Phương pháp định hướng tư tưởng trong lời dạy của đức Phật

19/11/20222:47 SA(Xem: 3182)
Phương pháp định hướng tư tưởng trong lời dạy của đức Phật
PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG TRONG
LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT
Thích Trung Định

hoa senĐịnh hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người. Tư tưởng không những chi phối hành vilời nói mà còn ảnh hưởng đến nếp sống, phong thái, văn hóa, của con người trong đời sống hằng ngày. Mỗi tôn giáo, hay một triết thuyết nào cũng đều có một hệ thống tư tưởng chủ đạo. Dựa trên nền tảng tư tưởng chủ đạo này họ bắt đầu triển khai công việc xoay quanh trục tư tưởng đó. Trong một thể chế, tư tưởng làm ổn định lòng người, tạo sức mạnh niềm tincủng cố khối đại đoàn kết.

Có hai loại tư tưởng chủ đạo, đó là thiện và bất thiện. Tư tưởng thiện là tia sáng đầu nguồn dẫn đường đưa chúng ta đi đến mục tiêu cao đẹp tận cùng. Ngược lại, tư tưởng bất thiện nhấn chìm chúng ta đi vào bóng tối của khổ đau và đọa lạc. Việc định hướng tư tưởng giúp ích con người mở ra hướng đi mới, vươn tới tương lai tươi sáng, huy hoàng.

Theo Mahatma Gandhi: ‘Có hai loại tư tưởng khác nhau, đó là: Loại hình thành từ cái đầu và loại xuất phát từ trái tim.’ Loại tư tưởng hình thành từ cái đầu hàm chứa những nội dung xuất phát từ lý trí; và loại tư tưởng xuất phát từ trái tim hàm chứa nội dung xuất phát từ tình thương. Lời nói này khá tương đồng với tư tưởng cốt lõi của đạo Phật đó là từ bitrí tuệ. Trí tuệ là sự hiểu biếttừ bitình thương yêu. Hiểu và thương luôn bổ sung cho nhau để hoàn thiện một nhân cách viên mãn. Nếu thiếu một trong hai khía cạnh thì vấn đề sẽ trở nên khập khiễng, không vững bền và dễ đổ gãy. Tư tưởng chủ đạo của Phật giáo là dạy con người hướng thiện, có tri thức để xây dựng cuộc sống tốt đẹp, yên vui trong hiện tại. Thực hành lối sống đạo đức chính là cốt lõi và điểm chính yếu của đạo Phật.[1]

Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình. Có thể nói, đức Phật là nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại. Ngay sau khi thành đạo, ngài đã đi khắp mọi miền của đất nước Ấn Độ cổ đại để truyền bá tư tưởng từ bi, giác ngộgiải thoát cho mọi người. Sự kiện ấy đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của dòng chuyển biến về quan niệm nhân sinhthế giới, là cuộc cách mạng hoàn toàn về nhận thức, tư duy cũng như hành động của con người. Lời dạy của đức Phật đã thổi một cơn gió mát mẻ vào thành trì kiên cố của tư tưởng Vệ đà. Đã rọi tia nắng ấm áp cho màn đêm tâm thức của con người. Bình minh tiếp tục rạng soi trên khung trời triết học phương Đông và toàn thể nhân loại.[2]

Trong suốt bốn mươi lăm năm thuyết pháp độ sinh, đức Phật luôn định hướng cho con người hai vấn đề cốt lõi đó là khổ đau và con đường đưa đến đoạn diệt khổ đau. Hàm chứa trong tất cả lời dạy của đức Phật đều định hướng tư tưởng cho người nghe một cách rõ ràng. Trong kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì (Sevibba-asevibbasutta) thuộc Trung bộ kinh, đức Phật đã đề cập đến sự phát sinh tư tưởng của hai loại, một là nên hành trì và không nên hành trì. Bình luận về tuyên bố này, Tôn giả Xá-lợi-phất giải thích thêm rằng, con người nên tuân theo loại tư tưởng nào phát sinh không liên quan đến sự tham muốn, ác tâm, làm hại, và ngược lại. Nói cách khác, để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống, hành giả nên phát triển tư tưởng không tham muốn, không ác tâm, không gây hại và nên dừng những suy nghĩ liên quan đến tham muốn, ác độc, làm hại.[3]

Trong hai câu mở đầu của Kinh Pháp Cú, đức Phật đã dạy: “1. Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý ô nhiễm, Nói lên hay hành động, Khổ não bước theo sau, Như xe, chân vật kéo. 2. Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo; Nếu với ý thanh tịnh, Nói lên hay hành động, An lạc bước theo sau, Như bóng, không rời hình.” Lời dạy này chỉ ra rõ ràng rằng, bất kỳ kết quả nào mà một người đang nhận được, dù là tốt hay xấu, đều bắt nguồn từ suy nghĩ của họ. Từ quan điểm này, đức Phật xem việc định hướng tư tưởnghoàn toàn cần thiết cho hoạt động của con người.

Trong kinh Đoạn Giảm (Sallekhasutta) thuộc Trung bộ, đức Phật đã chỉ dạy Tỷ kheo Cunda về các loại tư tưởng nào nên phát triển và tư tưởng nào nên loại bỏ. Trong bản kinh này có 44 đối tượng được liệt kê để thực hành, cụ thể là:
(1) Làm hại, không làm hại.
(2) sát sanh, từ bỏ sát sanh,
(3) lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho.
(4) không phạm hạnh, sống phạm hạnh,
(5) nói láo, từ bỏ nói láo,
(6) nói hai lưỡi, từ bỏ nói hai lưỡi,
(7) nói lời độc ác, từ bỏ nói lời độc ác,
(8) nói lời phù phiếm, từ bỏ nói lời phù phiếm,

(9) tham dục, không tham dục,
(10) sân tâm, không có sân tâm,
(11) tà kiến, chánh kiến,
(12) tà tư duy, chánh tư duy,
(13) tà ngữ, chánh ngữ,
(14) tà nghiệp, chánh nghiệp,
(15) tà mạng, chánh mạng,
(16) tà tinh tấn, chánh tinh tấn,
(17) tà niệm,  chánh niệm,
(18) tà định, chánh định,
(19) tà trí, chánh trí,
(20) tà giải thoát, chánh giải thoát,
(21) hôn trầm thụy miên, không có hôn trầm thụy miên,
(22) trạo hối,  không có trạo hối,
(23) nghi hoặc, trừ diệt nghi hoặc,
(24) phẫn nộ, không có phẫn nộ,
(25) oán hận, không có oán hận,
(26) hư ngụy, không hư ngụy,
(27) não hại, không não hại,
(28) tật đố, không tật đố,
29) xan tham, không xan tham,
30) man trá, không man trá,
(31) khi cuống, không khi cuống,
(32) ngoan cố,  không ngoan cố,
(33) cấp tháo, không cấp tháo,
(34)  khó nói (nan thuyết), dễ nói,
(35) ác hữu, thiện hữu,
(36) phóng dật, không phóng dật,
(37) bất tín, tín tâm,
(38) không xấu hổ, có xấu hổ,
(39) không sợ hãi, có sợ hãi,
(40) nghe ít, nghe nhiều,
(41) biếng nhác, siêng năng,
(42) thất niệm, an trú niệm,
(43) liệt tuệ, thành tựu tuệ,
(44) nhiễm thế tục, cố chấp tư kiến, tánh khó hành xả, không nhiễm thế tục, không cố chấp tư kiến, tánh dễ hành xả”, như vậy đoạn giảm được thực hiện.[4]

Bốn mươi bốn phạm trù tư tưởng được đức Phật liệt kê ở trên nhằm định hướng cụ thể cho hành giả áp dụng thực hành. Một người bắt đầu thực hiện bài thực tập này bằng cách đưa ra quyết định trong tâm trí của mình là không chấp nhận những gì sai trái, có hại, mà tuân theo những gì đúng đắn và hữu ích. Theo đức Phật, khi một người suy nghĩ và phản ánh nhiều về bất cứ điều gì trong tâm trí của mình, thì kết quả của hành động ​​theo cách đó. Trong thực tế khi tư tưởng hướng theo chiều hướng tốt, đúng đắn, thì mọi hoạt động của con người sẽ được thực hiện một cách đúng đắn và kết quả là hạnh phúc và bình yên sẽ đến. Đó là lý do tại sao đức Phật đã tuyên bố trong Tương ưng bộ kinh rằng: “Nếu tâm trí của một người được hướng dẫn, điều phục tốt, nó sẽ đoạn trừ được vô minh, đạt đến trí tuệthành tựu Niết bàn.”[5]

Heidegger một triết gia người Đức, chuyên tìm hiểu về ý nghĩa của khái niệm tồn tại và cấu trúc bản thể của tồn tại con người, ông nhận chân được giá trị của tư tưởng thiền định trong Phật giáo có thể cứu vãn được các vấn đề của thời cuộc. “Trước sự sụp đổ của con ngườithời đại, Heidegger kêu gọi chúng ta hãy trở về với tư tưởng thiền định (Meditation) và từ bỏ tư tưởng tính toán của tổ chức, kinh doanh, kỹ thuật, kỹ nghệ, cơ khí, chính trị, xã hội, thần học, khoa học. Heidegger đã bước đi về trên con đường Phật giáo và chính Heidegger cũng không ngờ được. Đối với Heidegger, con người chỉ có thể tự giải thoát khi trở về thiền tưởng qua tư thái song hành: tâm hồn thản nhiên trước sự vật và tâm trí mở ra trước huyền diệu bí mật.”[6]

Ngày này, trong thời đại văn minh công nghệ hiện đại, thông tin đa chiều và nhiễu loạn, thì việc định hướng tư tưởngvô cùng cần thiết. Thầy định hướng tư tưởng cho học trò, cha mẹ định hướng tư tưởng cho con cái. Nếu áp dụng sớm thì sẻ giúp ích cho học trò và con cái có được hướng đi vào đời vững vàng và sẻ gặt hái được thành công. Nếu không giới trẻ sẻ hoang mang vô định dẫn đến những sai lầm không đáng có.

Tóm lại, phương pháp định hướng tư tưởng trong lời dạy của đức Phậtvô cùng thiết thựcý nghĩa. Thông qua phương pháp này, hành giả dễ dàng tiếp nhậnthực hành theo. Tư tưởng Phật giáo có mặt trên hai ngàn năm qua đã giúp nhân loại vượt qua bao cơn khủng hoảng, chiến tranh và hận thù. Phật giáo cung cấp cho loài người một con đường để tự mình hoàn thiện bản thân, thiết lập một nền tảng giá trị đạo đức chân chính, mở ra cánh cửa an lạcgiải thoát cho con người.

Ghi chú:
[1] Khuông Việt, Tạp chí nghiên cứuphổ biến tri thức Phật học, https://khuongviet.com.vn/giao-duc/huong-thien-xay-dung-cuoc-song-tot-dep-la-tu-tuong-chu-dao-cua-phat-giao-12738/31/
[2] Thích Trung Định, Như một dòng sông, Nxb. Thuận Hóa, 2010, tr.77-87.
[3] Thích Minh Châu, dịch, Trung bộ kinh, Kinh 114. Kinh Nên hành trì, không nên hành trì (Sevitabba-asevitabba sutta) https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung114.htm.
[4] Thích Minh Châu, dịch, Trung Bộ kinh, Kinh Đoạn giảm (Sallekha sutta), https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung08.htm.
[5] F. L. Woodward, The Book of the Gradual Sayings, Vol.I, p.6.
[6] Trích, Tạp chí tư tưởng Đại học Vạn Hạnh, số 1, năm 1967, tr.v
Báo Giác Ngộ, số 1176
 
 

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
21/03/2014(Xem: 24155)
30/05/2014(Xem: 21945)
02/12/2018(Xem: 14599)
26/08/2016(Xem: 12009)
26/08/2013(Xem: 41688)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.