Thế Giới Có Thể Học Được Gì Từ Khái Niệm Từ Bi Của Phật Giáo

13/11/20213:16 CH(Xem: 6862)
Thế Giới Có Thể Học Được Gì Từ Khái Niệm Từ Bi Của Phật Giáo

THẾ GIỚI CÓ THỂ HỌC ĐƯỢC GÌ
TỪ KHÁI NIỆM TỪ BI CỦA PHẬT GIÁO
Brooke Schedneck, Assistant Professor of Religious Studies, Rhodes College
Wed, November 10, 2021, 5:40 AM (Tịnh Thủy chuyển ngữ)

 

Avalokiteshvara-bodhisattva-compassion-Mount-Jiuhua-China-province
Avalokiteshvara-bodhisattva-compassion-
Mount-Jiuhua-China-province
(ảnh: britannica)

Khi thế giới đối phó với những tổn thương do COVID-19 gây ra, Ngày Nhân ái Thế giới (World Kindness Day), được tổ chức vào ngày 13 tháng 11 hàng năm, là một cơ hội tốt để chúng ta suy ngẫm về tiềm năng chữa lành bệnh bởi những hành động tử tế lớn và nhỏ của con người. Quả thực, chính những hành động tử tế của những người làm các công việc thiết yếu đã giúp cứu sống nhiều người trong mùa đại dịch vừa qua.

Là một học giả nghiên cứu về Phật học, tôi đã nghiên cứu những cách mà các nhà sư Phật giáo nói về sự tử tế và lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh.

Đức Đạt Lai Lạt Ma người đã được trích dẫn một câu nổi tiếng khi nói rằng "Tôn giáo thực sự của tôi là lòng tốt." Mặc dù Phật giáo có nhiều điều hơn là chỉ có lòng tốt, nhưng tôi tin rằng những lời dạy của nhân vật mẫu mực của Phật giáo này có nhiều điều để cống hiến cho một thế giới đang trải qua nỗi đau khổ cùng cực gây ra bởi đại dịch Corona virus.

Giáo lý về nhân áilòng từ bi

Một số giáo lý Phật giáo sớm nhất được phát triển ở Ấn Độ - được ghi lại trong kinh điển Pali, bộ sưu tập kinh điển bằng ngôn ngữ Pali - nhấn mạnh ý tưởng về “metta,” hay lòng từ.[1] Một lời dạy từ bộ sưu tập kinh sách này là Kinh Từ Bi (Karaniya Metta Sutta), nơi đây Đức Phật khuyến khích những người tốt và khôn ngoan hãy truyền bá lòng từ bằng cách thực hiện những mong muốn này đối với tất cả chúng sinh:

Trong niềm vui và sự an toàn,

Cầu mong cho tất cả các loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài yếu, những loài mạnh, những loài cao, những loài thấp, những loài lớn, những loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta không thể nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở xa, những loài đã sinh và những loài sắp sinh.

Cầu mong tất cả chúng sanh được an lạc!

Để áp dụng những từ này vào thực tế, một số giáo thọ sư Phật giáo từ Bắc Mỹ dạy các phương pháp thiền định nhằm phát triển tâm từ, hay lòng từ ái của chính mình.

Trong các buổi thiền, hành giả có thể hình dung mọi người và tụng những ước nguyện về lòng từ bằng cách sử dụng các biến thể của các cụm từ dựa trên Kinh Karaniya Metta. Một phiên bản thường được sử dụng là của một thiền sư Phật giáo nổi tiếng, Sharon Salzberg.

Cầu mong tất cả chúng sinh khắp nơi được bình antốt đẹp.
Cầu mong cho tất cả chúng sinh khắp nơi được hạnh phúcmãn nguyện.
Cầu mong cho tất cả chúng sinh khắp nơi luôn mạnh khỏe.
Cầu mong cho tất cả chúng sinh khắp nơi được an lạc.

Các học viên truyền bá lòng từ này đối với bản thân mình, những người gần gũi với họ, những người họ không quen biết - thậm chí là những người ở xa hay là kẻ thù - và cuối cùng là tất cả chúng sinh trên khắp thế giới. Sau khi hình dung được thái độ của lòng từ này, các học viên thấy rằng việc lan tỏa lòng từ đối với người khác trong cuộc sống thực sự sẽ dễ dàng hơn.

Ngoài lòng từ, Phật tử còn thực hành lòng bi (karuna), niềm vui thông cảm (mudita) và tính bình đẳng (upekkha) để có trạng thái tâm bình an.

Nuôi dưỡng lòng từ bi

Các hình thức Phật giáo sau này ở Đông Á và Tây Tạng đã phát triển thêm ý tưởng về lòng từ bi thông qua hình tượng bồ tát.

Bồ tát là một hành giả đã phát nguyện làm việc quên mình vì sự giác ngộ của chúng sinh. Sự phát triển của trạng thái tâm này được gọi là “tâm bồ đề”. Bồ đề tâm cung cấp động lực và cam kết cho con đường khó khăn này là đặt người khác lên trước chính mình.

Một phương pháp tu tập để phát triển Bồ đề tâm là đánh đổi bản thân mình cho người khác. Trong thực hành này, những người theo con đường bồ tát sẽ coi đau khổ của người khác như thể nó là của mình và sẽ giúp đỡ người khác như thể giúp đỡ chính mình.

Như luận sư Phật giáo Ấn Độ Tịch Thiên (Santideva) [2] viết trong tác phẩm kinh điển của ông ở thế kỷ thứ tám về con đường của Bồ tát, “The Bodhicaryavatara”, người ta nên thiền định với tình cảm này trong tâm trí: “Tất cả chúng sinh đều trải qua đau khổhạnh phúc như nhau. Nên tôi chăm sóc chúng như chính tôi vậy ”.

Nhiều vị bồ tátý nghĩa

Tôn tượng Bồ Tát Quán Thế Âm chùa Linh Ứng Sơn Trà Đà Nẵng
Tôn tượng Bồ Tát Quán Thế Âm
chùa Linh Ứng Sơn Trà Đà Nẵng

Hình tượng Phật giáo được chú trọng nhất đến lòng từ bi là Từ Bi Bồ Tát, được gọi ban đầu là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara), người đã trở nên phổ biếnẤn Độ vào thế kỷ thứ sáu sau Công nguyên. Một cách phổ biến để mô tả Đức Quán Thế Ăm Bồ Tát là với 11 đầu và 1.000 cánh tay, mà ngài sử dụng để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Các Phật tử Tây Tạng tin rằng tất cả các vị Đạt Lai Lạt Ma đều là biểu hiện của vị bồ tát này.

Đức Bồ tát này được biết đến với nhiều tên khác nhau trên khắp châu Á. Ở Nepal, bồ tát được gọi là Karunamaya, và ở Tây TạngLokesvaraChenrezig. ở Nhật Bản, ngài được gọi là Kanzeon hay Kannon. Trung Quốc, bồ tát là một hình tượng phụ nữ được gọi là Quan Âm (Guanyin) và được miêu tả là một người phụ nữ có mái tóc dài, mặc áo choàng trắng, người cầm một chiếc bình nghiêng xuống để có thể thả những giọt nước mắt từ bi xuống tất cả chúng sinh.

Ở khắp Đông Á và Đông Nam Á, tôn tượng Bồ Tát Quan Thế Âm rất được phổ biến. Mọi người cúng dường để tìm kiếm sự giúp đỡ, đặc biệtliên quan đến thành công trong kinh doanh và hạnh phúc gia đình.

Với những thực hành và khuyến khích mọi người thực hành lòng từ bi đối với người khác và với những biểu tượng có thể được yêu cầu ban phước, Phật giáo đưa ra những cách độc đáo và đa dạng để suy nghĩthể hiện lòng từ bi.

 
Tịnh Thủy chuyển ngữ
Bản gốc tiếng Anh:

https://www.yahoo.com/news/world-learn-buddhist-concept-loving-134004238.html

 

VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ BÀI VIẾT:
schedneckTiến sĩ Schedneck đã giảng dạy tại Rhodes từ năm 2017. Cô dạy các khóa học về Phật giáo, các tôn giáo châu Á và trong chương trình Cuộc sống. Cô cũng dẫn đầu cuộc thi Maymester ở Thái Lan. Trước khi đến Rhodes, cô đã giảng dạy cho các sinh viên du học với tư cách là giảng viên Nghiên cứu Phật học tại Học viện Các vấn đề Đông Nam Á ở Chiang Mai, Thái Lan, trong bốn năm. Cô đã được mời thuyết trình nghiên cứu ở Thái Lan, Hồng Kông, Singapore và Malaysia. Vào năm 2020, Tiến sĩ Schedneck đã xuất bản một tập đồng biên tậptiêu đề Du lịch Phật giáo ở Châu Á và chuyên khảo thứ hai của bà, cuốn dân tộc học về Phật giáo ở Chiang Mai, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học Washington vào năm 2021.

Công việc của cô nói chung liên quan đến Phật giáo đương đại ở Thái Lan, nơi cô đã sống và thực hiện nghiên cứu trong hơn tám năm. Các lợi ích khác bao gồm Phật giáo toàn cầu, các tôn giáo ở Đông Nam Á, giới trong các tôn giáo châu Á và du lịch tôn giáo. Nghiên cứu trước đây đã khám phá phong trào thiền vipassana hiện đại ở các trung tâm thiền quốc tế của Thái Lan và các cuộc gặp gỡ của du khách với Phật giáo ở miền Bắc Thái Lan. Nghiên cứu hiện tại của cô tập trung vào các vụ bê bối trong tu viện và cơ thể tu sĩ trong Phật giáo Thái Lan. Cô cũng đang viết một cuốn sách về Phật giáo Nguyên thủy hiện đại ở Đông Nam Á.
________________________________

Chú thích của BBT TVHS:

[1] Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi" , thế nhưng chữ mettâ trong tiếng Pa-li không có nghĩa là từ bi mà chỉ có nghĩa là lòng tốtlòng từ tâm, lòng thương yêu. Các bản dịch sang các ngôn ngữ Tây phương thì mang tựa là: Discourse on Loving Kindness, Discourse on Good Will, Discourse on Friendliness, Discours sur la Bonté, Discours sur la Bonté Bienveillante, Discours sur l' Amour Bienveillant v.v..., tóm lại tất cả đều có nghĩa là Bài thuyết giảng về Lòng TốtLòng Thiện CảmTình Thương Yêu...

Do đó thiết nghĩ nếu dịch ra tiếng Việt thì có lẽ bản kinh này nên mang tựa đề là "Kinh về Lòng Từ Ái", chữ từ trong tiếng Hán có nghĩa là thương và ái là yêu. Trong quyển Hán-Việt Tự-Điển của Đào Duy Anh thì chữ từ ái được định nghĩa là lòng thương yêuTuy rằng hầu hết các quyển tự điển khác, từ quyển Việt-Nam Tự Điển của hội Khai-Trí Tiến-Đức (1931) cho đến các quyển tự điển mới gần đây đều có nêu lên và định nghĩa chữ từ ái, thế nhưng trên thực tế thì không mấy khi thấy chữ này được sử dụng và hình như đã biến thành một từ "cũ" (?). Do đó thiết nghĩ cũng có thể thay chữ Từ Ái bằng chữ Nhân Ái thông dụng hơn, để gọi kinh Mettâ Sutta là "Kinh về Lòng Nhân Ái", và dù sao thì cách dịch này cũng có phần sát nghĩa hơn so với tên gọi quen thuộc trước đây là "Kinh Từ Bi". Đôi khi kinh Mettâ Sutta lại còn được gọi là kinh Karaniya Mettâ Sutta, tức có nghĩa là kinh "Hãy thực thi lòng Nhân Ái" (tiếng Pa-li karaniyam có nghĩa là hãy nên thực thi). Bản kinh này được tìm thấy trong Tập Bộ Kinh (Suttanipata - Sn 1.8), thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddakapatha - Khp 9). [Cũng xin minh chứng là người viết các dòng này không biết tiếng Pa-li, và chỉ dựa vào các bản dịch song ngữ có sẵn và tra cứu tự điển]. (Hoang Phong: https://thuvienhoasen.org/a13444/tim-hieu-kinh-metta-sutta-bai-kinh-ve-long-nhan-ai

[2] Tịch Thiên là một luận sư Phật giáo kiêm thi hào Ấn Độ sống vào khoảng thế kỉ thứ 7-8 Công nguyên. Ông là người theo phái Trung quán của đạo Phật Đại thừa do Long Thọ chủ xướng.

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
21/03/2014(Xem: 24358)
30/05/2014(Xem: 22151)
02/12/2018(Xem: 14782)
26/08/2016(Xem: 12200)
26/08/2013(Xem: 41876)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.