Nhãn dùng
phương tiện thiện xảo như
thế, để độ hoá người cha cuả các Ngài, khiến cho
chúng sinh tín ngưỡng Phật
pháp,
hiểu rõ ý của
Phật pháp,
ưa thích Phật pháp và
nghiên cứu Phật pháp.
Vua Diệu Trang
Nghiêm với quần thần quyến thuộc, Tịnh Đức phu nhân với tùy
tùng thể nữ, và hai người con của vua, cùng với bốn vạn hai nghìn người, đều tụ
lại cùng nhau, đi đến chỗ đức Phật. Đến rồi, đầu mặt lễ dưới chân Phật, và
nhiễu đức Phật ba vòng, rồi đứng qua một bên.
Vua Diệu
Trang
Nghiêm với quần thần
quyến thuộc cùng nhau đi đến chốn Phật.
Tịnh Đức phu nhân và
cung nga thể nữ cùng
quyến thuộc cùng nhau đi đến chốn
Phật.
Tịnh Tạng và
Tịnh Nhãn và bốn vạn hai ngàn người cùng nhau đi đến chốn
Phật. Sau khi đến chỗ
Đức Phật rồi, đều năm thể
sát đất đảnh lễ Phật Vân Lôi Âm
Tú
Vương Hoa Trí,
sau đó đi
nhiễu Phật ba vòng,
biểu thị cung kính, rồi
lui về một bên, lắng nghe
Phật chỉ dạy.
Bấy giờ, đức Phật đó vì vua Diệu Trang
Nghiêm nói pháp, chỉ thị giáo hóa, khiến cho vua được lợi ích hoan
hỉ, vua rất vui mừng.
Bấy giờ, vua Diệu Trang
Nghiêm và phu nhân cởi chuỗi ngọc châu báu nơi cổ, giá trị
trăm ngàn lạng vàng, rải lên trên đức Phật, ở trong hư không hóa thành đài báu
bốn trụ. Trong đài có giường báu lớn, giăng bày hàng trăm ngàn vạn thứ y trời.
Trên đó, có đức Phật ngồi kiết già, phóng đại quang minh.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí, vì vua Diệu Trang
Nghiêm nói pháp, chỉ thị giáo hoá, khiến cho vua đắc được lợi
ích, sinh tâm hoan hỉ và rất vui mừng.
Lúc đó, Vua Diệu Trang
Nghiêm và phu nhân Tịnh Đức cởi xâu chuỗi ngọc châu báu đang đeo
nơi cổ giá trị trăm ngàn lạng vàng rải lên cúng dường Đức Phật. Chuỗi ngọc châu
báu đó, ở trong hư không hóa thành đài báu bốn trụ (biểu thị cho tứ hoằng thệ nguyện),
ở trong đài báu có giường báu lớn, trên giường báu bày hàng trăm ngàn vạn thứ y
trời, ở trên đó có Phật ngồi kiết già phóng đại quang minh, chiếu khắp mười
phương thế giới.
Bấy giờ, vua Diệu Trang
Nghiêm nghĩ như vầy : Thân Phật rất ít có, đoan chánh trang
nghiêm đặc thù, thành tựu sắc thân vi diệu bậc nhất.
Lúc đó, vua Diệu Trang
Nghiêm nghĩ như vầy: Thân Phật phóng quang ít có trong thế gian.
Dung mạo của Phật đoan chánh trang nghiêm, vừa thù thắng vừa tốt đẹp, thành tựu
sắc thân vi diệu bậc nhất. Phật có ba mươi hai tướng đại nhân, tám mươi vẻ đẹp.
Những tướng trang nghiêm thân đó, do sự tu hành mà có được, do đó có câu:
"Ba tăng kỳ tu phước huệ,
Trăm kiếp trồng tướng tốt".
Lúc đó, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí, bảo bốn chúng rằng : Các ông có thấy vua Diệu Trang
Nghiêm, đang chắp tay đứng ở trước ta chăng! Ông vua này, ở
trong pháp của ta xuất gia làm Tỳ Kheo, siêng năng tu tập, giúp Phật hoằng dương
Phật pháp, sẽ được thành Phật hiệu là Sa La
Thụ Vương, cõi nước tên là Đại Quang, kiếp tên là Đại Cao
Vương.
Lúc
đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí nói với bốn chúng rằng : ‘’Các con có thấy vua Diệu Trang
Nghiêm đang chắp tay ở trước ta chăng ?
Ông vua này ở trong pháp của ta xuất gia làm Tỳ Kheo, tinh tấn siêng năng tu
tập Phật pháp, giúp Phật hoằng dương chánh pháp, tương lai sẽ chứng được quả vị
Phật, hiệu là Sa La Thụ
Vương Phật,
cõi nước tên là Đại Quang, kiếp tên là Đại Cao Vương.
Đức Phật Sa La Thụ
Vương đó, có vô lượng chúng Bồ Tát, và vô lượng hàng Thanh Văn, cõi nước đó
bằng phẳng, công đức như thế.
Vị Phật Sa La Thụ
Vương đó, có vô lượng đệ tử Bồ Tát, có vô lượng đệ tử Thanh Văn. Cõi nước Đại
Quang đó bằng phẳng, chẳng có chỗ lồi lõm. Hết thảy công đức trang nghiêm như
thế.
Vua Diệu Trang
Nghiêm lập tức đem cõi nước giao cho người em, cùng với phu nhân,
hai người con, và các quyến thuộc, ở trong Phật pháp xuất gia tu đạo.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói : ‘’Vua Diệu Trang
Nghiêm sau khi nghe Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí nói như thế rồi, thì lập tức xả bỏ ngôi vua, đem đất nước
giao phó cho người em cai trị, cùng phu nhân, Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, hai người
con và các quyến thuộc, xuất gia tu đạo với Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí, thọ trì Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.’’
Vua xuất gia rồi, ở trong tám vạn bốn ngàn năm, thường siêng năng tinh tấn,
tu hành Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải qua thời gian đó rồi, đắc được tam muội
nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm, bèn thăng lên hư không, cao khoảng bảy
cây đa la, mà bạch với đức Phật rằng : Đức Thế Tôn ! Hai người con của con đây,
đã làm việc Phật sự, dùng thần thông biến hóa chuyển hóa tâm tà của con, khiến
cho con an trụ vào trong Phật pháp, được thấy đức Thế Tôn.
Sau khi Vua Diệu Trang
Nghiêm xuất gia rồi, ở trong tám vạn bốn nghìn năm, thường
siêng năng tinh tấn, chẳng giải đãi, dũng mãnh tinh tấn tu hành Kinh Pháp Hoa.
Qua thời gian đó rồi, đắc được tam muội nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm,
bèn vọt lên trong hư không cao khoảng bảy cây đa la (khoảng 49 trượng), bèn nói
với Phật rằng : ‘’ Đức Thế Tôn ! Hai người con của con đây, trong quá khứ đã
làm Phật sự, hai vị đó dùng sức thần thông chuyển hóa tâm tà của con, khiến cho
con được an ổn trụ trong Phật pháp. Nhờ vậy mà con mới được thấy Đức Thế Tôn
!’’
Hai người con đây là thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành
trong quá khứ, lợi ích cho con, mà đến sinh vào nhà con.
Vua Diệu Trang
Nghiêm nói với Phật rằng : ‘’Đức Thế Tôn ! Hai người con đây
là thiện tri thức của con. Hai vị đó vì muốn phát khởi căn lành của con trong
quá khứ, vì lợi ích cho nên mới đến sinh vào nhà của con. Nếu chẳng có hai vị
đó khuyên hóa, thì con vẫn còn tin pháp tà’’
Bây giờ, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí, bảo vua Diệu Trang
Nghiêm rằng : Như thế, như thế ! Như lời ông
nói. Nếu người thiện nam, người thiện nữ, gieo trồng căn lành,
thì đời đời được gặp thiện tri thức. Thiện tri thức đó, hay làm Phật sự, khai thị
giáo hóa, khiến cho được lợi ích, sinh tâm hoan hỉ, khiến cho được vào A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề.
Lúc đó, Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí bảo Vua Diệu Trang
Nghiêm rằng : ‘’Như thế, như thế ! Đúng như lời ông
nói. Nếu như có người thiện nam, người thiên nữ, vì gieo trồng
căn lành, cho nên đời đời kiếp kiếp đều được gặp thiện tri thức. Bậc thiện tri
thức đó, dều hay làm đại Phật sự, khai thị chúng sinh, giáo hoá chúng sinh, lợi
ích chúng sinh, khiến cho chúng sinh, sinh tâm hoan hỉ, khiến cho vào A nậu đa
la tam miệu tam bồ đề.’’
Đại vương nên biết ! Bậc thiện tri thức là đại nhân duyên, hay giáo hóa khiến
cho được gặp Phật, phát tâm A nậu đa la tam miệu tam bồ bề.
Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí nói : ‘’Đại Vương ! Ông nên biết, bậc thiện tri thức
là đại nhân duyên.’’ Thiện tri thức là gì ? Nói đơn giản là giáo hóa chúng
sinh, xa lìa tội lỗi mười điều ác, tu hành pháp thập thiện. Người học Phật
pháp, phải có mắt chọn pháp, phàm là đại công vô tư, tất cả vì chúng sinh, đó
là thiện tri thức. Nếu ích kỷ, chuyên nghĩ về lợi ích cho mình, đó tức là ác
tri thức. Phải gần gũi thiện tri thức, xa lìa ác tri thức, nhận thức rõ ràng mới
không bị họ hại mà được sự lợi ích.
Thiện tri thức hay giáo hóa dẫn dắt chúng sinh, thấy Phật nghe pháp, phát tâm A
nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Thiện Tài đồng tử đi tham vấn năm mươi ba vị
thiện tri thức, đi khắp nơi cầu pháp, làm thế nào phát bồ đề tâm, làm thế nào
hành Bồ Tát đạo, cuối cùng chứng được vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đại vương ! Ông có thấy hai người con này chăng ! Hai người con này đã từng cúng
dường, sáu mươi lăm trăm ngàn vạn ức na do tha Hằng hà sa chư Phật, gần gũi
cung kính, ở chỗ chư Phật thọ trì Kinh Pháp Hoa, thương xót những chúng sinh tà
kiến, mà khiến cho họ trụ vào chánh kiến.
‘’Đại Vương ! Ông có thấy hai người con này của ông chăng ? Hai vị đó trong quá
khứ, đã từng cúng dường sáu mươi lăm trăm nghìn vạn ức na do tha Hằng hà sa các
Đức Phật, gần gũi chư Phật, cung kính chư Phật, ở trong đạo tràng của chư Phật,
đời đời kiếp kiếp đều thọ trì Kinh Pháp Hoa, thương xót những chúng sinh có tư
tưởng tà kiến, khiến cho họ trụ vào chánh kiến ở trong Phật pháp.’’
Vua Diệu Trang
Nghiêm bèn từ hư không đi xuống, mà bạch Phật rằng : Đức Thế Tôn
! Như Lai rất ít có, do nhờ công đức trí huệ, nên nhục kế ở trên đỉnh phóng ra
quang minh chiếu sang, mắt của Ngài dài và rộng, có màu sắc xanh biếc, tướng
hào quang giữa chặng mày trắng như ngọc kha, răng trắng vừa đều vừa khít,
thường có quang minh, môi màu đỏ tươi như quả tần bà.
Vua Diệu Trang
Nghiêm bèn từ hư không đi xuống, đến trước Đức Phật Vân Lôi Âm
Tú Vương Hoa Trí,
bạch rằng: ‘’Đức Thế Tôn ! Như Lai rất ít có. Vì có tất cả công đức và nhất
thiết trí huệ, cho nên trên đỉnh của Như Lai có tướng nhục kế, phóng quang
minh, chiếu khắp mười phương. Mắt của Như Lai vừa dài vừa rộng, màu sắc xanh
biếc. Giữa chặng mày của Như Lai có tướng hào quang trắng như ngọc kha. Răng
của Như Lai vừa trắng, vừa đều, vừa khít, thường phóng quang minh. Môi của Như
Lai màu đỏ tươi như quả tần bà.’’
Bấy giờ, vua Diệu Trang
Nghiêm khen ngợi vô lượng trăm ngàn vạn ức công đức của Phật
như thế rồi, ở trước Như Lai một lòng chắp tay lại, bạch Phật rằng : Đức Thế
Tôn ! Chưa từng có vậy, pháp của Như Lai thành tựu đầy đủ công đức vi diệu
không thể nghĩ bàn, giáo hóa chúng sinh, khiến cho được an ổn, vui sướng.
Lúc đó, vua Diệu Trang
Nghiêm khen ngợi Phật có vô lượng công đức như thế rồi, ở trước
Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí, một lòng chắp tay bạch Phật rằng : ‘’Đức Thế Tôn ! Con
chưa bao giờ thấy thân sắc đẹp trang nghiêm của Như Lai. Pháp của Như Lai nói
rất viên mãn, thành tựu đầy đủ công đức vi diệu không thể nghĩ bàn. Giáo hóa
chúng sinh, đừng làm các điều ác, làm các việc lành, khiến cho chúng sinh được
an ổn, vui sướng.’’
Bắt đầu từ nay, con chẳng tùy thuận tâm hành của mình nữa, chẳng sinh tâm tà
kiến, kiêu mạn sân hận điều ác. Nói như thế rồi, bèn lễ Phật lui ra.
Vua Diệu Trang
Nghiêm nói : ‘’ Từ nay trở đi, con chẳng tùy thuận vọng tâm đi
làm việc nữa, chẳng theo tâm điên đảo làm việc nữa. Từ nay về sau chẳng sinh
tâm tà kiến, chẳng sinh tâm kiêu mạn, chẳng sinh tâm ngã mạn, chẳng sinh tâm
sân hận. Tóm lại, chẳng sinh tâm ác.’’ Vua Diệu Trang
Nghiêm nói như thế rồi, năm thể lễ Phật sát đất, lễ rồi lui đứng
về một bên, đợi Phật khai thị.
Đức Phật bảo đại chúng ! Ý của các ông thế nào ? Vua Diệu Trang
Nghiêm đâu phải là ai khác, nay là Bồ Tát Hoa Đức, còn phu
nhân Tịnh Đức, nay là Bồ Tát Quang Chiếu Trang
Nghiêm Tướng, đang ở trước đức Phật. Vì thương xót vua Diệu Trang
Nghiêm và các quyến thuộc, nên sinh vào ở trong nước đó.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói với đại chúng trong hội Pháp Hoa rằng : ‘’Trong tâm
của đại chúng, các ông như thế nào ? Vua Diệu Trang
Nghiêm mà ta nói đó, các ông có biết là ai chăng ? Tức hiện
tại là Bồ Tát Hoa Đức này vậy. Còn Tịnh Đức phu nhân, tức hiện tại là Bồ Tát
Quang Chiếu Trang
Nghiêm Tướng đang ở trước Phật vậy, vì thương xót vua Diệu Trang
Nghiêm và tất cả quyến thuộc, cho nên sinh vào ở trong nước đó,
để làm vợ của vua, cảm hóa vua Diệu Trang
Nghiêm cải tà quy chánh, tin sâu Phật pháp, thọ trì Kinh Pháp
Hoa.’’
Hai người con Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, nay là Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát
Dược Thượng, thành tựu các công đức lớn như thế. Đã từng ở chỗ vô lượng trăm
ngàn vạn ức các đức Phật, trồng các gốc công đức, thành tựu các công đức lành
không thể nghĩ bàn.
Hai người con của vua là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, các ông có biết là ai chăng ? Tức
là Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng này vậy. Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát
Dược Thượng thành tựu các công đức lớn như thế, thật là không thể nghĩ bàn. Hai
vị đó đã từng ở chốn đạo tràng của vô lượng trăm ngàn vạn ức các Đức Phật,
trồng các căn lành, trồng các gốc công đức, thành tựu các công đức lành không thể
nghĩ bàn.
Nếu có ai biết được danh hiệu của hai vị Bồ Tát này, thì tất cả thế gian chư
thiên, nhân dân, cũng nên lễ bái.
Nếu như có người nào, biết được hoặc nghe được danh hiệu của hai vị Bồ Tát đó,
trì nơi tâm, nhớ mãi không quên, thì tấ cả chư thiên loài người, đều nên lễ bái
Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng.
Khi đức Phật nói Phẩm Bổn Sự của Vua Diệu Trang
Nghiêm, thì có tám vạn bốn ngàn người xa lìa trần cấu, ở trong
các pháp đắc được pháp nhãn thanh tịnh.
Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Phẩm Bổn Sự của Bồ Tát Dược Vương, thì có tám vạn
bốn ngàn người đắc được pháp ích, xa lìa trần lao, thoát khỏi trần cấu, ở trong
các pháp đắc được pháp nhãn thanh tịnh. Quán sát được tất cả pháp thế gian là
vô thường, khổ không, vô ngã. Biết được pháp xuất thế là thường, lạc, ngã, tịnh.