Thư Viện Hoa Sen

Quan Điểm Giới Học Của Luật Sư Đạo Tuyên | Thích Trung Nghĩa

04/07/20254:32 SA(Xem: 66)
Quan Điểm Giới Học Của Luật Sư Đạo Tuyên | Thích Trung Nghĩa
QUAN ĐIỂM GIỚI HỌC
CỦA LUẬT SƯ ĐẠO TUYÊN
Thích Trung Nghĩa


luat su dao tuyen
Luật sư Đạo Tuyên
(Ảnh Wikipedia)
Luật sư Đạo Tuyên là bậc tổ sư khai sáng Luật tông. Ngài họ Tiền, người Đan Đồ (nay là Thường châu, tỉnh Giang Tô), cũng có thuyến nói là Hồ châu, tỉnh Chiết Giang. Cha của ngài từng đảm nhiệm Sử bộ thượng thư triều Tùy. Do ảnh hưởng từ gia đình, từ nhỏ đã bộc lộthiên tài văn học cực cao, năm 9 tuổi  sáng tác thơ ca rất hay, năm 15 tuổi học tập đọc tụng kinh Phật, năm 16 tuổi thế phát xuất gia tại đạo tràng Nhật Nghiêm trong cổ thành Trường An, năm 20 tuổi tu hành công phu nghiêm mật. Ngài ẩn tu trong sơn lâm, thực hành định tuệ, sau dời đến chùa Bạch Tuyền trên Nam sơn, chuyển đến tinh xá Sùng Nghĩa, chùa Tịnh Nghiệp. Ngài nghiêm trì giới luật cực độ, tam y được dệt bằng vải thô, ngày ăn một bữa, chỉ là các loại đậu, ra khỏi chùa thì tích trượng không rời thân mình bởi lo làm tổn thương loài sinh vật trên đất, cực lực chuyên tinh thiền định, ngồi không tựa dường, thực hành bát chu tam muội (thiền định thâm sâu, đạt đến tam ma địa). Khai nguyên thích giáo lục, quyển 6 của cao tăng Trí Thăng, khen ngợi về Đạo Tuyên: “Nội tinh tam học, ngoại bác cửu lưu, giới hương thuần khiết..... trước thuật bất tuyệt”. Cửu lưu là chín đại lưu phái học thuật từ triều Tần đến đầu triều Hán. Cuộc đời của ngài, trước tác kinh lục, tư liệu, sử truyện v.v... gồm hơn 200 quyển. 

Sau khi đại sư Huyền Trang du học Ấn Độ trở về Trung Thổ, dưới sự cổ xúy và ủng hộ của vương triều, Huyền Trang tổ chức dịch trường phiên dịch Phật điển Phạn văn sang Hán văn, ngài tiếp nhận chiếu chỉ của triều đình mà tham dự, đảm nhiệm “đại đức chuyết văn”. Ngài trùng tân truyền trao cụ túc giới, sau này ảnh hưởng thâm sâu đối với cách thức thọ giới trong đại giới đàn

Ngài thành tựu đột phá đối với phương diện luật học. Ở chùa Bạch Tuyền, nỗ lực hơn 10 năm nghiêu cứu luật học, chù trọng sưu tầm tư liệu, thuyên thích rất nhiều ý nghĩa mới, đề xuất “phương pháp thuyên thích luật học”, “kiêm nhiếp tư tưởng Đại thừa và Tiểu thừa”, sáng lập thuyết “tâm thức giới thể” (心识戒体). Hệ thống Luật tông tinh nghiêm rộng lớn, lý luận tinh sâu. Có học giả Nhật Bản cho rằng, khi ngài tham gia dịch trường, đã ảnh hưởng tư tưởng duy thức của Huyền Trang rồi sáng lập giới thể luận. Khi Phật giáo Ấn Độ mới du nhập Trung Thổ, về khía cạnh giới luật, chủ yếu là lý giải và hoằng dường một bộ luật đơn giản của Ấn Độ, nên nội hàm chưa thoát khỏi phạm trù bộ phái Phật giáo Ấn Độ, nhưng đến thời ngài thì “Ngài ảnh hưởng tư tưởng phán giáoNhất Phật thừa trong kinh Pháp Hoa rồi phát khởi, bắt đầu vận dụng quan điểm Phật pháp Đại thừa một cách rộng lớn, để lý giải nguyên bản được cho là thanh văn luật thuộc về Tiểu thừa. Và dung phương thức biểu đạt khác nhau của ba tông: Thực pháp tông, giả danh tôngĐại thừa viên giáo tông một cách xảo diệu”, xây dựng hàm nghĩa Đại thừa thanh văn luật trong Tứ phần luật”.

Luật sư Hoằng Nhất là một Luật tăng nổi tiếng thời cận đại, sau khi nỗ lực học tập giới luật, biên soạn thư tịch luật học, phục hưng Luật tông. Hoằng Nhất từng cất công chỉnh lý và hiệu chú nhiều bản điển của ngài, nắm vững phả mạch phát triển của Luật tông, có nhận thức rất thâm sâu đối với Nam sơn luật học, cho rằng “Luật sư Đạo Tuyên sở lập Luật tông trên núi Chung Nam, dựa vào nghĩa lý của kinh Pháp Hoa, kinh Niết-bàn, còn giải thích thông suốt Tiểu thừa luật, thiết lập viên tông giới thể, chánh thuộc về sở học của người xuất gia, cũng làm sáng tỏ ý nghĩa năm giới, tám giới của tại gia”. Lúc Hoằng Nhất mới nghiên cứu luật học, vốn xem nhẹ Luật tông mà chuyên nghiên cứu Căn bản Thuyết nhất thiết Hữu bộ luật, sau đó có một vị cư sĩ khuyên ngăn, dần dà kiêm nghiên cứu tôn chỉ của Luật tông, mãi đến khi đọc xem giới thể luận của Luật tông, mới buông rời Hữu bộ luật, đứng trước tượng Phật phát nguyện rằng: chuyên  tham cứu Luật tông, và nỗ lực hoằng dương. 

Đạo Tuyên quy kết giới học thành bốn khoa, còn gọi giới tứ biệt (戒四别). Một là giới pháp, hai là giới thể, ba là giới hạnh, bốn là giới tướng.

 Giới pháp là chỉ cho pháp của đức Phật chế định, luật nghi của hàng xuất giatại gia, như 184 loại yết ma hoặc 10 giới nặng 48 giới nhẹ của năm chúng xuất gia, 5 giới và 8 giới của cư sĩ. Giới pháp là lộ tuyến giúp cho chúng sanh giải thoát. Người tu hành dựa vào giới pháp mà được nhập thiền định, đạt được trí tuệ

Giới thể là một phương thức biểu đạt rất trọng yếu trong giới học. Theo Lão hòa thượng Hư Vân, “Giới thể là lúc thọ giới, lĩnh nạp giới pháp trong đầu óc, trong thân thể sinh ra một loại giới thể. Thể này tuy phàm phu không thể nghe, thấy nhưng thường hằng liên tục trong suốt đời, có công năng phòng phi chỉ ác, gọi là giới thể. Tốt hay xấu của giới thể, nằm ở lúc phát tâm thọ giới cao hay thấp. Nên người cầu giới, khi đầu phát tâm minh bạch, phát tâm tam phẩm: hạ phẩm tâm, trung phẩm tâm, thượng phẩm tâm”. Trong Chi uyển di biên (芝苑遗编) của luật sư Nguyên Chiếu thời Bắc Tống, giải thích: “Giới thể là cương yếu của luật học, căn bản bản của đặc phạm, nguyên thủy của phản lưu, tiền đạo của phát hạnh”.  Đạo Tuyên sáng lập lý luận giới học, luận thuật giới thể một cách hoàn chỉnh, còn chia tướng trạng giới thể thành bốn phương diện. Một là giới thể tướng trạng, hai là thọ tùy đồng dị, ba là duyên cảnh khoáng hiệp, bốn là phát giới số lượng. Cho rằng, hàng xuất gia gieo trồng ruộng phước đức là do từ sự quyết định của giới thể. “Trồng ruộng phước đức đó là tuân thủ giới luật, hiện hình tướng tăng nhân, có thể khiến cho tâm linh được thuần khiết, đạo đức thăng tiến, sinh ra hoạt dụng hạt giống thiện”. Trong Tứ phần luật tỉ-khưu giới tướng biểu ký (四分律比丘戒相表记)  của luật sư Hoằng Nhất, dùng hình thức biểu cách để biểu bày “Học thuyết giới thể vô tướng của Nam sơn Luật tông”. Giới thể còn chia ra hai loại: Tác giới thể, vô tác giới thể. Tác giới thể, là lúc đăng đàn khẩn cầu thọ giới, quỳ xuống, lập chí, phát ra lời để xin giới. Vô tác giới thể là từ sự huân tập mà thành một loại nghiệp dụng, nghiệp dụng viên thành cũng là chủng tử. Chủng tử phát sinh lực dụng, khiến vọng niệm dứt bặt.

Giới hạnh là lúc đắc giới thể rồi, đem ứng dụng hằng ngày, hoạt dụng chao động hay tĩnh lặng, nhậm vận ngăn ác, tu trì thiện. Giới hạnh là “Y trì giới thể mà sản sinh hoạt động và quá trình phòng phi chỉ ác, thuộc về phạm trù tu hành”. Thời kỳ Hiếu Văn đế triều Bắc Ngụy, luật sư Pháp Thông tại Ngũ đài sơn Bắc tự, vốn học tập Tăng kỳ luật, nhân đó phát hiện sự mâu thuẫn giữa giới thểgiới hạnh, rồi chuyển dịch chuyên nghiên cứu Tứ phần luật, sau đó cực lực hoằng dương giới tướng trong Tứ phần luật. Nhưng lúc đó chỉ giới hạnkhẩu truyền, chưa trước tác văn bản để lưu truyền, Pháp Thông khẩu truyền cương yếu Tứ phần luật, từ đó mà có nghiên cứu về “thọ tùy tướng kế giới luật” (受随相契戒律).
Giới tướngđức Phật chế định các giới điều, trong mỗi giới có chia ra đặc phạm và bất phạm, có khai giá nhẹ và nặng khác nhau. Có chia ra chỉ trìtác trì, chỉ phạmtác phạm. Theo Luật tông, giới tướng có hai hàm nghĩa. Một là chỉ cho tướng trạng của giới điều hiện bày ra, “Lấy giới bản làm tướng”, các tướng trạng khác nhau như năm giới, mười giới v.v... Hai là giới tướng trong “lập giới tứ khoa”, người tu hành tuân thủ giới điều mà hiện bày cốt cách, tinh thầnhành vi

Tăng sử truyện có ghi tình tiết câu chuyện kỳ bí giữa Đạo Tuyênđại phápKhuy Cơ

Thế nhân có câu “Người có giới đức, sẽ cảm động đến chư thiên, thiên thầnquỷ thần đều tôn kinh”. Đạo Tuyên ẩn tu trên núi Chung Nam, đạo hạnh cao khiết, khiến cảm động đến các thiên thần cúng dường mỗi ngày. Ngài ngày ăn một bữa vào trung ngọ, quá ngọ không ăn, và có tì-sa môn thiên vương tử dâng một bát cơm để ngài thọ thực. Có một ngày nọ, Khuy Cơ lên núi này, luôn dịp lạy hỏi ngài, ngài rất hoan hỷ. Ngài cho rằng Khuy Cơ là người học vấn tốt, giảng giải kinh luận lưu loát, nhưng giới luật hời hợt, cho nên muốn chư thiên cúng dường cơm cho Khuy Cơ để cảm hóa. Nhưng ngài chờ đến quá ngọ cũng chẳng thấy chư thiên đến cúng dường, cảm giác bụng đói, còn Khuy Cơ thì cứ mặc nhiên tự tại. Thế là hai người uống trà đàm luận giáo pháp Phật, đến xế chiều, ngài mời Khuy Cơ ngủ lại một đêm bởi ngài muốn Khuy Cơ hưởng thụ chút lạc thú của khổ hạnh. Khuy Cơ đồng ý ngủ lại. Đêm đến, ngài ngồi thiền suốt đêm, chẳng chao động, lưng chẳng tựa dường, còn Khuy Cơ thì ngủ say ngáy khò khò, khiến trong tâm ngài dấy khởi xem thường. Theo oai nghi của người xuất gia, đi, đứng, nằm, ngồi đều có quy cách, đi như gió, đứng như rặng bách tùng, ngồi như chuông, nằm như cây cung. Đến ngày thứ hai, ngài qưở trách Khuy Cơ ngủ mất oai nghi, chẳng tuân thủ quy cách, làm ngài động tâm. Khuy Cơ đáp, do ngài tĩnh tọa mà làm cho người khác không an giấc. Sau khi Khuy Cơ rời đi, đến trung ngọ thì có chư thiên cúng dường, ngài hỏi sao hôm qua không cúng dường? Chư thiên đáp: “Hôm qua có bồ-tát Đại thừa ở trên núi này, hộ pháp thiện thần vây quanh một cách dầy đặc, ta đến không được!”. Sau khi nghe xong, ngài đại sám hối, hối tiếc mình thấy được nhục thân bồ-tát mà chẳng biết kính ngưỡng, trái lại trách cứ bồ-tát. Từ đó về sau, ngài nỗ lực tu hành, rồi trở thành sơ tổ Luật tông.

Luật trong Luật tông, vốn chỉ cho giới luật. Giới và luật, vào thời kỳ đức Phật có các hàm nghĩa và tác dụng. Luật ý nghĩađiều phục, thiện trị v.v... Giới ý nghĩatính cách, đạo đức v.v... chuyên chỉ cho tịnh giới, thiện giới. Giới là một bộ phận của luật, luật lại là điển tịch thuyên thuyết giới. Giới luậtthanh văn giới và bồ-tát giới. Về sau, từ trong giới luật còn diễn sanh ra thanh quy, Tăng chế. Tăng chế như là nội quy thiền môn. Ví dụ, nếu sa-môn phạm tội nặng thì đuổi khỏi chùa, nhẹ thì bị roi đánh; sa-di trồng trọt hoa màu trên đất, ruộng của chùa; trong chùa có thiết đặt bếp núc nấu nướng để phục vụ việc ăn uống; sư phụ viên tịch thì được tổ chức tang lễ 7 ngày; tăng sĩ được quyền tích trữ vàng bạc tài sản. Pháp sư Đạo An thời kỳ Đông Tấn từng căn cứ văn bản giới luật, rồi chế định giới quy — tăng ni quy phạm, và được tăng đoàn chấp hành nghiêm túc. Đạo An còn dùng họ Thích làm họ người xuất gia, lần lượt được tăng ni ở Trung Thổ (bao gồmViệt Nam) áp dụng, mãi đến nay vẫn chưa thay đổi.  

VĂN HIẾN THAM KHẢO
1. Lão hòa thượng Hư Vân, Giới pháp, giới thể, giới hạnh, giới tướng
2. Khuyết danh, Lược biện giới thể luận của Nam sơn luật
3. Lao chánh Vũ, Phật giáo giới luật học
4. Tào Sĩ Bang (1932 -, giáo sư đại học Nam Dương Singapore), Tình huống khó cả đôi đường mà luật sư Hoằng Nhất hiện tại đối diện – Giữa giới luậtTăng chế
5. Dương Duy Trung (giáo sư đại học Nam Kinh), Phật học Trung Quốc VI, Tông phái uyên lập (4) Luật tông
Tạo bài viết
07/11/2017(Xem: 12087)
29/12/2020(Xem: 11530)
11/08/2013(Xem: 48792)
free website cloud based tv menu online azimenu
Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng sống lưu vong, tuyên bố ông sẽ có người kế nhiệm sau khi ông qua đời, dập tắt mọi đồn đoán về việc liệu thể chế 600 năm tuổi này có kết thúc khi ông viên tịch hay không.
Tòa án Tối cao phán quyết rằng một nữ tu Phật giáo đã thọ giới đầy đủ phải được chính thức công nhận là một tỳ kheo ni—lần đầu tiên tòa án tối cao của Sri Lanka phán quyết rằng nhà nước có nghĩa vụ theo hiến pháp phải đối xử với một tỳ kheo ni ngang bằng như với một tỳ kheo.
Thầy Chân Pháp Từ, người xuất thân từ Làng Mai của thiền sư Nhất Hạnh, đang trụ trì đạo tràng Tâm Kim Cương, Hawaii, trao đổi với Nguyễn Hòa, tại chùa Phổ Giác, Novato, California. Ngày 25/5/2025.