- 00-lời Đầu Sách
- 01-pháp Hội Nhân Do
- 02-thiện Hiện Khải Thỉnh
- 03-đại Thừa Chánh Tông
- 04-diệu Hạnh Vô Trụ
- 05-như Lý Thật Kiến
- 06-chánh Tín Hy Hữu
- 07-vôđắc Vô Thuyết
- 08-y Pháp Xuất Sanh
- 09-nhất Tướng Vô Tướng
- 10-trang Nghiêm Tịnh Độ
- 11-vô Vi Phước Thắng
- 12-tôn Trọng Chánh Giáo
- 13-như Pháp Thọ Trì
- 14-ly Tướng Tịch Diệt
- 15-trì Kinh Công Đức
- 16-năng Tịnh Nghiệp Chướng
- 17-cứu Kính Vô Ngã
- 18-nhất Thể Đồng Quán
- 19-pháp Giới Thông Hoá
- 20-ly Sắc Ly Tướng
- 21-phi Thuyết Sở Thuyết
- 22-vô Pháp Khả Đắc
- 23-tịnh Tâm Hành Thiện
- 24-phước Trí Vô Tỷ
- 25-hóa Vô Sở Hóa
- 26-pháp Thân Phi Tướng
- 27-vô Đoạn Vô Diệt
- 28-bất Thọ Bất Tham
- 29-uy Nghi Tịch Tĩnh
- 30-nhất Hiệp Tướng Lý
- 31-tri Kiến Bất Sinh
- 32-ứng Hoá Phi Chân
KINH KIM CANG
GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Bản giảng này là y theo bản dịch của
ngài Tam tạng pháp sư Cưu-ma-la-thập, vì bản này được công nhận là văn chương
lưu loát và sâu sắc hơn hết. Nếu xem lại bản của ngài Nghĩa Tịnh cũng như của
ngài Huyền Trang, chúng ta thấy cả hai bản dịch đều nặng về văn nghĩa. Ngài
La-thập không kẹt trong văn nghĩa, chỉ cốt làm sao cho ta nhận được lời Phật
dạy, ý Phật nói, nên
văn dịch của Ngài thâm thúy và gẫy gọn dễ hiểu.
Thái tử Chiêu Minh
đời Lương, khi đọc Kim Cang, lãnh hội được ý chỉ nên chia quyển kinh làm ba
mươi hai phần để cho người đọc dễ nhận hiểu.
- Kim Cang là một chất cứng hay phá các thứ khác mà các kim loại khác
không phá được nó.
- Bát-nhã là âm theo tiếng Phạn.
- Ba-la-mật là âm theo tiếng Phạn.
- Kinh là chữ Hán.
Đề kinh gồm cả chữ Hán lẫn chữ Phạn. Người Trung Hoa khi dịch kinh, chữ
nào dịch được thì dịch, chữ nào không thể dịch hết nghĩa thì để nguyên âm
tiếng Phạn.
Bát-nhã nghĩa chánh là trí tuệ.
Ba-la-mật hoặc dịch là đến bờ kia hoặc dịch là cứu kí�nh viên mãn. Trí
tuệ được cứu kính viên mãn gọi là Bát-nhã ba-la-mật, vì nếu chỉ nói "trí
tuệ" e có lầm lẫn. Ở thế gian người khôn ngoan lanh lợi cũng gọi là người
có trí tuệ, thế nên từ ngữ "Trí tuệ Bát-nhã" là để giản trạch cho
đừng lầm với trí tuệ của người thế gian. Trí tuệ Bát-nhã là trí tuệ thấu được
lý thật, thấy được thể chân thật của các pháp, không còn kẹt trong các kiến
chấp, trong những cái nhìn thiên lệch chưa thấu đáo. Do thấu được lẽ thật, nên
trí tuệ này khi đến chỗ cứu kính chẳng những phá được tất cả tà thuyết ngoại
đạo mà còn dẹp hết những mê lầm chấp trước của mọi người. Cho nên khả năng công
phá đó vượt hơn tất cả, dụ như kim cương là chất cứng nhất có thể phá tan các
kim loại khác mà các thứ khác không phá hoại được nó.Kim Cang Bát-nhã ba-la-mật
là một trí tuệ vững chắc, kiên cố phá dẹp tất cả tà thuyết ngoại đạo làm cho
chúng ta sạch hết những chấp trước sai lầm, những mê mờ đen tối để đến bờ giải
thoát, giác ngộ.
Kinh là những
lời giảng dạy của đức Phật góp lại thành bộ. Kinh là khế kinh tức là khế lý và
khế cơ. Tất cả những kinh Phật đều phải đủ hai nghĩa khế lý khế cơ,
ĐOẠN 1
ÂM:
PHÁP HỘI NHÂN DO.
Như thị ngã văn: Nhất thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên dữ
đại Tỳ-kheo chúng thiên nhị bách ngũ thập nhân câu. Nhĩ thời Thế Tôn thực thời,
trước y trì bát, nhập Xá-vệ đại thành khất thực. Ư kỳ thành trung thứ đệ khất
dĩ, hoàn chí bổnxứ. Phạn thực ngật�, thu y bát, tẩy túc dĩ, phu tòa nhi
tọa.
DỊCH:
NGUYÊN DO CỦA PHÁP HỘI.
Tôi nghe như vầy: Một hôm đức Phật ở nước Xá-vệ (Sràvasti) tại rừng Kỳ-đà
(Jeta) trong vườn Cấp Cô Độc cùng với chúng đại Tỳ-kheo là một ngàn hai trăm
năm mươi vị. Khi ấy gần đến giờ thọ trai, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào đại
thành Xá-vệ khất thực. Trong thành ấy, Ngài theo thứ lớp khất thực xong, trở vềnơi chúngở. Thọ trai rồi, Ngài dẹp y bát, rửa chân, trải tòa
ngồi.
GIẢNG:
Đoạn này diễn tả pháp hội Phật nói kinhKim Cang.
Phần đầu chỉ cho lục chủng chứng tín. Sáu điều này mở đầu kinh nào cũng
như thế cả. Đây giống như một lối biên bản của ngài A-nan (Ananda) để cho thấy
lời Ngài nói có giá tri� thật.
"Như thị ngã văn" là "Tôi nghe như vầy", chỉ cho
người nghe và pháp được nghe. "Tôi" chỉ người nghe tức ngài A-nan.
"Như vầy" là pháp được nghe tức là đề tài trong buổi thuyết pháp.
"Nhất thời" chỉ thời gian. Vì thuở xưa thời gian mỗi nước mỗi khác
cho nên chỉ nói một hôm, chớ không xác định hôm đó là mấy giờ ngày mấy tháng
mấy.
Phật là vị chủ tọa trong buổi nói pháp.
Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên là nơi Phật thuyết pháp.
Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên: Trưởng giả Cấp Cô Độc tên thật là Tu-đạt-đa
(Sudatta), do ông hay bố thí, cứu giúp những người nghèo khổ cô độc nên được
gọi là Cấp Cô Độc. Ông muốn mua vườn của thái tử Kỳ-đà để cất tinh xá thỉnh
Phật đến thuyết pháp. Thái tử bảo ông đem vàng lót đầy vườn thì thái tử sẽ bán
vườn cho ông. Khi ông trải vàng gần xong, thái tử vui vẻ bảo thôi đừng chở vàng
thêm nữa và thái tử cũng xin cúng tất cả cây cối trong vườn cho đức Phật, do đó
nên thành tên rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Độc.
Chúng đại Tỳ-kheo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị là cử tọa. Thời gian,
nơi chốn và số cử tọa cho thấy bài kinh này không phải tự ý ngài A-nan nói, mà
do Ngài nghe trong hội thuyết pháp gồm cả thảy một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo.
Sáu điều trên đây gọi là lục chủng chứng tín, nghĩa là sáu điều làm bằng
chứng để cho chúng ta tin kinh này không phải tự ý ngài A-nan nói ra, mà chính
là Ngài thuật lại buổi thuyết pháp của đức Phật.
Đến phần thứ hai tả cảnh Phật sắp nói pháp.
Khi ấy là buổi sáng gần đến giờ thọ trai, đức Thế Tôn đắp y mang bát vào
thành Xá-vệ khất thực.
Khất thực theo thứ lớp: Nếu hàng phật tử thỉnh thọ trai thì không cần
theo thứ lớp, cứ đi thẳng đến nhà thỉnh mình. Còn khất thực theo thứ lớp, là
trong xóm có nhà nghèo, nhà giàu, cứ tuần tự đến nhà thứ nhất, nếu không được cúng
dường thì đến nhà thứ hai, thứ ba v.v. không phân biệt giàu nghèo đến khi được
cúng dường thì về.
Thọ trai xong, xếp y, dẹp bát, rửa chân rồi, trải tòa ngồi kiết già. Đoạn
này tả lại cuộc sống bình dị của đức Phật, sáng đi khất thực, về ăn xong rửa
bát, xếp y, rửa chân, trải tòa ngồi kiết già, sắp nói chuyện với chúng. Đó là ý
thâm sâu muốn chỉ rằng chân lý không ngoài việc bình thường để đánh tan lòng
hiếu kỳ, tưởng chân lý là những gì mầu nhiệm ngoài việc bình thường. Thấy được
chân lý trong việc bình thường là thấy đạo, nếu trái lại là lạc hướng.
Khi ngài Triệu Châu Tùng Thẩm hỏi ngài Nam Tuyền "Thế nào là đạo?"
thì Nam Tuyền trả lời "Bình thường tâm thị đạo", nghĩa là tâm bình
thường là đạo.
Ông Lý Tường đến hỏi ngài Dược Sơn Duy Nghiễm "Thế nào là đạo?" Ngài bảo "Vân tại thanh thiên, thủy tại bình", nghĩa là mây trên trời xanh, nước trong bình. Việc bình thường này hợp với tinh thần Đại thừa.