VỀ MỘT LỜI KHUYÊN TU THIỀN
Để giúp cho mọi người tìm thấy phương pháp tu tập thích hợp, Đức Phật đã giảng dạy về Thiền theo nhiều cách thức và cấp độ tu chứng khác nhau. Đôi khi nó được phân ra thành các đề tài riêng biệt như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm hơi thở vô hơi thở ra, niệm vô thường, niệm chết, niệm tử thi… đôi khi Thiền được giảng dạy theo từng nhóm chủ đề như niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp2, hoặc lúc khác nó được trình bày chung trong tiến trình Giới-Định-Tuệ dưới hình thức bốn Thiền sắc giới, bốn Thiền vô sắc. Đôi khi Thiền lại được nhấn mạnh như một nếp sống giải thoát an lạc theo trình tự Giới-Định-Tuệ đi kèm với các thực nghiệm an lạc như là kết quả: Giới đức – bất hối -tâm hân hoan – hỷ sanh – thân khinh an – lạc thọ sanh -tâm định – trí tuệ hay tri kiến như thật – giải thoát – giải thoát tri kiến3. Cũng có lúc Thiền được nói đến bằng các thuật từ ngụ ý một nếp sống hạnh phúc an lạc như “Hiện tại lạc trú” (Ditthadhammasukhavihàra) chỉ cho bốn Thiền sắc giới, hoặc “Tịch tịnh trú” (Santavihàra) chỉ cho bốn Thiền vô sắc. Hoặc có đôi lúc nó được biểu đạt dưới hình thức một bài kệ nhấn mạnh tầm quan trọng của nếp sống thiền định và trí tuệ, chẳng hạn: “Tu thiền trí tuệ sanh, bỏ thiền trí tuệ diệt…”4 hoặc: “… Người có thiền có tuệ, nhất định gần Niết-bàn”5. Một vài nơi Thiền được nhắc đến như một lẽ sống quan trọng mà người xuất gia cần phải chuyên tâm hành trì: “Này các Tỳ-kheo, đây là những gốc cây, đây là ngôi nhà trống; hãy tu thiền, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau”6. Ở các nơi khác, nó là một lời tuyên bố về cách thức làm thế nào để sự tu tập có kết quả7. Trong giới hạn bài này, chúng ta tập trung xem xét về một trong số các lời tuyên bố như vậy về Thiền, như sau: “Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự tinh tấn có kết quả? Ở đây, này các Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo không để cho tự ngã chưa bị nhiếp phục, bị đau khổ nhiếp phục và không từ bỏ lạc thọ hợp pháp, và không để lạc thọ ấy chi phối”.8
Vế tiếp theo nhấn mạnh đến hành Thiền hay kết quả lợi lạc của công phu thiền định. Câu nói “không từ bỏ lạc thọ hợp pháp” có nghĩa là phải tu Thiền và hành Thiền để có được lạc thọ hợp pháp (dhammikasukha) hay còn gọi là Thiền lạc (jhànasukha), tức phải thường xuyên hành Thiền để chứng nghiệm “hỷ lạc do ly dục sanh” ở Thiền thứ nhất, “hỷ lạc do định sanh” ở Thiền thứ hai, “xả niệm lạc trú” ở Thiền thứ ba, “xả niệm thanh tịnh” ở Thiền thứ tư. Chúng được mô tả như sau: “Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không có hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỳ-kheo, như một người hầu tắm lão luyện, hay đệ tử người hầu tắm, sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Lại nữa, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Này các Tỳ-kheo, ví như một hồ nước, nước từ trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra, thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy hồ nước ấy với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh thấm nhuần. Lại nữa, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này các Tỳ-kheo, ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần, tẩm ướt, tràn đầy thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân này với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Lại nữa, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Này các Tỳ-kheo, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần”.
Vế thứ ba lưu ý về phương pháp hay hay cách thức hành Thiền sao cho có kết quả. Kết quả ở đây là sự thăng tiến tâm thức hướng đến tuệ giác hay sự chứng đắc trí tuệ đưa đến giác ngộ, đưa đến đoạn tận các lậu hoặc, chấm dứt hoàn toàn khổ đau, mục đích tối hậu của mọi nỗ lực Phật giáo. Câu nói “không để lạc thọ ấy chi phối” mang ý nghĩa một lời cảnh tỉnh về Thiền lạc mà vị hành giả thực nghiệm được trong khi tu Thiền và hành Thiền, tức các trạng thái “hỷ lạc do ly dục sanh” thuộc Thiền thứ nhất, “hỷ lạc do định sanh” thuộc Thiền thứ hai, “xả niệm lạc trú” thuộc Thiền thứ ba, “xả niệm thanh tịnh” thuộc Thiền thứ tư. Sở dĩ có lời cảnh tỉnh như vậy là do một số hành giả có thể nhầm tưởng các trạng thái thanh thản an lạc ở trong các Thiền chứng ấy là cứu cánh của sự tu tập, giống như một số ngoại đạo đã quan niệm, và do vậy, thay vì tiếp tục tinh tấn để vượt qua, để tâm thức đạt đến tuệ giác, họ đã bám chấp vào Thiền lạc, xem chúng là mục đích cứu cánh15. Thực sự thì Thiền lạc không phải là cứu cánh của Thiền, càng không phải là cứu cánh của sự thực hành Phật giáo; chúng là hệ quả tất yếu của công phu thiền định, là phương tiện đưa đến cứu cánh, có công năng thanh lọc tâm, thanh lọc cảm thọ đạt đến chỗ trong sáng và thuần tịnh, khiến cho tâm thức vị hành giả trở nên định tĩnh và sáng suốt, chứng ngộ sự thật sanh và diệt của hết thảy các pháp hay các hiện tượng, sẵn sàng buông bỏ mọi tham ái, cắt đứt mọi ý niệm ôm ấp hay nắm giữ, đạt đến tự do, giải thoát, tịch tịnh, Niết-bàn. Đây mới là mục đích rốt ráo của thiền định Phật giáo, nghĩa là nhờ có Thiền mà trí tuệ được khai mở, được tu tập và đạt đến sắc bén, có năng lực chặt đứt các phiền não (tham, sân, si) hay các lậu hoặc (dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu), gốc rễ của hết thảy mọi mê lầm khổ đau, đưa đến cứu cánh giác ngộ. Cũng theo kinh nghiệm của Đức Phật thì để vượt qua Thiền lạc hay để không bị lạc thọ hợp pháp chi phối, vị hành giả cần phải nhận thức cho thật đúng về cảm thọ, thường xuyên theo dõi và quan sát tính chất duyên sinh, vô thường của cảm thọ, thấy rõ nó là pháp hữu vi, do duyên sinh, là vô thường, không nên tham đắm. Quán sát và thấy như thật về bản chất của cảm thọ rồi thì tâm tự nhiên trở nên tỉnh giác, không dao động, không còn rơi vào tham ái đối với cảm thọ, cho dù đó là Thiền lạc hay lạc thọ hợp pháp. Nói cách khác, để tâm thức không bị Thiền lạc hay lạc thọ hợp pháp chi phối, tiếp tục sự tiến triển của nó trong lộ trình tinh tấn hướng đến tuệ giác giải thoát, hành giả cần phải thấy rõ vị ngọt (assàda), sự nguy hiểm (àdìnava) và sự xuất ly (nissarana) của Thiền lạc, nghĩa là cần phải tỉnh táo sáng suốt nhận ra sự an tịnh tinh tế (vị ngọt) của Thiền lạc, đồng thời phải thấy rõ tính chất duyên sinh, vô thường, biến diệt (sự nguy hiểm) của nó để sinh tâm ly tham, buông xả đúng lúc (sự xuất ly)16. Đây chính là thái độ đúng đắn của người hành Thiền Phật giáo, tức là mỗi bước đi là mỗi bước an trú Chánh pháp, đồng thời cũng là mỗi bước xả ly Chánh pháp để tiến đến mục đích cứu cánh; vì pháp của Phật tựa như chiếc bè, chỉ là phương tiện an toàn để cho hành giả từng bước đạt đến cứu cánh Niết-bàn.17 Nhìn chung, tùy theo nhân duyên và căn cơ mà Đức Phật giảng dạy về Thiền theo nhiều cách thức khác nhau. Với những người chưa có nhiều nhân duyên tiếp xúc với Phật pháp, Ngài khuyên dạy họ nên mở tâm chia sẻ bố thí, khuyến khích họ thực hành nếp sống chơn chánh hiền thiện. Chú thích:
|