KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.14. PHÓNG HỎA THIÊU PHẦN GIỚI
(giới phóng hỏa)
Kinh văn:
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử dĩ ác tâm cố...” cho đến câu “...phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử vì ác tâm phóng hỏa, thiêu đốt núi rừng, đồng nội. Từ tháng Tư cho đến tháng Chín, nếu phóng hỏa, làm cháy lan đến nhà cửa, thành ấp, tăng phường, ruộng rẫy của người, và cung điện, tài vật của quỷ thần. Tất cả chỗ có sinh vật không được cố ý thiêu đốt. Nếu cố ý thiêu đốt, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Lời giảng:
Giới “không
hủy báng” cốt yếu khuyên chúng ta không nên làm tổn não người, để cho chánh báo
được yên vui, không phải sống trong niềm lo âu, sợ hãi.
Mục tiêu chính
yếu của giới “không phóng hỏa thiêu đốt” này là cốt khuyên chúng ta không nên
làm thương hại tài vật kẻ khác, để cho y báo được hoàn toàn không hư hại.
Kinh Lăng Nghiêm
dạy: “Một vị tỳ kheo thanh tịnh hay một vị Bồ Tát lúc đi trên đường, không được
tùy ý dẫm đạp cỏ tươi”.
Cỏ tươi còn
không được dẫm đạp, huống chi dùng lửa thiêu đốt núi rừng, đồng nội? Phóng hỏa
thiêu đốt bất cứ nơi nào đều làm tổn hại tài vật, thương hại sinh mạng chúng
sanh. Vì muốn giữ gìn hành động có thể tạo thành tội sát sanh. Hoặc có thể tạo
nên việc phạm giới trộm cắp nên không được thiêu đốt núi rừng, đồng nội, nhà
cửa v.v... Người tu học Phật pháp, nhất là một hành giả Bồ Tát, nếu phóng hỏa
thiêu đốt núi rừng, đồng nội v.v... tất nhiên không tránh khỏi sự phê bình, chê
trách của xã hội. Vì thế, việc phóng hỏa thiêu đốt, nhất định không phải là
hành vi của một vị Bồ Tát lợi sanh.
Tục ngữ có câu:
“Tinh tinh chi hỏa, khả dĩ liệu nguyên” (đốm lửa nhỏ chừng bằng con đom đóm có
thể thiêu đốt cả cánh đồng to rộng).
Lúc đầu mới
phóng hỏa, thấy như không có gì, nhưng nếu sơ ý một chút thì sẽ cháy lan rộng
và sẽ gây nên sự tổn hại rất lớn. Do đó, sự oán trách, chê bai cũng sẽ vô cùng
tận.
Đức Phật vì tâm
đại từ, đại bi, thương xót người cũng như những sanh vật bị hại vì hỏa hoạn,
nên đặc biệt chế lập giới điều này, nghiêm cấm toàn thể Phật tử tu học theo
Phật pháp tuyệt đối không được phóng hỏa. Còn tội lỗi của việc phóng hỏa thiêu
đốt, tùy theo việc tổn thất sinh mạng và tài vật mà quyết định nặng hay nhẹ.
Nếu mức độ tổn thất nhiều thì tội nặng, tổn thất ít thì tội nhẹ.
Sát sanh còn có
chỗ chọn lựa, và sanh mạng bị tổn hại cũng có hạn lượng. Nhưng việc phóng hỏa
gây tổn hại sinh mạng không có hạn lượng và sát sanh không lựa chọn thì tội lỗi
ấy không gì nặng hơn.
Trong Đại Trí Độ
Luận có kể rằng:
Tại một khu rừng
núi lớn, một hôm bỗng nhiên phóng hỏa dữ dội. Trong khu rừng ấy, có một con
chim trĩ thấy vô số chúng sanh bị vùi mình trong biển lửa. Tâm nó không thể nào
cam lòng an nhẫn, liền bay đến chỗ có nước, nhúng ướt hai cánh, rồi bay trở lại
khu rừng đang bị cơn đại hỏa, đem nước trên đôi cánh rưới xuống mong dập tắt
ngọn lửa để cứu vãn sanh mạng vô lượng chúng sanh. Dù là việc làm dùng chén
nước tưới lửa muôn xe, hoàn toàn không ích lợi, nhưng tấm lòng từ bi như vậy
thật là khó thấy.
Chúng ta thử
nghĩ: chim trĩ kia dù sức nhỏ bé, hãy còn cố gắng dùng đôi cánh nhúng nước để
cứu chúng sanh bị hỏa hoạn. Huống chi một vị Bồ Tát lại nỡ lòng trở lại phóng
hỏa thiêu đốt núi rừng, thì còn gì để nói?! Cho nên, dù bất cứ nhân duyên gì mà
phóng hỏa thì tội ấy đều quy về tội tổn hại người, gây sự hư hoại phá hủy tài
vật.
Đức Phật dạy đại
chúng rằng: “Nếu làm một vị Phật tử, đã thọ Bồ Tát giới, nếu vì ác tâm phóng
đại hỏa, thiêu đốt núi rừng, đồng nội trong khoảng thời gian từ tháng Tư cho
đến tháng Chín thì tuyệt đối không được”.
Trong kinh văn
nói “ác tâm”, không có nghĩa là người ấy có ác ý gì, mà ý nói tâm ý người ấy
buông lung, không có một niệm từ bi, thương xót loài vật.
Kinh văn dùng
chữ “phóng đại hỏa” để nhấn mạnh đây không phải sự lầm lẫn nhỏ nhặt, vô ý để
lửa cháy lan mà là cố tâm, hữu ý phóng hỏa để thiêu đốt.
Kinh văn nói:
“Thiêu đốt núi rừng, đồng nội” là ý muốn chứng tỏ phạm vi bị thiêu đốt rất lớn,
sinh mạng và tài vật bị tổn thất rất nhiều.
Kinh văn nói “từ
tháng Tư đến tháng Chín” là quy định về thời gian. Vì ở những quốc gia thuộc
khí hậu lạnh, các loài động vật nhỏ từ những ngày đông miên đã không hoạt động
(tiết Đông thiên quá lạnh, các côn trùng nhỏ đều ẩn sâu dưới mặt đất, ngủ yên
nên gọi là “đông miên”). Từ tháng Tư đến tháng Chín, trời hết lạnh, nên chúng
tỉnh lại, trồi lên mặt đất, hoạt động trở lại bình thường, nên nói là “thức
dậy”. Vì vậy, chẳng những núi rừng, đồng nội rộng lớn là nơi có rất nhiều sinh
mạng, mà một phạm vi rất nhỏ khoảng một tấc vuông, cũng có nhiều sinh vật ở
trong đó sống và hoạt động. Trong khoảng thời gian này, nếu phóng hỏa thiêu đốt
núi rừng, sinh mạng của chúng sanh bị tổn hại thực không thể xiết kể. Vì vậy,
Đức Phật cấm ngặt đệ tử không được phóng hỏa đốt núi rừng, đồng nội trong thời
gian này.
Nếu những quốc
gia thuộc vùng nhiệt đới, ít lạnh thì việc phóng hỏa lại càng phải lưu tâm thận
trọng hơn. Vì các vùng nhiệt đới, các loài sinh vật lớn nhỏ luôn hoạt động và
không có thời kỳ đông miên. Nên chẳng những từ tháng Tư cho đến tháng Chín,
không được phóng hỏa, mà quanh năm cũng không được phóng hỏa để tránh nạn làm
thương tổn rất nhiều sinh mạng.
Ngay chính những
miền hàn đới quá lạnh, nếu phóng hỏa vào lúc tháng Chạp, trong Luật đức Phật
cũng quy định: hàng Phật tử trước khi phóng hỏa, toàn chúng phải đi nhiễu chung
quanh khu ấy trì chú, niệm Phật, luôn hướng về các sinh vật vi tế mà nói rằng:
“Chúng tôi hiện tại vì cần phải thiêu đốt khu rừng này, các người mỗi loại nên
tự di chuyển ra khỏi nơi đây”. Trải qua một thời gian trì chú, niệm Phật và bảo
các loài vật biết như vậy, rồi sau mới được phóng hỏa thiêu đốt. Như vậy mới
không đến nỗi gây tội. Nếu không trì chú niệm Phật, thông báo rộng rãi cho các
loài sinh vật biết, e rằng sẽ gây sự tổn thương cho nhiều loại côn trùng.
Cố nhiên, núi
rừng, đồng nội đã không được, nên “thiêu đốt nhà cửa, thành ấp, tăng phường,
ruộng rẫy của người và cung điện, tài vật của quỷ thần cũng không được”. Kinh
văn nói: “Thiêu đốt nhà cửa của người v.v...” không có nghĩa là cố ý muốn làm
tổn hại của người. Nhưng vì khi đốt núi rừng, đồng nội, do thiếu cẩn trọng, làm
lửa theo thế gió nên cháy lan rộng ra, gây tai hại đến nhà cửa v.v...
Việc này trong
luật Thanh Văn có kể một mẫu chuyện như sau:
Khi Phật còn tại
thế, một hôm Ngài ngự đến thành Khoáng Dã. Thành này ở giữa thành Vương Xá và
thành Ba La Nại, thuộc phía Bắc của sông Hằng. Trước đó, bọn cướp thường tụ tập
nơi đây để cướp phá tài sản dân chúng. Sau chúng bị vua Bình Sa đánh đuổi đi
nơi khác.
Nhà vua là một
Phật tử có tâm từ bi, ngài cho xây dựng kinh đô nơi ấy, giúp dân chúng an cư
lạc nghiệp, không còn bị bọn cướp nhiễu hại.
Khi Phật ngự ở
trong thành, bấy giờ bọn Lục Quần Tỳ Kheo bàn với nhau rằng: - Chúng ta bị quý
Thượng Tọa rầy la, câu thúc, không được tự do tự tại chuyện trò. Chi bằng ra
ngồi ở chỗ đất trống ngoài phòng xá, tùy ý nói chuyện, không bị quở rầy, câu
thúc.
Nào ngờ sau khi
ra ngồi nơi đất trống, quý thầy ấy chẳng những mặc tình cao đàm khoát luận, lại
còn nhặt cỏ khô, củi khô, và các gốc cây lớn đốt lên cho sáng.