KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương III:
CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.1.1.9. SÂN TÂM BẤT THỌ HỐI GIỚI
(tâm sân hận,
không chịu tiếp thọ sám hối)
Kinh
văn:
1. Phiên
âm:
Từ câu “Nhược
Phật tử tự sân, giáo nhân sân...” cho đến câu “thị Bồ Tát Ba La Di tội”.
2. Dịch
nghĩa:
Nếu Phật tử
tự mình giận, bảo người giận, duyên giận, nhân giận, cách thức giận, nghiệp
giận. Người Phật tử lẽ ra phải làm sao cho chúng sanh được những căn lành,
tránh sự gây gổ, thường có lòng từ bi, hiếu thuận. Nếu trái lại đối với tất cả
chúng sanh, cả đến loài phi chúng sanh, mà đem lời nhục mạ, lại thêm dùng tay
chân, dao gậy để đánh đập mà vẫn chưa hả dạ. Thậm chí, nạn nhân kia lấy lời nhỏ
nhẹ xin cầu sám hối tạ tội, nhưng vẫn không nguôi giận, Phật tử này phạm lấy Bồ
Tát Ba La Di tội.
Lời giảng:
Đối với Bồ
Tát, tội lỗi của sân nặng hơn tham. Chẳng hạn tham có được đồ chúng đông đảo
nên tiếp cận với chúng sanh, thường cùng chúng sanh giao tiếp, liên quan mật
thiết. Còn sân hận là thứ ác độc làm tổn hại người, không thể thường qua lại
lui tới với chúng sanh. Dù có ý muốn tiếp xúc với chúng sanh, nhưng chúng sanh
đã biết tính nóng giận của Bồ Tát, sẽ ly khai xa lìa thì làm sao nhiếp hóa
chúng sanh?
Cho nên, đứng về
phương diện lợi sanh thì không có thứ ác pháp nào có thể siêu thắng hơn một tâm
niệm sân của Bồ Tát. Tại sao vậy?
Vì thứ sân độc
này khiến chúng sanh có thể giáo hóa đều xa lánh. Ngoài ra còn có đủ trăm nghìn
thứ chướng ngại như chướng ngại hạnh nhẫn nhục của Bồ Tát, phá hoại tâm đại bi
của Bồ Tát.
Tâm đại bi là
động lực duy nhất bạt trừ thống khổ cho chúng sanh. Chúng sanh bị bất cứ thống
khổ gì, Bồ Tát đều nhằm vào bi tâm của mình để bạt trừ khổ não cho chúng sanh. Nhưng
khi sân tâm phát khởi, thì quên hẳn sự thống khổ của chúng sanh, nên chẳng
những không giải trừ lại còn làm tăng sự thống khổ, gây tổn hại cho chúng sanh.
Cho nên vị Bồ Tát chân chánh phát tâm độ sanh, phải luôn an trụ trên tâm từ bi,
thương xót nỗi thống khổ của chúng sanh. Thấy chúng sanh ngu si, vô trí lại
càng đáng thương hơn nữa, nên từng giờ, từng phút tìm cách giải quyết sự khó
khăn khổ não cho chúng sanh, không nên sân hận làm tăng gia sự thống khổ cho
chúng sanh.
Bồ Tát vì hóa độ
chúng sanh trong sanh tử, thà hy sinh cảnh giới an vui tịch diệt Niết Bàn thì
không nên phát đại sân nộ đối với chúng sanh. Nếu Bồ Tát khởi tâm sân hận sẽ
hành động những việc không phải đối với chúng sanh. Như vậy làm sao có thể tu
học hạnh Bồ Tát tự lợi, lợi tha?
Hơn nữa, Bồ Tát
lấy nhẫn nhục làm bản hoài. Dù chúng sanh có đến làm não loạn mình cũng không
nên đối với chúng sanh khởi tâm sân hận.
Nên biết chúng
sanh não loạn, đánh mắng, khủng bố, giết hại mình hoặc trói cột mình đều do nơi
ác nghiệp thuở quá khứ của mình phát sinh, nên mới sinh ra những việc bất như ý
ấy. Như thế chỉ nên buồn trách mình, không nên đối với chúng sanh sân hận quở
trách.
Lại nữa, nói về
luật nhân quả, sở dĩ người đối đãi với mình như vậy là do mình ở thời quá khứ
đã từng não hại người. Do nghiệp nhân đó, mà hiện phải cảm thọ những nỗi thống
khổ như vậy. Nếu nay ta không an tâm nhẫn thọ những điều này thì chỉ gieo thêm
nhân khổ đến tận đời vị lai.
Vì thế, đối với
lỗi lầm của người khác, không chịu an tâm nhẫn thọ bỏ qua là tự mình chuốc lấy
sự phiền phức cho chính mình và tự mình trói buộc lấy mình. Cho nên hành giả Bồ
Tát ngay lúc phát sanh nóng giận, dù không nghĩ đến chúng sanh, cũng phải nghĩ
đến mình. Khi có tư tưởng như vậy thì tâm nóng giận tự nhiên không phát
sanh.
Lại nữa, trường
hợp chúng sanh gây ra những chuyện phi lý làm mình khổ, không phải là tội lỗi
của của chúng sanh mà là do ma phiền não sai sử làm như vậy. Chính chúng sanh
kia cũng không làm chủ được.
Ta hôm nay đã
phát tâm Bồ Đề, cầu quả vô thượng Chánh Giác, phải vì chữa trị đại bịnh phiền
não cho chúng sanh. Ngay lúc bệnh sân phiền não của chúng sanh phát hiện, chính
là lúc ta phải đối trị cho chúng sanh. Phải cấp thời dùng thuốc pháp tối thượng
từ bi trị liệu căn bệnh sân phiền não cho chúng sanh, mới giúp cho chúng sanh
được thuyên giảm, dứt trừ vĩnh viễn, mới là hợp đạo.
Như vậy Bồ Tát
không nên chấp theo sở kiến thông thường của chúng sanh mà phát đại sân nộ, lôi
đình, đem giận trả giận.
Lại nữa, chúng
sanh ở trong sanh tử thì cả mình và người đều đau khổ, chúng sanh không hiểu
Phật pháp nên ngu si, mê muội mới đến tăng gia khổ não cho ta. Chúng ta thực
lòng không nên buồn trách họ. Ta đã phát Bồ Đề tâm, đã biết chúng sanh trong
sanh tử toàn là khổ não, thì lẽ nào lại làm tăng sự khổ não giống như chúng
sanh vô trí kia? Chẳng những ta không nên làm như vậy mà còn phải tùy theo sức
mình, khả năng mình khiến cho chúng sanh xa lìa những thống khổ, mới là một
Phật tử hành Bồ Tát đạo.
Vì ta lúc tối sơ
phát tâm Bồ Đề, chính là phải vì tất cả chúng sanh gánh vác lấy gánh nặng.
Chẳng những đối với những nỗi đau khổ nhỏ nhặt phải nhẫn thọ cho chúng sanh, mà
đại kịch khổ trong địa ngục, ta cũng phải lãnh thọ thế cho chúng sanh. Có như
vậy mới không trái với bổn thệ của ta.
Nếu không thể
nhẫn thọ những nỗi khổ lớn hay nhỏ này, tự mình không thể điều phục được, thì
làm sao khiến cho chúng sanh xa lìa các phiền não? Suy tư như thế, tự nhiên
không bao giờ sân hận.
Lại nữa, Bồ Tát
đã thọ sanh trong uế độ này, thế giới ác trược dĩ nhiên phải có những điều bất
như ý. Lúc những việc bất như ý hiển hiện, chỉ có tự mình phải điều phục lấy
mình để thoát khỏi cảnh khổ bất như ý ấy, đâu nên phát đại sân nộ?
Như người đi vào
trong rừng rậm đầy gai góc, đương nhiên là phải bị gai góc đâm vào thân. Lúc ấy
chỉ tìm cách làm thế nào mau ra khỏi rừng gai góc ấy. Nếu sân hận mắng nhiếc
những gai nhọn đâm vào thân mình thì thật hoàn toàn không hợp đạo lý.
Bồ Tát lại suy
tư như vầy: sanh mạng nhục thể của tất cả chúng sanh đều không vĩnh cửu. Niệm
niệm đều tiến đến chỗ hoại diệt. Xưa nay không một sát na nào dừng trụ. Vị Bồ
Tát có đủ trí huệ, đối với sanh mạng nhục thể vô thường hoại diệt ấy, không nên
nhẫn tâm khởi niệm sân hận. Lại không nên vì sân hận mà não hại chúng sanh,
thậm chí còn đoạn tuyệt sanh mạng của chúng sanh!
Hành giả Bồ Tát
đối với tất cả chúng sanh não hại mình đều phải suy tưởng nhiều khía cạnh như
vậy, để chỉ thấy rằng chúng sanh đáng thương xót. Đối với tất cả đều phải dung
thứ, nhờ đó có thể nhẫn thọ tất cả sự não hại của chúng sanh không khởi tâm sân
hận nữa.
Bồ Tát thực hành
sáu pháp Ba La Mật, nhất là Nhẫn Nhục Ba La Mật, nhờ chúng sanh làm trợ duyên
để thành tựu. Vì thế nếu không có chúng sanh thì công đức sáu ba la mật không thể
viên thành. Hơn nữa, Bồ Tát tu hạnh Nhẫn Nhục, cần phải có người đến não hại
thì Bồ Tát mới có thể thành tựu hạnh Nhẫn Nhục. Nếu không như vậy thì hạnh Nhẫn
Nhục của Bồ Tát làm sao tu thành được!
Ở Tây Phương Cực
Lạc Tịnh Độ, không cần tu pháp nhẫn nhục, vì ở trong cõi ấy đều là chư Thượng
Thiện Nhân câu hội, không có ai não hại ai. Ở uế độ Ta Bà này, ai đến não hại
Bồ Tát, thì người ấy chính là người giúp thành tựu hạnh Nhẫn Nhục cho Bồ Tát,
và người ấy cũng chính là thiện tri thức của Bồ Tát. Thế thì đối với người ấy, tạ
ơn không xiết, sao lại trở nên sanh tâm sân hận?
Không lưu tâm tạ
ơn đã là việc không đúng rất lớn, lại còn sanh tâm tức giận với người ấy thì
đâu phải là tư cách của một vị Bồ Tát? Vì thế, Bồ Tát đối với chúng sanh đến
não hại mình, chỉ nên cám ơn, không nên sân não!
Bồ Tát quan sát
vạn vật, vạn sự, tất cả các pháp trong vũ trụ đều từ nhân duyên sanh. chúng
sanh sân hận, đánh đập Bồ Tát cũng là do nhân duyên. Duyên bên ngoài như do tay
chân, gậy gộc, gươm đao của chúng sanh. Duyên bên trong do sanh mạng nhục thể
của mình. Nhân duyên trong ngoài kết hợp lại mới thành việc đánh đập, mạ nhục.
Vì thế, không nên đơn phương sân hận với người, vì nếu sân hận với người thì
nên sân hận với chính mình.
Tại sao nếu sân
hận với người thì nên sân hận với chính mình?
Vì có nhục thân
của mình, người mới đến đánh mắng mình. Đánh đập mắng nhiếc đã do nhân duyên mà
thành, tất nhiên không có thật tánh. Thế thì đã không có người năng đánh mắng,
cũng không có mình là kẻ bị đánh mắng.
Suy tư như thế
thì Nhẫn còn không có cơ sở để thành lập, thì làm sao có pháp gì gọi là Sân?
Nên kinh Pháp Cú nói:
Tri sân đẳng
dương diệm,
Nhẫn diệc vô sở
nhẫn.
Dịch:
Biết sân như khí
nóng,
Nhẫn cũng không
có chỗ để nhẫn.
(Dương: khí dương;
diệm: nóng bừng. Dương diệm là sức nóng của vầng thái dương, ở những chỗ trống
trải như sa mạc buổi trưa, trời hạ, sức nóng bốc lên)
Kinh Tư Ích cũng
dạy: “Thân mình cùng kẻ oán địch và đao trượng đều do tứ đại sanh. Với địa,
thủy, hỏa, phong chưa từng thấy có sự tổn thương. Dầu cho thân này có bị lóc
từng mảnh thịt, nhưng tâm ấy vẫn thường nhiên bất động. Biết rõ tâm không phải
ở trong, không phải ở ngoài sanh ra. Các pháp niệm niệm, sanh diệt không ngừng.
Tánh của nó thường không tự lập. Ở trong ấy không có người mạ nhục, cũng không
có ai là người cung kính. Tất cả pháp đều như huyễn, như mộng, nên Bồ Tát đối
với việc mạ nhục, chẳng những không sanh tâm sân hận. Trái lại, càng gia tăng
sức nhẫn nhục cho chính mình. Bồ Tát đối với người cung kính mình chẳng những
không sanh tâm vui mừng, ưa thích, thậm chí cũng không xem sự cung kính ấy là
việc để mình hưởng thụ”.
Bồ Tát chẳng những
không nên đối với chúng sanh sanh tâm sân hận, bức não không duyên cớ, mà chính
chúng sanh cố ý đến não hại Bồ Tát, Bồ Tát cũng vận dụng những phương tiện suy
tưởng để nhẫn thọ.
Trong kinh dạy
ba cách tư duy để nhẫn thọ sự não hại của người khác:
1. Trách nghiệp
khiên ương tư (suy nghĩ tự trách do nghiệp lực chiêu cảm tai ương):
Bồ Tát khi bị
người bức bách não hại, phải suy tưởng như vầy: Ta bị những nỗi thống khổ tai
nạn như vầy, không phải do nhân duyên gì khác, mà chính do nghiệp lực của ta đã
tạo gây trong thời quá khứ theo đuổi, khiến ta phải chịu sự bức bách, não hại
của người. Nếu ta không nhẫn thọ thì sẽ bị gia tăng nhân thống khổ và tự trói
cột lấy mình. Như thế là tự mình không thương lấy mình. Chỉ có nhẫn thọ mới
tránh khỏi khổ lớn trong tương lai. Thế nên đối với sự bức não của người khác,
chúng ta cần phải nhẫn thọ.
2. Tánh gia hình
khổ tư (tư duy rằng tự tánh của sinh mạng là hành khổ)
Hành khổ là cái
khổ của sự sanh diệt không ngừng. Người bức bách, não hại và người bị bức bách,
não hại, tự thể tánh sanh mạng của cả hai đều bị khổ nên lẽ ra không nên ai bức
bách, não hại để gia tăng sự thống khổ cho nhau.
Hiện chúng sanh
vô tri mê tối, vô cớ đến não hại thân ta, khiến thân ta chịu rất nhiều sự thống
khổ. Lỗi ấy là do người, nhưng ta là người đã hiểu được đạo lý thì không nên hành
động theo sự hiểu biết của những người thông thường, làm gia tăng sự thống khổ
cho chúng sanh. Nên dù hiện tại ta bị thống khổ đến mức độ nào, cũng đều phải
nhẫn thọ, tuyệt đối khống được trở lại não hại người.
3. Dẫn liệt
huống thắng tư (tư duy đem sự kém thua so sánh với cái thắng):
Là những hành
giả trong Nhị Thừa, mục đích là mong cầu tư lợi, còn không làm khổ chúng sanh.
Ta là Bồ Tát Đại Thừa, lấy lợi tha làm bổn nghiệp duy nhất, nên khi thấy chúng sanh
khổ, ta phải giúp họ bạt trừ không hết, sao lại làm việc gia tăng sự thống khổ
cho chúng sanh? Suy tư như thế rồi tự nhiên an nhẫn với các thống khổ.
Nho gia Trung
Quốc có nói: “Giữa người với người tương xử với nhau, không làm sao tránh khỏi
việc oán hận mất lòng, nhưng nhất quyết không nên dùng oán trả oán, mà phải
dùng trực trả oán, dùng đức báo oán”.
Dùng đức báo oán
là như thế nào?
Như người đem
đại thống khổ đến cho ta, ta lại đem đại an lạc trả lại cho người. Đó là dùng
Đức để báo oán.
Dùng trực trả
oán là như thế nào?
Như có người làm
cho ta chịu nhiều đau khổ, ta đừng buồn giận họ, mà nên tự nghĩ đấy là nợ ta
phải trả. Đấy là dùng Trực báo oán.
Nếu người người
đều có thái độ như thế thì trên thế gian này làm sao có thể xảy ra không khí
bạo ác hung tàn, nhưng nhìn khắp cả nhân loại trên thế gian hiện nay, mấy ai
được quan niệm lương hảo này? Khắp mọi nơi đều diễn ra cảnh bạo lực hung tàn.
Bạo lực càng mãnh liệt chừng nào càng được mọi người xem là anh hùng đệ nhất.
Vì thế, không lạ gì trên toàn thế giới, nơi nào cũng nhiễu nhương, không an ổn.
Nhân loại dường như đang sống trên ngọn núi lửa, giờ giờ phút phút trong cảnh
sợ sệt, hãi hùng.
Vì thế, chúng ta
phải nhận chân rằng: hạnh nhẫn nhục của Phật pháp thật là một sự kiện tối cần
yếu, phải luôn được đề xướng và thực hành một cách thiết thực.
Dù là người đến
xúc phạm bạn, nhưng nếu họ đã biết lỗi, không muốn cho bạn sanh phiền não, nội
tâm không an vui, nên đến tạ tội với bạn. Là một vị Bồ Tát, bất luận là như thế
nào, khi ấy, bạn cần phải tiếp thọ sự sám hối tạ lỗi của chúng sanh để mối quan
hệ giữa hai bên được hòa thuận trở lại, không nên tạo sự căng thẳng mãi, như thế
mới là hợp đạo.
Nhưng nếu trong
khi ấy, nội tâm của bạn vẫn ôm ấp mối sân hận cao độ, không tỏ thái độ tiếp thọ
sự sám hối tạ lỗi của chúng sanh. Đấy không còn là lỗi của chúng sanh mà hoàn
toàn là lỗi của Bồ Tát. Vì vậy, đề mục của giới này là “sân tâm bất thọ hối
giới”.
Chữ Giới là ngăn
ngừa, cấm chỉ không cho phát sanh tội lỗi nói trên. Giới này thất chúng đệ tử
đều có thể vi phạm. Nhưng quy định khinh hoặc trọng không giống nhau, là do
quan niệm sai khác rất lớn giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa.
Đại Thừa Bồ Tát
lấy việc tiếp độ chúng sanh làm nhiệm vụ duy nhất. Bất cứ mọi lúc tới lui, qua
lại, tiếp xúc với chúng sanh đều phải tỏ thái độ thân thiết đầy thiện cảm, và
sắc diện luôn hòa vui. Nếu Bồ Tát đối với chúng sanh thường sanh nóng giận, sắc
diện lộ vẻ sân nộ, không đúng với tư cách tiếp đãi người. Do vậy, sự quan hệ giao
tiếp với chúng sanh càng thêm cách biệt. Cho nên tội này rất nặng.
Thanh Văn Tiểu
Thừa lấy tư lợi làm mục đích duy nhất, nên không cần giao tiếp thường xuyên với
chúng sanh. Nhưng đôi khi bị người gây chướng ngại việc tu đạo của mình nên
khởi niệm sân hận đối với người. Việc ấy dù không nên, nhưng chẳng qua chỉ mắc
tội nhỏ Đột Kiết La trong tụ thứ bảy mà thôi.
Chúng sanh không
ai thích nhìn thấy thái độ của người nổi trận lôi đình. Trong kinh dạy:
Chúng sanh bất
hỷ kiến,
Vô nghịch, vô
sân nhuế.
Dịch:
Tất cả chúng
sanh không thích thấy thái độ giận dữ nên đừng trái nghịch, đừng nổi sân
nhuế.
Vì người lúc nổi
giận, hiện ra tướng hung bạo, thân tưng bừng, miệng la hét, tâm phẫn nộ, làm
cho ai trông thấy cũng sợ. Tự mình không thấy biết, nhưng những người xung
quanh nhìn thấy rất rõ ràng. Phụ nữ khi phát sân nộ, người ta gọi là Dạ Xoa
cái, đàn ông khi nổi giận đùng đùng gọi là quỷ La Sát, mặt mày rất khó xem,
không ai thích nhìn thấy.
Sân tâm một khi
đã phát sanh rồi thì ba nghiệp đều gồm đủ như sắc diện lộ vẻ sân si, cử chỉ
hung thần ác quỷ, chính là thân nghiệp. Miệng thốt những lời thô ác, người khác
không muốn nghe lọt vào tai, đấy là khẩu nghiệp. Trong tâm phát sanh sân nộ
hung hăng, ấy là ý nghiệp. Một niệm sân khi nổi dậy, cả ba nghiệp đều hiện bày.
Thế thì hành giả trong Phật pháp không nên lưu tâm đặc biệt đến giới này
sao?
Đức Phật lại dạy
đại chúng rằng: “Nếu Phật tử là một vị Đại Thừa Bồ Tát, bất luận là tự sân,
hoặc bảo người sân, đều không thể được. Vì sân hận là thứ đại tặc cướp mất công
đức. Đã làm thương tổn từ tâm của mình lại cũng tổn thương đạo niệm của mình.
Đối với người đã không ích, với mình cũng bất lợi, thế thì hà tất chi mà sanh
sân hận, phát cơn nóng giận đùng đùng?”
Tự sân là tự
mình ôm ấp niệm sân hận bên trong, hàm chứa độc ác trong nội tâm, phát lộ ra
thân, khẩu, nghiệp bên ngoài, làm những việc bạo ác hung tàn, khiến chúng sanh
trông thấy phải sợ hãi, kinh hoàng.
Bảo người sân là
bảo người khác phát đại sân nộ đối với kẻ khác. Trường hợp này có người cho
rằng: tự mình nổi giận, muốn phát lúc nào cũng được, không có vấn đề gì khó;
còn bảo người khác nóng giận thì họ đâu dễ dàng gì nghe theo mình, nên khi bảo
họ nổi giận, mà họ liền nổi giận thì đâu có hợp lý?
Lời nói ấy thật
sai lầm! Nên biết mọi người đều có sẵn tánh hung ác bạo tàn, nên khi bạn bảo họ
nổi nóng, chỉ cần lúc ấy bạn nói vài câu khích động thì tâm họ đang vui vẻ
chuyển sang nóng giận tức thì. Nhưng nếu bạn bảo họ nhường nhịn, họ khó lòng
nghe theo, đôi khi còn không hài lòng, vì cho rằng làm người trên thế gian,
việc gì phải nhu nhược đến thế?
Nhẫn nhịn, nhu
hòa vốn là mỹ đức. Thực tế, đối với những việc đáng nhường nhịn, nhưng khi bảo
người làm thì lại rất khó khăn, còn sân nộ là thứ tội ác mà bảo người làm lại
rất dễ dàng. Do đó, đủ thấy nhân tính đa số là hung bạo, mà nhân từ thì lại rất
ít.
Bảo người khác
sân hận, khái lược gồm ba động cơ:
1. Mình đối với
người có ý không tốt: Nếu mình trực tiếp có thái độ sân si đối với người làm
mình phật ý thì chứng tỏ tư cách thấp kém của mình. Vì vậy, bảo người khác sân
hận với họ để thay mình rửa sự oán hận.
2. Bảo người này
sân hận với người kia, rồi mình đóng vai kẻ có lòng tốt, đi hòa giải đôi bên để
giữ thế trung gian trục lợi.
3. Bảo người sân
hận với những kẻ vốn là cừu địch của họ để cho đôi bên mưu nghịch, giết hại lẫn
nhau. Còn mình làm kẻ bàng quan, nhìn xem đôi bên xung đột, mưu hại lẫn nhau,
nội tâm vô cùng thích thú. Khởi tâm xúi giục người này sân hận với người kia
rất là độc ác. Cả hai trường hợp này: tự mình sân hoặc bảo người sân đều trái
với bi tâm của Bồ Tát và mang tội rất nặng.
Kết thành tội
sân tâm không tiếp thọ sám hối cũng có bốn điều kiện: nhân, duyên, pháp,
nghiệp, phân biệt sơ lược như sau:
1. Sân nhân
(nhân giận): chủng tử sân hận từ vô thỉ, trở lại huân tập, hàm chứa trong tạng
thức. Do chủng tử sẵn có ấy, hiện tại mới phát khởi tâm niệm sân, gọi là sân
nhân.
2. Sân duyên
(duyên giận): tâm niệm sân hận sau khi đã phát sanh, tiếp tục không gián đoạn.
Lại thêm đối tượng sân kia hiện ở trước mắt trợ giúp cho sự sân hận nổi lên, nên
gọi là sân duyên.
3. Sân pháp
(cách thức giận): mưu tính kế hoạch như thế nào để làm cho đối phương phải bị
nhục, như đánh đập, mạ nhục v.v... gọi là cách thức giận.
4. Sân nghiệp
(nghiệp giận): Do ba việc trên hòa hợp để thành tựu nghiệp sân hận, làm cho đối
phương biết rõ mình giận họ, gọi là sân nghiệp.