Phẩm 4 Tín Giải

25/05/201012:00 SA(Xem: 13048)
Phẩm 4 Tín Giải

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
GIẢNG GIẢI

Hoà thượng Thích Thanh Từ
Thiền Viện Chân Không

 

PHẨM 4 TÍN GIẢI

 

Tín là tin, giải là hiểu rõ, tín giải là do giải ngộ mà rõ suốt pháp Phật nên có niềm tin sâu xa không thoái chuyển. Nếu nương lời Phật dạy tin suông mà không giải ngộ, hoặc tin hiểu một cách cạn cợt thì chưa gọi là tín giải đối với pháp mà Phật muốn chỉ. Sau khi đức Phật chỉ rõ nơi mỗi chúng sanhTri kiến Phật, tức là mỗi người đã có sẵn Phật nhân, nếu tu sẽ thành Phật quả. Các bậc A-la-hán đệ tử Phật như ngài Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên v.v... nghe Phật nói pháp được giải ngộ, các ngài không còn kẹt ở quả vị Thanh văn nữa, do tin hiểu thâm sâu nên các ngài trình sở ngộ lên đức Phật và sẽ được Phật thọ ký cho. Sự kiện này giống như Thiền tông trình kiến giải và được ấn chứng.

CHÁNH VĂN:

1.- Lúc bấy giờ, các ngài Huệ Mạng Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên, Đại Ca-diếp, Đại Mục-kiền-liên, từ nơi Phật được nghe pháp chưa từng có. Đức Thế Tôn dự ghi cho ngài Xá-lợi-phất sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sanh lòng hi hữu hớn hở vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục trịch bày vai hữu, gối hữu chấm đất, một lòng chắp tay cúi mình cung kính chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch cùng Phật rằng:

- Chúng con ở đầu trong hàng Tăng, đều lụn tuổi già, tự cho đã được Niết-bàn không kham nhiệm gì nữa, chẳng còn thẳng cầu thêm đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Đức Thế Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi tòa thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: Không, Vô tướng, Vô tác, đối với các pháp du hí thần thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ-tát, lòng chúng con không ưa thích.

Vì sao? Đức Thế Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi đặng chứng Niết-bàn, lại nay đây chúng con tuổi đã già nua, ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Phật dạy Bồ-tát không hề sanh một niệm ưa thích.

Chúng con hôm nay ở trước Phật nghe thọ ký cho Thanh văn sẽ đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lòng rất vui mừng đặng pháp chưa từng có, chẳng ngờ hôm nay bỗng nhiên đặng pháp hi hữu, tự rất mừng may đặng lợi lành lớn, vô lượng trân báu chẳng tìm cầu mà tự đặng.

GIẢNG: 

Trong pháp hội Phật, ngài Xá-lợi-phất là bậc đại căn đại trí, nên khi Phật nói phẩm Phương Tiện Ngài liền thấy rõ bản hoài của Phật và nhận ra nơi mình có Tri kiến Phật. Ngang đó Ngài trình sở ngộ, được Phật ấn chứng và thọ ký cho sau này sẽ thành Phật. Còn các vị A-la-hán trưởng lão như Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên-diên v.v... thuộc hàng trung căn tuy đã nghe Phật giải nói cái nào là phương tiện, cái nào là cứu kính vẫn chưa dám tin nhận. Đến khi Phật nêu ví dụ rõ ràng, các ngài mới thấy rằng ban đầu được Phật dạy pháp Tiểu thừa, các Ngài tu chứng Niết-bàn Thanh văn. Nhưng nay Phật nói quả vị rốt ráo là quả Phật, quả Thanh văn chỉ là giả lập, không phải cứu kính. Các ngài lãnh hội được lý này và chứng kiến ngài Xá-lợi-phất trình sở ngộ được Phật thọ ký, nên vui mừng đứng lên chiêm ngưỡng dung nhan Phật và nói lên tâm trạng của mình rằng: "Đức Thế Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi tòa thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: Không, Vô tướng, Vô tác, đối với các pháp du hí thần thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ-tát, lòng chúng con không ưa thích." Vì các ngài đã già và đã chứng được Niết-bàn Thanh văn rồi, nên đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác các ngài không hề nghĩ tới. Nay nghe Phật thọ ký hàng Thanh văn sẽ được pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các ngài vui mừng vì bất ngờ mà được của báu, thật hi hữu.

Qua đoạn này chúng ta thấy tâm nguyện của Thanh văn khác với tâm nguyện của Bồ-tát. Các vị Thanh văn tuổi già, ngồi nghe pháp lâu sanh mỏi mệt, nên không muốn nhớ nhiều chỉ nhớ có ba điều: Không, Vô tướng, Vô tácba môn giải thoát. Khi tu dừng hết mọi vọng tưởng, sạch hết kiết sử gọi đó là Không. Vì không còn vọng tưởng, không còn kiết sử, tâm vắng lặng không hình tướng nên nói là Vô tướng. Bởi không có hình tướng nên không có động tác nói là Vô tác. Vậy, Không, Vô tướng, Vô tácba cửa giải thoát của hàng Nhị thừa. Hàng Thanh văn do nhận được lý ấy mà thoát ly sanh tử. Đó là đứng trên pháp vô vi mà nói. Nếu nhìn trên tướng hữu vi thì các pháp do duyên hợp tạm có các tướng, nhưng không có Tự tánh cố định, nó chỉ là giả tướng không thật nên nói là Vô tướng. Vì trên Tánh không, nó không có tạo tác, vì tạo tác là tướng của duyên, nên nói là Vô tác. Hàng Thanh văn lấy làm hài lòng ở ba món giải thoát này, cho đó là đã đủ, không khởi nguyện làm lợi ích chúng sanh. Nên đối với pháp du hí thần thông tam-muội, tịnh cõi Phật, giáo hóa chúng sanh thì các ngài không ưa thích

Thế nào là du hí thần thông tam-muội? Bồ-tát khi đạt lý tất cả pháp duyên khởi Tánh không, bởi Tánh không nên duyên hợp tạm có, có mà có trong hư giả huyễn hóa. Bởi huyễn hóa nên Bồ-tát lấy thân như huyễn độ hữu tình như huyễn, khi làm việc độ sanh không thấy có khổ, vì không còn thấy ta là người giáo hóa, chúng sanh là người được độ, do không chấp ta không chấp người nên không khổ. Hằng ra vào trong ba cõi để độ sanh, tâm an vui không buồn không khổ nên gọi là du hí thần thông tam-muội, đó là tâm hạnh của Bồ-tát. Còn tâm hạnh Phàm tăng của chúng ta ngày nay làm cái gì là kẹt cái nấy, tới đâu là dính đó, do ngã chấp chưa buông, nên ngay khi độ sanh là khởi phiền não. Vì vậy mà không được thần thông du hí tam-muội. Hàng Bồ-tát được du hí tam-muội, nên các ngài hằng tịnh cõi nước Phật bằng cách ra vào trong ba cõi để giáo hóa chúng sanh, chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt, nhiều đời nhiều kiếp làm mãi mãi mà không chán. Do thấy thân như huyễn, dù có bỏ thân huyễn mộng này trăm ngàn lần cũng chỉ là trò chơi, nên ra vào ba cõi cũng như đi du hí không sợ. Đến khi công hạnh viên mãn thì Bồ-tát thành Phật. Cõi nước của ngài có vô số quyến thuộcThanh văn, Duyên giác, Bồ-tát đồng duyên, đồng phước qui hội về, gọi là tịnh Phật quốc độ. Hàng Thanh văn an trụ trong Niết-bàn tịch tịnh, không khởi nguyện độ sanh, vì sợ khởi nguyện là khởi nhân phiền não, nên các ngài chìm lặng mãi trong Niết-bàn tịch tịnh. Nhưng nay nghe Phật thọ ký cho hàng Thanh văn sẽ thành Phật thì các ngài vui mừng, thấy rằng bỗng nhiên được của báu, điều mà các ngài không bao giờ nghĩ tới.

CHÁNH VĂN:

2.- Thế Tôn! Chúng con hôm nay xin nói thí dụ để chỉ rõ nghĩa đó. 

Thí như có người tuổi còn thơbé, bỏ cha trốn đi qua ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm; người đó tuổi đã lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, rong ruổi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần tình cờ trở về bổn quốc.

Người cha từ trước đến nay, tìm con không đặng bèn ở lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông giàu lớn của báu vô lượng, các kho đụn, vàng, bạc, lưu-ly, san-hô, hổ phách, pha lê, châu v.v... thảy đều đầy tràn; tôi tớ, thần tá, lại dân rất đông, voi, ngựa, xe cộ, bò, dê nhiều vô số. Cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều. 

Bấy giờ, gã nghèo cùng kia dạo đến các tụ lạc, trải qua xóm làng, lần hồi đến nơi thành của người cha ở.

Người cha hằng nhớ con, cùng con biệt ly hơn năm mươi năm mà ông vẫn chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ lòng rất ăn năn. Ông tự nghĩ, nhà có nhiều của cải, vàng bạc trân báu, kho đụn tràn đầy, không có con cái, một mai mà chết mất thời của cải tản thất không người giao phó. Cho nên ân cần luôn nhớ đến con. Ông lại nghĩ: Nếu ta gặp đặng con, ủy phó của cải, thản nhiên khoái lạc không còn sầu lo.

GIẢNG:

Chúng sanh đi trên con đường lầm mê, giống hệt như gã cùng tử thơ bé bỏ cha mẹ đi hoang đến xứ người. Trải qua thời gian dài từ mười năm tới năm mươi năm, vì nghèo cùng khốn khổ nên rong ruổi bốn phương tìm cầu sự ăn mặc, đi lần lần tình cờ trở về bản quốc. Đó là tâm trạng của chúng sanh ở giai đoạn bối giác hiệp trần. Tự mình có sẵn Tánh giác, đầy đủ công đức mà quên, nên đi lang thang trong lục đạo luân hồi, không biết bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp. Bấy giờ bỗng nhiên gặp duyên tốt thức tỉnh cạo tóc xuất gia. Tuy xuất gia mà không nghĩ mình sẽ thành Phật, vì quả Phật quá cao siêu, đòi hỏi phải tích lũy vô lượng vô biên công đức, trải qua thời gian lâu dài, e mình không kham nổi, nên không bao giờ dám nghĩ tu để thành Phật. Tu không phải một đờithành Phật, mà phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp gạn lọc phiền não, tích lũy công đức. Song, tập khí phiền não đâu phải một lần buông là hết, công quả lợi sanh đâu phải làm đôi ba việc là đủ. Vì vậy, phải siêng năng cần mẫn, không ngại gian lao khó nhọc tự mình tiến tu và làm lợi ích cho mọi người, thì khả dĩ tiến được từng bước trên con đường đi đến quả Phật. Nếu nhút nhát yếu hèn sợ lao nhọc khó khổ thì đã đi ngược đường mà Phật đã đi rồi! Có lắm người tưởng vô chùa tu là thảnh thơi nhàn hạ, nhưng không ngờ vô chùa phải thức khuya dậy sớm để tu học, lại còn phải chấp tác vất vả khổ cực bao nhiêu năm trường. Chẳng những nhiều năm, mà là nhiều đời nhiều kiếp mới thành Phật. Vì lý do đó nên sanh tâm lười mỏi thối chuyển không muốn tu nữa. Như vậy là người tu chấp nhận làm đứa con đi hoang nghèo khổ lang thang nơi này chốn nọ, để ăn mày ăn xin, chớ không chịu làm con Trưởng giả thừa kế sự nghiệp sang giàu của cha, để cho mọi người nương nhờ. Thật là điều đáng tiếc! Con tuy bỏ cha đi hoang, nhưng cha lúc nào cũng nghĩ đến con. Nghĩa là chúng sanh mê, quên Tánh giác có sẵn nơi mình nên tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử, còn Tánh giác lúc nào cũng sẵn có nơi mỗi chúng sanh không hề thiếu mất.

CHÁNH VĂN:

3.- Thưa Thế Tôn! Bấy giờ gã cùng tử làm thuê làm mướn lần hồi tình cờ đến nhà người cha bèn đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi giường sư tử, ghế báu đỡ chân, các hàng Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, cư sĩ đều cung kính bao quanh. Trên thân ông đó dùng chuỗi ngọc trân châu giá trị nghìn vạn để trang nghiêm, kẻ lại dân tôi tớ tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che trên, những phan đẹp thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu chưng bày, phát ra, thâu vào, lấy, cho v.v... có các sự nghiêm sức dường ấy, oai đức rất tôn trọng

cùng tử thấy cha có thế lực lớn liền sanh lòng lo sợ, hối hận về việc đến nhà nầy, nó thầm nghĩ rằng: "Ông này chắc là vua hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải là chỗ của ta làm thuê mướn đặng tiền vật.

Chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo có chỗ cho ta ra sức để đặng đồ mặc vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức ngặt ép sai ta làm." Gã nghĩ như thế rồi, liền chạy mau đi thẳng.

GIẢNG: 

cùng tử về đến nhà, thấy ông Trưởng giả giàu sang quá, hoảng hốt hãi kinh không dám nhìn cha, bèn bỏ chạy trốn kiếm chỗ nghèo hèn để mưu cầu ăn mặc. Cũng giống như chúng ta phát tâm cắt tóc xuất gia mà không dám nghĩ mình tu sẽ thành Phật, mặc dù hằng đêm miệng đọc tụng: "Ngã kim phát tâm bất vị tự cầu nhân thiên phước báo, Thanh văn, Duyên giác nãi chí quyền thừa chư vị Bồ-tát. Duy y Tối thượng thừa phát Bồ-đề tâm. Nguyện dữ pháp giới chúng sanh nhất thời đồng đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề." Như thế mà khi tu không dám nghĩ mình sẽ thành Phật. Vì sợ tu khó khổ, sợ độ sanh nhọc nhằn, sợ trải qua trăm ngàn kiếp quá lâu! Người tu phát nguyện lớn, ngoài việc tu tỉnh nơi mình còn phải lăn xả vào đời để giác ngộ cho chúng sanh đời đời kiếp kiếp, không biết mỏi mệt. Nếu đời này tu ít chục năm mà đã ngao ngán mệt mỏi thoái lui, như vậy không phải hạnh nguyện của Bồ-tát.

Tới đây chắc có nhiều vị sẽ đặt vấn đề với tôi: Thầy nói vậy, tại sao Thầy dự định năm tới sẽ nghỉ dạy? Có phải là Thầy đã thoái Bồ-đề tâm và muốn qui tịch không? Như quí vị đã biết đối với người thực hành Bồ-tát đạo phải tu từ Thập tín... đến Thập địa, đến Đẳng giác, Diệu giácthành Phật. Muốn thành Phật thì phần tự giácgiác tha phải viên mãn. Nhưng riêng tôi thì những gì tôi tu tôi nhận biết đã nói hết cho quí vị nghe rồi, nếu nói nữa chỉ là việc lặp lại mà thôi, chớ không có gì mới mẻ. Tôi cần phải nghỉ để nỗ lực tu thêm, nếu có phát minh được điều gì mới lạ thì sẽ nói cho quí vị nghe, còn nếu chết thì tôi cũng đi trước quí vị được năm mười bước. Việc thầy tới đâu, trò tới đó thì có gì để học? Vì muốn cho mọi người đều được tiến không dừng thì bổn phận người hướng dẫn phải đi trước. Việc tôi nghỉ dạy không phải là thoái tịch ẩn trốn, mà tôi tự thấy rằng chỗ giác ngộ của tôi chưa viên mãn, nên phải nghỉ dạy để có thì giờ nỗ lực tiến tu. Nếu đời này hướng dẫn quí vị không kịp thì đời sau tiếp tục làm nữa, cho đến viên mãn mới thôi. Tôi không chấp nhận: "Thầy trò chỉ tiến một đoạn, rồi ngang đó dừng nghỉ không chịu tiến nữa."

CHÁNH VĂN:

4.- Khi đó, ông Trưởng giả ngồi nơi tòa sư tử thấy con bèn nhớ biết, lòng rất vui mừng mà tự nghĩ rằng: "Của cải kho tàng của ta nay đã có người giao phó rồi, ta thường nghĩ nhớ đứa con nầy làm sao gặp đặng, nay bỗng nó tự đến rất vừa chỗ muốn của ta, ta dầu tuổi già vẫn còn tham tiếc." Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại.

Lúc ấy, kẻ sứ giả chạy mau qua bắt, gã cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu xưng, oan: "Tôi không hề xúc phạm, nhân sao lại bị bắt?" Kẻ sứ giả bắt đó càng gấp cưỡng dắt đem về. Khi đó gã cùng tử tự nghĩ không tội chi mà bị bắt bớ đây chắc định phải chết, lại càng sợ sệt mê ngất ngã xuống đất.

Người cha xa thấy vậy bèn nói với kẻ sứ giả rằng: "Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới trên mặt cho nó tỉnh lại, đừng nói chi với nó."

Vì sao? Cha biết con mình ý chí hạ liệt, tự biết mình giàu sang làm khiếp sợ cho con. Biết chắc là con rồi mà dùng phương tiện chẳng nói với người khác biết là con mình. Kẻ sứ giả nói với cùng tử: "Nay ta thả ngươi đi đâu tùy ý."

cùng tử vui mừng đặng điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, qua đến xóm nghèo để tìm cầu sự ăn mặc.

GIẢNG:

Đã từ lâu, ông Trưởng giả tiếc sự nghiệp, mong có người thừa kế nay biết con mình đã về, nên yên lòng có người giao phó sự nghiệp. Nhưng gã cùng tử về tới cửa thấy cha quá giàu sang oai quyền, nên khiếp sợ bỏ chạy tới chỗ nghèo hèn mà nương náu. Khi bị sứ giả ví bắt gấp thì kinh sợ ngất xỉu, ông bảo thả ra lấy nước rảy cho tỉnh lại

Ở đây nói ông Trưởng giả tham tiếc, là tham tiếc kho báu Trí tuệ Phật chưa có người truyền trao, chớ không phải tham tiếc tiền của vật chất thế gian. Tâm trạng gã cùng tử giống như tâm trạng người tu chúng ta ở giai đoạn mới vào đạo, học chút ít kinh điển, nghe nói muốn thành Phật thì phải trải qua vô số kiếp hành Bồ-tát đạo, tu Lục độ ba-la-mật nào là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn... Bố thí ba-la-mật thì không thấy có người thí, không thấy có kẻ thọ thí và không thấy có vật đem ra bố thí. Bố thí mà không có mình, không có người, không có vật làm sao làm? Khó quá! Bèn thoái Bồ-đề tâm, hoàn tục sống làm lành lánh dữ để có chút phước đời sau hưởng. Chính vì tâm hạ liệt ấy, nên Phật phải dùng phương tiện an ủi, dắt dẫn từ từ.

CHÁNH VĂN:

5.- Bấy giờ ông Trưởng giả toan muốn dụ dẫn người con mà bày chước phương tiện, mật sai hai người, hình sắc tiều tụy không có oai đức: "Hai người nên qua xóm kia từ từ nói với gã cùng tử, nơi đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Gã cùng tử nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm gì, thời nên nói với nó rằng: "Thuê người hốt phân, chúng ta hai người cũng cùng ngươi chung nhau làm." Khi đó hai người sứ liền tìm gã cùng tử, rồi thuật đủ việc như trên.

6.- Bấy giờ gã cùng tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xótquái lạ. Lại một ngày khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm o tiều tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy không sạch. Ông liền cổi chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách trỉn dơ, bụi đất lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ, bảo những người làm rằng: "Các ngươi phải siêng làm việc chớ nên lười nghỉ." Dùng phương tiện đó đặng đến gần người con.

Lúc sau lại bảo con rằng: "Gã nam tử này! Ngươi thường làm ở đây đừng lại đi nơi khác, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi. Những đồ cần dùng như loại bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi ngại. Cũng có kẻ tớ già hèn hạ, nếu cần ta cấp cho, nên phải an lòng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo.

Vì sao? Vì ta tuổi tác già lớn mà ngươi thì trẻ mạnh, ngươi thường trong lúc làm việc, không lòng dối khi trễ nải giận hờn nói lời thán oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó như các người làm công khác. Từ ngày nay nhẫn sau như con đẻ của ta." Tức thời Trưởng giả lại đặt tên cho cùng tử gọi đó là "con".

Khi đó gã cùng tử, dầu mừng việc tình cờ đó song vẫn còn tự cho mình là khách, là người làm công hèn, vì cớ đó mà trong hai mươi năm thường sai hốt phân, sau đó lòng gã mới lần thể tin ra vào không ngại sợ, nhưng chỗ gã ở cũng vẫn nguyên chỗ cũ.

GIẢNG:

cùng tử khi gặp cha mà không dám nhận hoảng kinh bỏ chạy. Ông Trưởng giả ngầm sai hai người làm công có thân hình tiều tụy quê xấu, đến dụ dẫn cùng tử về nhà ông để hốt phân dọn dẹp cho nhà cửa sạch sẽ. Cùng tử nghe nói việc hợp với khả năng mình nên nhận làm. Nhân khi đó, ông mới hóa trang ăn mặc dơ xấu để gần gũi an ủi dụ dẫn cho con biết việc nhà và coi ông như cha.

Nghề hốt phân ngầm dụ cho công phu tu hành tẩy trừ vô minh, ba độc cấu uế. Vô minh cấu uế sạch rồi mới chứng A-la-hán. Các vị tu Thanh văn thường hành hạnh đầu-đà, mặc y bằng vải vụn kết lại nên thô xấu, ăn thì ai cho gì dùng nấy, ở dưới cội cây, sống kham khổ nên thân hình gầy ốm. Ngược lại chúng ta nhìn tượng của các Bồ-tát thì vị nào cũng to mập, ăn mặc sang trọng vui tươi. Qua hai hình ảnh đó chúng ta thấy hạnh Thanh văn tu thì phải cần khổ, nỗ lực tư duy Thiền quán để diệt trừ phiền não ngay trong kiếp này, không muốn tái sanh lại nữa. Còn Bồ-tát được Trí tuệ Bát-nhã thấy các pháp như huyễn, nên tùy duyên ứng hóa, không sợ sanh tử, không cầu Niết-bàn. Thể theo hạnh nguyện, các ngài hiện thân hợp với sở thích của chúng sanh, để gần gũi thân cận mà giáo hóa làm lợi ích cho họ.

Vì tâm hạ liệt của chúng sanh không kham nhận được pháp lớn, nên sau khi Phật thành đạo ở dưới cội bồ-đề, Ngài suy gẫm nếu đem chỗ chứng ngộ của Ngài ra giảng nói, e chúng sanh không tin nổi, nên Ngài mới phương tiện nói Tứ đế là thời pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển. Trước hết chỉ cho chúng sanh thấy sanh già bệnh chết là khổ; kế đó chỉ cho tập nhân gây ra khổ đau là tham sân si... vô minh phiền não; tiếp theo là nêu bày cảnh giới an vui sau khi đã diệt hết vô minh phiền não; sau cùng là dạy cho phương pháp đoạn diệt vô minh phiền não. Đây là hình ảnh của ông Trưởng giả cởi hết châu ngọc trang sức, mặc y phục thô xấu, cầm đồ hốt phân đến gần cùng tử để an ủi vỗ về và bảo coi ông như cha, những vật dụng có sẵn trong nhà cứ tự nhiên lấy dùng. Gã cùng tử được ông Trưởng giả coi như con, nhưng chưa dám nhận mình là con Trưởng giả. Cũng vậy, tuy hàng Thanh văn tu học theo pháp Phật dạy, nhưng chưa dám tin mình tu sẽ được thành Phật.

CHÁNH VĂN:

7.- Thế Tôn! Bấy giờ Trưởng giả có bịnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết mới bảo cùng tử rằng: "Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, trong đó nhiều ít chỗ đáng xài dùng, ngươi phải biết hết đó. Lòng ta như thế, ngươi nên thể theo ý ta.

Vì sao? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng dụng tâm chớ để sót mất."

Khi ấy cùng tử liền nhận lời bảo, lãnh biết các của vật, vàng, bạc, trân báu và các kho tàng, mà trọn không có ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa bỏ được.

GIẢNG:

cùng tử theo lời yêu cầu của ông Trưởng giả, nhận quản lý kho báu trong nhà nhưng vẫn còn ở ngoài hành lang và chưa dám nghĩ mình có phần trong đó. Cũng vậy, hiện tại nhiều người tu nghe kinh nói mỗi chúng sanh ai cũng có Phật tánh, Bồ-tát tu Lục độ vạn hạnh viên mãn thì sẽ thành Phật. Nghe như vậy rồi khi ra giảng nói cũng giảng nói như vậy. Nhưng trong thâm tâm chỉ mong đời này mình tu chứng quả Tu-đà-hoàn hay Tư-đà-hàm là được rồi, chớ không dám nghĩ mình có thể thực hiện được hạnh Bồ-tát.

CHÁNH VĂN:

8.- Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ý chí con lần đã thông thái trọn nên chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc, quốc vương, quan đại thần, dòng Sát-lợi, hàng cư sĩ, khi đã nhóm xong, ông liền tự tuyên rằng: "Các Ngài nên rõ, người nầy là con ta, của ta sanh ra, ngày trước trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thiệt là con ta, ta thiệt là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết."

Thế Tôn! Khi đó gã cùng tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng: "Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng báu này tự nhiên mà đến."

GIẢNG:

Khi thấy con mình có trí khôn đủ khả năng quản lý gia sản, ông Trưởng giả bèn họp tất cả thân tộc lại tuyên bốcùng tử chính là con ruột của ông, sự nghiệp của ông chính là sự nghiệp của con ông. Gã cùng tử không có lòng mong cầu mà nay bất ngờ được kho báu, nên rất vui mừng được điều chưa từng có. Ví dụ này nói lên tâm trạng vui mừng bất ngờ của hàng đệ tử Thanh văn khi nhận ra Tri kiến Phật.

CHÁNH VĂN:

9.- Thế Tôn! Ông phú Trưởng giả đó là đức Như Lai, còn chúng con đều giống như con của Phật. Đức Như Lai thường nói chúng con là con.

Thưa Thế Tôn! Chúng con vì ba món khổ nên ở trong sanh tử chịu các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp Tiểu thừa. Ngày nay đức Thế Tôn khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân dơ các pháp hí luận. Chúng con ở trong đó siêng gắng tinh tấn được đến Niết-bàn, cái giá một ngày. Đã được đây rồi lòng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: "Ở trong pháp của Phật, do siêng năng tinh tấn nên chỗ được rộng nhiều." 

Nhưng đức Thế Tôn trước biết chúng con lòng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp Tiểu thừa, chúng con bèn bị Phật buông bỏ, chẳng vì phân biệt rằng: Các ông sẽ có phần bửu tàng Tri kiến của Như Lai.

Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện nói bày trí huệ của Như Lai. Chúng con theo Phật được giá Niết-bàn một ngày cho là được nhiều rồi, đối với pháp Đại thừa này không có chí cầu. Chúng con lại nhân trí huệ của Phật, vì các vị Bồ-tát mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn nơi pháp đó.

Vì sao? Đức Phật biết chúng con ưa nơi pháp Tiểu thừa, nên dùng sức phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thật là Phật tử. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế Tôn ở nơi trí huệ của Phật không có lẫn tiếc.

Vì sao? Chúng con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp Tiểu thừa, nếu chúng con có tâm ham Đại thừa thời Phật vì chúng con mà nói pháp Đại thừa. Ở trong kinh này chỉ nói pháp Nhứt thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ-tát chê trách Thanh văn ham pháp Tiểu thừa.

Nhưng đức Phật thiệt dùng Đại thừa để giáo hóa, vì thế nên chúng con nói vốn không có lòng mong cầu mà nay báu lớn của đấng Pháp vương tự nhiên đến, như chỗ nên được của Phật tử đều đã được đó.

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Ca-diếp hợp pháp ví dụ này: Ông phú Trưởng giả đó là đức Như Lai, cùng tử là hàng Thanh văn, là con của Phật. Ngài nêu lên ba món khổ làm chướng đạo Bồ-đề là khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Khổ khổ là ngay nơi thân tâm con người bị lửa vô thường, lửa tham sân si thiêu đốt làm cho đau khổ, lại còn bị ngoại cảnh như thiên tai, binh biến, nghèo đói... chồng chất thêm một lớp khổ nữa gọi là khổ khổ. Hoại khổ là thân con người từng sát-na mọi tế bào sanh diệt... vừa thấy tóc xanh, thoáng chốc đã bạc đầu, da nhăn, răng rụng, mắt mờ, tai điếc... đó là hoại khổ. Hành khổ là sự biến dịch đổi thay nơi con người đưa đến sự già chết. Hành khổ còn chỉ cho hành nghiệp dẫn dắt thần thức đi thọ thân năm ấm, chịu luật vô thường chi phối nên khổ đau.

Các bậc Thanh văn do nhận ra ba cái khổ này nên quyết tâm cầu thoát ly sanh tử, bằng cách thích tu pháp Tứ đế để chứng Niết-bàn. Vì vậy khi nghe lời Phật dạy, các ngài lo dọn trừ những phân dơ hí luận, tức là tránh xa các lối hí luận suông để vui cười, không giúp cho người nghe thấy được đạo. Bởi dẹp hết hí luận, nên sạch hết nhiễm trước, do sạch hết nhiễm trước được chứng Niết-bàn. Niết-bàn này chỉ có giá trị bằng một ngày! Niết-bàn là vô sanh, đã là vô sanh thì không lệ thuộc thời gian tại sao nói giá trị bằng một ngày? Do tu nên vọng tưởng dừng lặng, khi vọng tưởng dừng lặng cho đó là vô sanh, là Niết-bàn. Niết-bàn đó là trạng thái dừng lặng của vọng tưởng, chưa phải là Niết-bàn chân thật. Nếu tu mà nhận được Tri kiến Phật nơi chính mình chưa từng sanh chưa từng diệt mới là Niết-bàn chân thật cứu kính. Còn Niết-bàn do dừng vọng tưởng, tâm vắng lặng mà không nhận ra thật thể của chính mình, nên ở đây kinh nói giá trị một ngày.

Thí dụ tọa thiền trụ tâm vào một cảnh, chẳng hạn như quán thân bất tịnh, dồn hết tâm lực quán sát, thân này là ô uế bất tịnh, lúc nào cũng thấy hình hài này là bất tịnh, không có một niệm khác dấy khởi thì tâm được định. Tuy nhiên, tâm chỉ định trong thời gian quán chiếu, khi hết quán thì tâm hết định. Còn định của Đại thừanhận ra Tri kiến Phật có sẵn nơi mình, mà Tri kiến Phật thì hằng hữu, bất động, nên đi đứng nằm ngồi, bửa củi, nấu cơm, không lúc nào thiếu vắng. Hằng sống với Tri kiến Phật thì không có loạn tưởng, không loạn tưởng là định. Định này không xuất không nhập, nên nói là Đại định, là Niết-bàn viên mãn.

Ngài Ma-ha Ca-diếp thật thà lặp lại rằng Phật có nêu Tri kiến Phật nhưng các ngài đã được Niết-bàn Thanh văn nên lấy làm hài lòng, không cầu pháp Đại thừa. Tới đây có điều chúng ta lấy làm lạ là các ngài Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề. khi nói pháp cho hội chúng nghe thì các ngài cũng nói pháp Đại thừa. Tại sao các ngài không thích và không cầu pháp Đại thừa, mà lại giảng nói pháp Đại thừa?

Nhân vì các ngài quen nghe Phật khen ngợi pháp Đại thừa, nên có người cần cầu pháp Đại thừa thì các ngài cũng nói, nói để cho người nghe, chớ các ngài không mong cầu. Nếu có người hỏi về hạnh của Bồ-tát phải tu Lục độ ba-la-mật như thế nào, thì các ngài biết liền chỉ dạy cho người tu, nhưng chính các ngài thì không ham thích pháp tu của Bồ-tát. Hiện nay chúng ta tu có vấp phải lỗi này không? Thí dụ trong giới xuất gia, có người tới học đạo, hỏi: Làm thế nào để diệt tham sân si? Các vị trả lời rất rành rẽ, muốn hết tham phải tu hạnh bố thí, muốn đoạn trừ sân phải tu hạnh từ bi nhẫn nhục, muốn dứt sạch si mê phải quán mười hai nhân duyên, hay giới phân biệt quán. Giải thích bố thí phải bố thí như thế nào, Quán từ bi phải quán ra sao, Quán mười hai nhân duyên hay giới phân biệt quán thì phải quán như thế nào. Giải thích một cách rõ ràng tường tận. Nhưng chính bản thân mình khi đối duyên xúc cảnh thì vẫn tham, vẫn sân, vẫn si. Như vậy là sao? Vì người mong cầu muốn dứt trừ tham sân si, được chúng ta hướng dẫn thì họ nỗ lực tu hành. Còn chúng ta nhờ nghe học nên hiểu biết, nhưng lòng chưa thiết tha loại bỏ nên không tu, tham sân si vẫn còn nguyên vẹn.

Nhiều khi tôi thấy hơi buồn và hổ thẹn. Phật tửthế gian, gặp những hoàn cảnh bất như ý phiền não, vào chùa nhờ các thầy các cô giảng dạy, cứu cho họ bớt buồn khổ. Lúc đó các thầy các cô dạy lý thuyết nghe cũng hay lắm. Nhưng rồi mai kia các thầy các cô phiền não thì Phật tử an ủi lại! Như vậy là sao? Ai dạy ai? Nếu chúng ta là người có trách nhiệm đi trước, điều gì chúng ta dạy cho người thì điều đó chúng ta phải làm được, nếu chúng ta làm chưa được viên mãn thì chúng ta cũng làm được đôi phần. Đã làm được đôi phần thì khả dĩ không hổ thẹn. Điều mình làm không được mà đem ra dạy người, đó chỉ là lý thuyết suông không đem lợi ích cho ai cả.

Đức Phật thuận theo tâm nguyện của các đệ tử, dùng sức phương tiện hướng dẫn cho các đệ tử biết rằng mình là con của Phật. Khi thấy công hạnh đệ tử gần viên mãn thì Phật liền trao truyền sự nghiệp cho, điều mà hàng Thanh văn đệ tử Phật chưa bao giờ nghĩ tới, không có tâm mong cầu, ngoài sức tưởng tượng của các ngài. Đây là lòng chân thành sau khi thấy đạo, các ngài nói lên chỗ hi hữu của mình để đức Phật chứng minh.

CHÁNH VĂN:

Bấy giờ ngài Ma-ha Ca-diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

10.-Chúng con ngày hôm nay

Nghe âm giáo của Phật 

Lòng hớn hở mừng rỡ

Được pháp chưa từng có

Phật nói hàng Thanh văn

Sẽ được thành quả Phật

Đống châu báu vô thượng

Chẳng cầu tự nhiên được

Ví nhưđồng tử

Thơ bé không hiểu biết

Bỏ cha trốn chạy đi

Đến cõi nước xa khác

Nổi trôi khắp nước ngoài

Hơn năm mươi năm dài

Cha gã lòng buồn nhớ

Kiếm tìm khắp bốn phương

Kiếm tìm đó đã mỏi

Liền ở lại một thành

Xây dựng nên nhà cửa

Năm món dục tự vui

Nhà ông giàu có lớn

Nhiều những kho vàng, bạc

Xa-cừ, ngọc mã não

Trân châu, ngọc lưu-ly

Voi ngựa cùng trâu dê

Kiệu, cáng, đủ xe cộ

Ruộng đất và tôi tớ

Nhân dân rất đông nhiều

Xuất nhập thâu lời lãi

Bèn khắp đến nước khác

Khách thương người buôn bán

Không xứ nào không có,

Nghìn muôn ức chúng hội

Vây quanh cung kính ông,

Thường được bậc vua chúa

Mến yêu nhớ tưởng đến

Các quan, hạng hào tộc

Đều cũng đồng tôn trọng.

Vì có các sự duyên

Người đến lui rất đông

Giàu mạnh như thế đó

thế lực rất lớn

Mà tuổi đã già nua

Lại càng buồn nhớ con

Ngày đêm luống suy nghĩ

Giờ chết toan sắp đến

Con thơ dại bỏ ta

Hơn năm mươi năm tròn

Các của vật kho tàng

Sẽ phải làm thế nào?

 

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Ca-diếp lặp lại ý trên là nghe Phật nói hàng Thanh văn sẽ được thành Phật, các ngài vui mừng bất ngờ được của báu chưa từng có. Ví nhưcùng tử khờ dại bỏ cha đi lang thang trong thời gian năm mươi năm. Ông Trưởng giả là người giàu có lớn, có rất nhiều ngọc ngà châu báu, xe, ngựa, ông là người có nhiều uy tín được vua quan cho đến thứ dân đều tôn trọng cung kính. Ngày càng lớn tuổi, ông nhớ trông con về để ủy thác tài sản sự nghiệp.

CHÁNH VĂN:

11.-Bây giờ gã cùng tử

Đi tìm cầu ăn mặc 

Ấp này đến ấp khác

Nước này sang nước nọ,

Hoặc có khi được của

Hoặc có lúc không được,

Đói thiếu hình gầy gò

Thân thể sanh ghẻ lác

Lần lựa đi trải qua

Đến thành cha gã ở

Xoay vần làm thuê mướn

Bèn đến trước nhà cha

Lúc ấy ông Trưởng giả

Đang ở trong nhà ông

Giăng màn châu báu lớn

Ngồi tòa sư tử cao

Hàng quyến thuộc vây quanh

Đông người đứng hầu hạ

Hoặc có người tính toán

Vàng, bạc, cùng vật báu

Của cải ra hoặc vào

Biên chép ghi giấy tờ

cùng tử thấy cha

Quá mạnh giàu tôn nghiêm

Cho là vị quốc vương

Hoặc là đồng bậc vua

Kinh sợ tự trách thầm

Tại sao lại đến đây? 

Lại thầm tự nghĩ rằng:

Nếu ta đứng đây lâu

Hoặc sẽ bị bức ngặt

Ép buộc sai khiến làm.

Suy nghĩ thế đó rồi

Rảo chạy mà đi thẳng

Hỏi thăm xóm nghèo nàn

Muốn qua làm thuê mướn.

 

GIẢNG:

cùng tử nghèo đói thân hình tiều tụy lang thang khắp nơi để mưu cầu sự ăn mặc rất gian nan khốn khổ. Một hôm tình cờ trở về cố hương, gặp lại cha già đang ngồi trên tòa báu, có quyến thuộc đông đảo, kẻ hầu hạ, người xuất nhập của cải, kẻ biên chép giấy tờ... có vẻ tôn nghiêm giàu mạnh. Gã cùng tử tự thấy mình lạc loài, tự trách mình sao đến chỗ này, e ngại sẽ bị bắt làm không công, hoặc bị giết. Nên hối hận rồi bỏ chạy đi nơi khác. Tâm trạng gã cùng tử giống như chúng ta, nhiều đời đi lang thang trong sáu nẻo luân hồi quá ư khốn khổ, chợt thức tỉnh cầu đạo giải thoát. Nhưng khi tìm đến với đạo, học hiểu chút ít thấy việc thành đạo khó quá sanh nản lòng thối lui không muốn tiến nữa.

CHÁNH VĂN:

12.-Lúc bấy giờ Trưởng giả

Ngồi trên tòa sư tử 

Xa trông thấy con mình

Thầm lặng mà ghi nhớ,

Ông liền bảo kẻ sứ

Đuổi theo bắt đem về.

cùng tử sợ kêu

Mê ngất ngã trên đất,

Người này theo bắt tôi

Chắc sẽ bị giết chết,

Cần gì đồ ăn mặc

Khiến tôi đến thế này!

Trưởng giả biết con mình

Ngu dại lòng hẹp hèn

Chẳng chịu tin lời ta

Chẳng tin ta là cha

Ông liền dùng phương tiện

Lại sai hai người khác

Mắt chột, thân lùn xấu

Hạng không có oai đức!

Các người nên bảo nó

Rằng ta sẽ thuê nó

Hốt dọn các phân nhơ

Trả giá bội cho nó.

cùng tử nghe rồi

Vui mừng theo sứ về

Vì dọn các phân nhơ

Sạch sẽ các phòng nhà.

Trưởng giả trong cửa sổ 

Thường ngó thấy con mình

Nghĩ con mình ngu dại

Ưa thích làm việc hèn

Lúc đó ông Trưởng giả

Mặc y phục cũ rách

Tay cầm đồ hốt phân

Qua đến chỗ con làm

Phương tiện lần gần gũi

Bảo rằng: Ráng siêng làm!

Đã thêm giá cho ngươi

Và cho dầu xoa chưn

Đồ ăn uống đầy đủ

Thêm đệm chiếu dầy ấm

Cặn kẽ nói thế này:

Ngươi nên siêng làm việc!

Rồi lại dịu dàng bảo

Như con thiệt của ta.

 

GIẢNG:

Ông Trưởng giả thấy con bỏ chạy, nên sai người đuổi theo bắt lại. Nhưng gã cùng tử thấy người đuổi theo, sợ bắt hành hạ hay giết nên hoảng hốt ngất xỉu. Ông Trưởng giả thấy con mình quá khờ dại nên bảo sứ giả thả ra, mặc tình nó đi đâu thì đi. Tuy nhiên, ông ngầm sai hai người mắt chột, thân lùn xấu, nghèo hèn khuyên gã cùng tử đến hốt phân nhà ông Trưởng giả. Gã cùng tử nhận lời làm thuê cho ông Trưởng giả. Bấy giờ ông Trưởng giả thương xót con khờ dại nên hóa trang, mặc đồ dơ xấu đến gần để an ủi con, cho nó những vật dụng cần dùng, ông khuyên bảo nên siêng làm việc, và nói ông coi gã như là con. Giống như chúng ta khi trở về với đạo, đáng lý phải thừa nhận sự nghiệp lớn lao của Phật là tu để thành Phậtđộ sanh. Nhưng vì tâm lượng hẹp hòi, chỉ mong cầu chút ít phước báocõi người cõi trời.

CHÁNH VĂN:

13.-Ông Trưởng giả có trí

Lần lần cho ra vào 

Trải qua hai mươi năm

Coi sóc việc trong nhà,

Chỉ cho biết vàng, bạc,

Ngọc trân châu, pha lê

Các vật ra hoặc vào

Đều khiến gã biết rõ.

Gã vẫn ở ngoài cửa

Nương náu nơi am tranh

Tự nghĩ phận nghèo nàn

Ta không có vật đó.

Cha biết lòng con mình

Lần lần đã rộng lớn

Muốn giao tài vật cho

Liền nhóm cả thân tộc

Quốc vương, các đại thần

Hàng Sát-lợi, cư sĩ

Rồi ở trong chúng này

Tuyên nói chính con ta

Bỏ ta đi nước khác

Trải hơn năm mươi năm,

Từ gặp con đến nay

Đã hai mươi năm rồi

Ngày trước ở thành kia

Mà mất đứa con này

Ta đi tìm khắp nơi

Bèn đến ngụ nơi đây,

Phàm của cải ta có

Nhà cửa cùng nhân dân

Thảy đều phó cho nó

Mặc tình nó tiêu dùng

Người con nhớ xưa nghèo

Ý chí rất kém hèn

Nay ở nơi cha mình

Được quá nhiều châu báu

Và cùng với nhà cửa

Gồm tất cả tài vật,

Lòng rất đỗi vui mừng

Được điều chưa từng có.

GIẢNG:

Ông Trưởng giả là người có trí, biết ý chí con hạ liệt, nên phương tiện hướng dẫn cùng tử coi sóc việc nhà cho 

quen, sau đó chỉ kho tàng của báu, giao cho cùng tử quản lý tất cả sự nghiệp. Rồi ông họp thân tộc, quốc vương

đại thần... công bố cùng tử là con đẻ của ông, sự nghiệp của ông là sự nghiệp của con ông. Gã cùng tử được điều 

chưa từng có nên rất vui mừng.

CHÁNH VĂN:

14.-Đức Phật cũng như thế

Biết con ưa Tiểu thừa

Nên chưa từng nói rằng

Các ngươi sẽ thành Phật

Mà chỉ nói chúng con

Được có đức vô lậu

Trọn nên quả Tiểu thừa 

Hàng Thanh văn đệ tử

Đức Phật bảo chúng con

Nói đạo pháp tối thượng

Người tu tập pháp này

Sẽ được thành Phật quả 

Chúng con vâng lời Phật

Vì các Bồ-tát lớn

Dùng các món nhân duyên

Cùng các môn thí dụ

Bao nhiêu lời lẽ hay

Để nói đạo Vô thượng

Các hàng Phật tử thảy

Từ nơi con nghe pháp

Ngày đêm thường suy gẫm

Tinh tấn siêng tu tập

Bấy giờ các đức Phật

Liền thọ ký cho kia

Các ông ở đời sau

Sẽ được thành Phật đạo,

Pháp mầu rất bí tàng

Của tất cả các Phật

Chỉ để vì Bồ-tát

Mà dạy việc thiệt đó

Nhưng chẳng vì chúng con

Nói pháp chân yếu nầy

Như gã cùng tử kia

Được gần bên người cha

Dầu lãnh biết các vật

Nhưng lòng chẳng mong cầu

Chúng con dầu diễn nói

Tạng pháp báu của Phật 

Tự mình không chí nguyện

Cũng lại như thế đó.

 

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Ca-diếp hợp pháp ví dụ. Ngài nói rằng ông Trưởng giả dụ cho đức Phật, Phật biết hàng Thanh văn ưa pháp Tiểu thừa nên chưa từng nói "các ngươi sẽ thành Phật", chỉ nói tu hạnh Thanh văn sẽ chứng Niết-bàn, còn hàng Bồ-tát thì Phật dạy tu pháp tối thượng sẽ thành Phật. Do nghe Phật dạy, nên các ngài cũng nói người nào tu pháp tối thượng sẽ thành Phật. Các ngài nói người nào nghe Phật dạy cố gắng tu và được Phật thọ ký, còn các ngài thì vô phần. Để thấy rằng người học đạo hài lòng với pháp nhỏ mà mình đã được thì khó tiến bộ. Phật vì lòng từ� bi, thấy đệ tử không có chí nguyện lớn, nên phương tiện thúc đẩy cho tiến lên, cuối cùng Ngài thọ ký cho thành Phật.

CHÁNH VĂN:

15.- Chúng con diệt bề trong

Tự cho là đã đủ 

Chỉ xong được việc này

Lại không biết việc khác

Chúng con dầu có nghe

Pháp tịnh cõi nước Phật 

Cùng giáo hóa chúng sanh

Đều không lòng ưa vui

Như thế là vì sao?

Vì tất cả các pháp 

Thảy đều là không lặng

Không sanh cũng không diệt

Không lớn cũng không nhỏ

Vô lậuvô vi

Suy nghĩ thế đó rồi

Chẳng sanh lòng ưa muốn

Chúng con đã từ lâu

Đối với trí huệ Phật 

Không tham, không ưa thích

Không lại có chí nguyện

Mà đối với pháp mình

Cho đó là rốt ráo

Chúng con từ lâu nay

Chuyên tu tập pháp không

Được thoát khỏi hoạn nạn

Khổ não của ba cõi

Trụ trong thân rốt sau

Hữu dư y Niết-bàn 

Đức Phật dạy bảo ra

Chứng được đạo chẳng luống

Thời là đã có thể

Báo được ơn của Phật

Chúng con dầu lại vì

Các hàng Phật tử thảy

Tuyên nói pháp Bồ-tát,

Để cầu chứng Phật đạo,

Mà mình đối pháp đó

Trọn không lòng mong muốn

Đấng Đạo sư buông bỏ

Vì xem biết lòng con

Ban đầu không khuyên gắng

Nói những lợi có thiệt,

Như ông Trưởng giả giàu

Biết con chí kém hèn

Bèn dùng sức phương tiện

Để hòa phục tâm con

Vậy sau mới giao phó

Tất cả tài vật báu,

Đức Phật cũng thế đó

Hiện ra việc ít có

Biết con ưa Tiểu thừa

Bèn dùng sức phương tiện

Điều phục tâm của con

Rồi mới dạy trí lớn

Chúng con ngày hôm nay

Được pháp chưa từng có

Chẳng phải chỗ trước mong

Mà nay tự nhiên được

Như gã cùng tử kia

Được vô lượng của báu.

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Ca-diếp thuật lại việc tu hành của hàng Thanh văn là diệt bề trong cho là đã đủ, lại không biết việc 

khác. Nghĩa là các ngài một bề dẹp những kiết sử trói buộcnội tâm, kiết sử hết thì không còn luân hồi, chứng 

Niết-bàn, các ngài thấy đó là đủ, không tự biết mình có sẵn Tri kiến Phật, không thực hành pháp tịnh cõi nước 

Phật, giáo hóa chúng sanh. Sỡ dĩ hàng Thanh văn không ưa giáo hóa chúng sanh, làm thanh tịnh cõi nước Phật là 

vì các ngài quán chiếu thấy tất cả pháp đều không lặng, không sanh không diệt, không lớn không nhỏ, vô lậu vô 

vi, chỉ thích an tịnh trong cái tịch tịnh đó. Còn việc độ sanh, tịnh cõi nước Phật, là việc bên ngoài nên không bao 

giờ nghĩ và thích. Vì vậy, Phật mới vì các ngài khuyến khích muốn cho các ngài được pháp Vô thượng cũng như 

cùng tử được của báu.

CHÁNH VĂN:

16.- Thế Tôn! Chúng con nay

Được đạo và chứng quả

Ở nơi pháp vô lậu

Được huệ nhãn thanh tịnh.

Chúng con từ lâu nay

Gìn tịnh giới Phật chế

Mới ở ngày hôm nay

Được hưởng quả báo đó

Trong pháp của Pháp vương

Lâu tu hành phạm hạnh

Ngày nay được vô lậu

Quả báu lớn Vô thượng.

Chúng con ngày hôm nay

Mới thiệt là Thanh văn

 Đem tiếng đạo của Phật

 Cho tất cả đều nghe.

 Chúng con ngày hôm nay,

 Thiệt là A-la-hán

 Ở nơi các thế gian

 Trời, người và ma, Phạm

 Khắp ở trong chúng đó

 Đáng lãnh của cúng dường.

 Ơn lớn của Thế Tôn

 Đem việc ít có nầy

 Thương xót dạy bảo cho

 Làm lợi ích chúng con

 Trải vô lượng ức kiếp

 Ai có thể đền được.

 Tay lẫn chân cung cấp

 Đầu đảnh lễ cung kính,

 Tất cả đem cúng dường

 Đều không thể đền được

 Hoặc dùng đầu đội Phật

 Hai vai cùng cõng vác

 Trong kiếp số hằng sa

 Tận tâmcung kính

 Lại đem dưng đồ ngon

 Y phục báu vô lượng

 Và các thứ đồ nằm

 Cùng các món thuốc thang

 Gỗ ngưu đầu, chiên-đàn

 Và các vật trân báu

 Để dựng xây tháp miếu

 Y báu lót trên đất

 Như các việc trên đây

 Đem dùng cúng dường Phật

 Trải số kiếp hằng sa

 Cũng không đền đáp được

 Các Phật thật ít có

 Đấng vô lượng vô biên

 Đến bất khả tư nghì

 Đủ sức thần thông lớn,

 Bậc vô lậu vô vi

 Là vua của các pháp

 Hay vì kẻ hạ liệt

 Nhẫn việc cao thượng đó,

 Hiện lấy tướng phàm phu

 Tùy cơ nghi dạy nói

 Các Phật ở nơi pháp

 Được sức rất tự tại

 Biết các hàng chúng sanh

 Có những điều ưa muốn

 Và chí lực của nó

 Theo sức nó kham nhiệm

 Dùng vô lượng thí dụ

 Mà vì chúng nói pháp,

 Tùy theo các chúng sanh

 Trồng căn lành đời trước

 Lại biết đã thành thục

 Hay là chưa thành thục

 Suy lường những điều đó

 Phân biệt biết rõ rồi

 Ở nơi đạo Nhứt thừa

 Tùy cơ nghi nói ba.

 

GIẢNG:

Ngài Ma-ha Ca-diếp nói hàng Thanh văn tu pháp Tứ đế chứng quả A-la-hán. A-la-hán là bậc sạch hết lậu hoặc, xứng đáng cho trời người cúng dường nên gọi là Ứng Cúng. Tuy xưa gọi A-la-hán là bậc Ứng Cúng, nhưng nay xét kỹ lại thì quả Thanh văn hãy còn hạn hẹp chưa xứng cho trời người cúng dường. Bấy giờ các ngài Thanh văn, nhận ra Tri kiến Phật mới thật xứng đáng cho trời người cúng dường. Đó là ngài Ma-ha Ca-diếp kể lại công ơn giáo hóa vô cùng lớn lao của Phật. Nhờ công giáo hóa của Phật nên các ngài mới đến được chỗ cứu kính chân thật.

Công ơn giáo hóa sâu dày của Phật cũng như của Thầy Tổ, đối với người học đạo lôi thôi thì họ không thấy không biết, vì họ không nhận được sự lợi ích, vẫn còn mê mờ khổ đau. Còn người học Phật chân chánh, càng tu càng thấy công ơn của Phật đối với chúng ta lớn lao vô kể, và công ơn của Thầy Tổ trực tiếp hướng dẫn chúng ta tu học cũng không phải nhỏ. Tại sao vậy? Vì ở thế gian chúng ta học về ngôn ngữ, luận lý, công nghệ, giúp cho chúng ta khôn ngoan lanh lợi, ăn nói lưu loát. Có nghề nghiệp để sanh sống thì chúng ta có danh vị quyền lợi, được giàu sang no ấm, cao lắm là một đời người bốn năm mươi năm, mà chúng ta còn mang ơn thầy dạy suốt đời. Đối với đức Phật, từ vô lượng kiếp chúng ta vô minh tạo nghiệp, đi trong luân hồi sanh tử chịu khổ triền miên. Nay được Phật chỉ dạy cho phương pháp tu hành, nhận ra Tri kiến Phật thoát ly sanh tử, đời đời kiếp kiếp không còn khổ đau. Như vậy, công ơn của Phật đối với chúng ta chừng bao nhiêu? Không thể tính kể, khó mà đền đáp! Cho dù tâm cung kính đảnh lễ, đầu đội Phật, vai cõng Phật, hoặc dâng cúng thức ăn, y phục, thuốc thang, sàng tòa toàn bằng vật quí báu, hoặc xây tháp miếu thờ tượng Phật trải qua vô lượng kiếp, cũng không đền đáp được công ơn của Phật. Tại sao vậy? Vì tất cả việc làm đó đều là hình thức, là tướng sanh diệt nên có giới hạn. Còn Phật chỉ bày Tri kiến Phật là cái không hình tướng, không giới hạn, chúng ta nhận ra và hằng sống với nó thì dứt khổ đau vĩnh viễn. Lấy cái giới hạn mà đáp cái vô hạn làm sao đáp được? Khi đã biết ơn Phật đối với chúng ta lớn lao vô kể, thì cái ơn gần nhất là Thầy Tổ, đã có công nối tiếp nhắc nhở lời Phật dạy cho chúng ta nghe để tu, thì công ơn ấy cũng không thể kể xiết.

Vì vậy ngài Ma-ha Ca-diếp tán thán công ơn của Phật không thể tính kể, không thể đền đáp. Vì thương và làm lợi ích cho đệ tửđức Phật đã phương tiện, tùy nghi phân biệt giảng dạy từ thấp lên cao, cuối cùng đưa các ngài từ quả vị Thanh văn đến đạo Nhất thừa rốt ráo.
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
07/06/2010(Xem: 57854)
09/06/2010(Xem: 32781)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.