Tiểu Sử Vắn Tắt Ngài Dola Jigme Kalzang

02/04/20221:38 SA(Xem: 3948)
Tiểu Sử Vắn Tắt Ngài Dola Jigme Kalzang
TIỂU SỬ VẮN TẮT NGÀI DOLA JIGME KALZANG
Adam Pearcey[1] soạn | Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ

blank Ngài Jigme Kalzang sinh năm 1789 trong gia đình Khungta ở Serta thuộc Kardze. Do đó, Ngài đôi khi được biết đến là Khungta Jigme Kalzang. Ngài cũng được gọi là Dola Jigme Kalzang bởi Ngài đã dành thời gian dài tại thung lũng Do ở Golok, trụ xứ của đạo sư chính yếu của Ngài – Đức Dodrubchen Jigme Trinle Ozer (1745-1821)[2]. Bên cạnh đó, Ngài đôi lúc được biết đến là Derge Jigme Kalzang, bởi Ngài đã đóng vai trògiáo sĩ cho vua của Derge. Và Ngài còn được biết đến là Zhonnu Yeshe Dorje, đặc biệt ở vùng Rebkong. Bên cạnh đó, một vài tác phẩm của Ngài được ký bằng các danh hiệu Chokyi Lodro và Kyeme Dorje.

Thời trẻ, Ngài Jigme Kalzang chủ yếu nghiên cứu với Đức Dodrubchen Jigme Trinle Ozer, Getse Jigme Ngotsar (vị sinh năm 1730) và Gyarong Namkha Tsewang Chokdrub (vị sinh năm 1744). Một tiểu sử ngắn do Tenzin Lungtok Nyima soạn cũng liệt kê Nyidrak Lama Kalzang Wangden (1673-1757) và Ngài Dzogchen thứ Ba – Ngedon Tenzin Zangpo (1759-1792) trong số những đạo sư của Ngài, nhưng điều này dường như không hợp lý nếu 1789, như được chỉ ra trong một số miêu tả gần đây, là năm sinh chính xác của Ngài.

Các nghiên cứu của Ngài Jigme Kalzang bao gồm giáo lý về những thực hành từ cả Cựu DịchTân Dịch, nhưng Ngài đặc biệt tập trung vào Đại Viên Mãn Dzogchen theo truyền thừa Longchen Nyingtik. Nhờ sự làm chủ hoàn toàn những giáo lý này và các nỗ lực hoằng dương chúng của Ngài, Ngài được biết đến là một trong bốn đệ tử chính yếu của Đức Dodrubchen, những vị được nhắc đến như là “bốn hậu duệ kim cương” / “bốn hậu duệ tên Dorje”. Bất cứ khi nào Đức Dodrubchen ban quán đỉnh về cuối đời, người ta nói rằng, Ngài Jigme Kalzang sẽ là vị ban khẩu truyền kèm theo. Cũng chính Ngài là vị đã công nhận Patrul Orgyen Jigme Chokyi Wangpo (1808-1887)[3] là vị tái sinh của Palge Lama Samten Phuntsok, điều mà sau đó Đức Dodrubchen đã xác nhận.

Sau các nghiên cứu, Ngài giảng dạy rộng rãi, khắp vùng Kham. Ngài cũng du hành xa hơn về phía Bắc, vào tỉnh Amdo. Theo các chỉ dẫn từ Đức Dodrubchen, Ngài viếng thăm Rebkong và các quận Bayan Khar (Hualong thuộc tỉnh Thanh Hải ngày nay) và Trika, cũng như những nơi khác gần đó để giảng dạy và chăm sóc đệ tử. Trong những chuyến du hành này, Ngài thành lập một Tu viện ở vùng Sokpo thuộc Amdo.

Khi danh tiếng lan rộng, Ngài trở thành mục tiêu của sự thù địch bộ phái. Các Lama và quan chức buộc tội Ngài làm điều sai trái, mặc dù chính xác là điều gì thì không được chỉ ra trong các nguồn sẵn có và điều này cuối cùng dẫn đến việc Ngài bị bỏ tù theo lệnh của hoàng đế Trung Quốc. Nhiều Lama sau đó hòa giải thay cho Ngài, bao gồm cả người họ hàng của Ngài – Traktung Namkha Gyatso (1788-1859) cũng như Maksar Pandita Kunzang Tobden Wangpo (1781-1828) và một Yogi tên Dorje Dudul. Maksar Pandita thậm chí còn đích thân du hành đến gặp hoàng đế trong nỗ lực đảm bảo rằng đạo sư được phóng thích. Khi ông ấy làm vậy và Ngài Jigme Kalzang được bảo rằng Ngài được tự do, Ngài khăng khăng rằng 300 bạn tù của Ngài cũng phải được thả cùng lúc. Người ta nói rằng hoàng đế đã miễn cưỡng chấp thuận.

Có nhiều miêu tả về điều xảy ra với Ngài Jigme Kalzang sau khi được thả khỏi tù. Một số nói rằng Ngài lập một ẩn thất đâu đó trong vùng sa mạc của Trung Quốc, nơi Ngài duy trì nhập thất trong phần còn lại của cuộc đời; số khác nói rằng Ngài thành lập một Tu viện ở Thượng Hải. Thậm chí còn có một tường thuật rằng Ngài đã du hành đến tận Nhật Bản. Số khác vẫn tin rằng Ngài đã trở về Serta và thành lập một trung tâm nhập thất ở đó, nhưng những biên tập viên của một cuốn trước tác gần đây của Ngài đã xem kiểu sau cùng này là không thể.

Năm qua đời của Ngài Jigme Kalzang không được ghi lại. Một câu chuyện, được Dilgo Khyentse Rinpoche kể lại và nằm trong cuốn Đạo Sư Của Thiền ĐịnhThần Thông của Tulku Thondup, kể về cách mà Ngài qua đời trong lúc du hànhTrung Quốc. Khi Ngài đi qua một thị trấn, Ngài nhận ra một đám đông đang tập trung tại quảng trường trung tâm và đã đến xem chuyện gì đang xảy ra. Ở đó, Ngài thấy một tên trộm sắp bị hành hình bằng một phương pháp lạ, điều đòi hỏi hắn sẽ bị cột vào một con ngựa sắt. Con ngựa sắt này sau đó được làm nóng đến nhiệt độ không thể chịu đựng từ bên trong. Ngay lập tức, Ngài Jigme Kalzang chen lên trước đám đông, tuyên bố chính Ngài mới là thủ phạm thật sự. Tên trộm được thả và Ngài Jigme Kalzang bị hành hình thay cho hắn. Như thế, vì lòng bi mẫn, Ngài đã từ bỏ mạng sống để miễn khổ đau cho một tội phạm vô danh.

Các trước tác của Ngài Jigme Kalzang bao gồm bản văn nổi tiếng Tiếng Bi Bô Ngu Xuẩn Làm Sáng Tỏ Sự Thực – Các Chú Thích Về Giai Đoạn Sinh KhởiHoàn Thiện. Tác phẩm này đã được dịch sang Anh ngữ nhiều lần, nhưng thường được quy cho Ngài Do Khyentse Yeshe Dorje (1800-1866) thậm chí bởi những người Tây Tạng – một sai sót có thể bởi sự tương đồng về danh hiệu (bản văn được ký bởi Zhonnu Yeshe Dorje, một trong các danh hiệu của Ngài Jigme Kalzang nhưng không phải danh hiệu chứng thực cho Ngài Do Khyentse). Ngài cũng viết về các thực hành sơ khởi Longchen Nyingtik và nhiều chủ đề khác nhau như thệ nguyện Samaya, Chod, thực hành Phổ Ba Kim Cương, ngữ pháp và Ngài soạn nhiều bài ca chứng ngộ. Ít nhất, một số bản văn mà Ngài viết với danh hiệu Kyeme Dorje vẫn chưa được xuất bản.

Sau khi bị tống giam, sự công nhận vị tái sinh của Ngài Jigme Kalzang bị cấm. Nhưng một số học trò ở vùng Rebkong vẫn thờ ơ điều này và tiến hành tìm kiếm bí mật trong khi tuyên bố là đang tìm một vị “Dzongngon Tulku” nhất định. Vị tái sinh, sinh vào khoảng giữa thế kỷ 19, như thế được biết đến là Ngài Dzongngon thứ hai và được đặt tên là Pema Tukchok Dorje. Ngài đã biên soạn nhiều bản văn liên quan đến thực hành Longchen Nyingtik và Dzogchen cùng nhiều chủ đề khác. Ngài Yukhok Choying Rangdrol (1872-1952)[4] cũng được công nhận là một trong những vị tái sinh của Ngài Jigme Kalzang.

 

Nguồn Anh ngữ: https://treasuryoflives.org/biographies/view/Jigme-Kelzang/7732.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Adam Pearcey là vị sáng lập Lotsawa House, người đã hoàn thành chương trình PhD tại SOAS, Đại Học London vào năm 2018 với luận văn về Dzogchen, chủ nghĩa kinh viện và đặc tính bộ pháiTây Tạng đầu thế kỷ 20.

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Là một Phật tử dù đức tin có vững vàng đến đâu mà những hình ảnh, tin tức xấu xí về Phật giáo hàng ngày cứ đập vào mắt mình như thế, tôi cảm thấy rất đau lòng!
Những ngày gần đây lan truyền trên mạng xã hội hình ảnh một vị sư đầu trần chân đất đi bộ từ Nam ra Bắc, rồi từ Bắc vào Nam. Xem qua nhiều clip và đọc một số bình luận thấy có người khen kẻ chê, người tán dương, kẻ dè bỉu.. Nhưng nói chung tôi thấy Thầy được cung kính nhiều hơn. Xin có những thiển ý như sau qua hiện tượng này.
Trong tập san Sagesses bouddhistes (Trí tuệ Phật giáo) của Tổng hội Phật giáo Pháp, số mới nhất tháng tư năm 2024, với chủ đề Tìm kiếm một nền hòa bình cho mình, cho thế giới (Trouver la paix pour soi, pour le Monde), trong mục ‘Tin ngắn’ có nêu lên hai mẫu tin đáng cho chúng ta suy nghĩ. Mẫu tin thứ nhất như sau :