Qui Y

21/09/201012:00 SA(Xem: 16262)
Qui Y

QUI Y

Chúng ta đã chia sẻ với nhau tại sao chúng ta cần phải thanh tẩy và thanh tẩy như thế nào. Chúng ta cũng hiểu rất rõ là chúng ta luôn tạo thêm những nghiệp mới qua thân khẩu và ý, bởi vì chúng ta chưa thấu hiểu nguyên nhân nội tại, luật của nghiệp lực.

Có một sự khác biệt rất lớn giữa sự hiểu biết thuần lý thuyết và sự hiểu biết bằng kinh nghiệm sống thực. Một số học trò hiểu thấu đáo những lời dạy bảo về nghiệp và tin tưởng mãnh liệt rằng “Điều đó rất đúng vì Lạt ma của tôi đã nói như vậy!” Nhưng họ không có một chút kinh nghiệm sống nào, nên khi bị thử thách họ đã thất bại. Họ không có một phương pháp giải quyết khi một vấn đề trầm trọng xẩy ra. Họ rất thỏa mãn khi nói về nghiệp, họ còn khuyên cha mẹ và bạn bè họ: “Thôi, như vậy đủ rồi ! ” nhưng họ không thể làm được những điều mà họ đã nói vì họ chưa từng bao giờ thực hành.

Tuy nhiên, một số học trò khác không hoàn toàn thỏa mãn với những lý thuyết mà họ đã học, ngược lại, họ thực tâm muốn hiểu thấu vấn đề bằng chính kinh nghiệm sống của họ. Có thể họ đã không học về nghiệp nhưng họ lại luôn luôn tỉnh thức trong mọi hành động, như vậy họ đã thực sự nếm mùi vị của Phật Pháp, như nếm mật ngọt bằng chính lưỡi của họ. Khi sự khó khăn xẩy đến, họ biết cách đối phó, biết cách giải quyết. Chúng ta phải hiểu thấu vấn đề này. Thật là nguy hiểm, nếu chúng ta chỉ bám víu, ôm giữ, tích tụ Phật Pháp mà không thực hành nó. Điều này không giúp chúng ta được chút gì trong cuộc sống.

Rất nhiều vị học giả, giáo sư, từ Đông sang Tây, đã giảng dạy về tất cả triết lý nhà Phật, mà chưa hề thực hành chút nào. Đặt câu hỏi là họ trả lời ngay, nhưng những câu trả lời của họ giống như những người hướng dẫn du lịch, họ chuyên nghiệp như một cái máy. Khi một người thực sự kinh nghiệm Phật Pháp nói, lời nói của họ tràn đầy sức mạnh của ơn phước, của chuyển hóa. Có thể họ cũng nói cùng một vấn đề như những vị học giả nhưng khi họ diễn tả vấn đề là họ truyền đạt đến tận con tim của thính giả, làm con tim của người nghe thực sự rung động. Lời nói không có kinh nghiệm giống như một cơn gió thoảng qua tai.

Nếu không hiểu luật nhân quả bằng chính kinh nghiệm bản thân, thì ta không thể tỉnh thức trong bất cứ việc gì ta làm. Mặc dầu những người này có thể giảng dạy rất uyên bác cho hàng ngàn thính giả, nhưng thính giả không cảm thấy gì, không tin được những lời thuyết pháp, vì họ chưa thực sự nếm được mật ngọt của vấn đề. Họ đã không thật sự sống với điều họ tranh luận. Đây là một điều đáng buồn. Khi được hỏi một vấn đề thực tế của nghiệp quả như thế nào, các vị học giả chỉ có thể dẫn chứng bằng những gì họ đã đọc trong một vài cuốn sách. Vì không có kinh nghiệm nên họ không thể giải thích được một cách rõ ràng: quan sát nghiệp như thế nào, làm thế nào để thực hành, cách chuyển hóa một hành động xấu qua tốt như thế nào? Có những câu hỏi thực tế về nghiệp đến từ bên ngoài sách vở, nên những học giả này không thể trả lời. Cuối cùng họ chỉ nói cho qua chuyện: “ Anh không thể hỏi như vậy, Phật Pháp không có vấn đề đó.” Thực sự vấn đề không đơn giản như họ đã đọc được trong sách vở.

Tôi chắc chắn rằng phần đông chúng ta đã hiểu rõ những hành động xấu của thân khẩu và ý là những chu kỳ tự nhiên, mang đến cho đời những đau khổ, những bối rối và những xấu xa. Đây là sự thật chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa. Qúy vị có thể giải thích vấn đề này rõ hơn tôi. Khi ngồi nghe cái giọng Anh văn què quặt của tôi, qúy vị tự nghĩ: “Cái ngôn ngữ gì quái gở vậy? Nếu ông ấy để tôi nói, tôi có thể giải thích hay hơn.” Đó là một sự thật. Nhưng tại sao chúng ta không thể chấm dứt những thói quen tật xấu của chúng ta? Điều đó chứng minh hiểu biết bằng lý thuyết thôi, không đủ, cần phảithực hành.

Một số phật tử tuy hiểu rất ít về Phật Pháp, nhưng họ có một trình độ tâm linh rất cao, vì họ chú tâm chăm chỉ thực hành Phật Pháp. Nhưng có rất nhiều giáo sư, học gỉa uyên thâm về lý thuyết nhà Phật, đã từng đi thuyết pháp nhiều nơi mà chẳng có một trình độ tâm linh nào. Do đó, tôi khuyên qúy vị nên vô cùng thận trọng trong vấn đề này. Khi chỉ nói về, chỉ bàn về những lời dạy bảo thì nó chẳng có ích lợi gì. Chúng ta cần phải thực hành. Những lời dạy bảo phải mang những rung động của ơn phước, của chuyển hóa trong từng kinh nghiệm cá nhân, và phải có khả năng chuyển những nguồn năng lực đó đến người nghe.

Tây Tạng, trên con đường dạy bảo những phương pháp tu tập, những bậc thầy thường không chú trọng dạy lý thuyết, mà đặc biệt chỉ chú tâm đến vấn đề thực hành Phật Pháp. Ngay trong lúc thuyết giảng, họ cũng để học trò thiền định. Kết qủa là có một số học trò đã chứng nghiệm ngay trong lúc nghe giảng. Thường thường một khóa học là 20 ngày, sau 20 ngày học hỏi, họ đã hiểu trọn vẹn vấn đề từ đầu đến cuối, tâm đầy tràn năng lực, họ gấp gấp rời bỏ tu viện, đi vào những hang động trong núi thẳm để thiền định trong cô liêu. Nói khác đi, những vị học gỉa có thể dạy chúng ta cả 20 năm mà không gây được một rung động nào trong trái tim của chúng ta

Tôi cũng đã thấy một số học trò Tây phương rất phấn khởi trong phương pháp tu tập Lam-rim, họ cũng muốn đi vào hang động để thiền định trong cô liêu. Tuy nhiên, tiếp tục kiên nhẫn tu tập trong nhiều năm để thanh tẩy những nghiệp chướng thì vẫn tốt hơnđi vào núi thẳm để thiền định , vì sự thúc đẩy của cảm xúc hay của cảm hứng thì nhất thời không bền lâu

Vì thế, khi qui yphát tâm bồ đề, chúng ta không nên để một khoảng trống giữa chúng ta và những công việc này. Nếu chúng ta không hợp nhất với những công việc này, chúng ta sẽ không tẩy rửa được những nghiệp của chúng ta, như sự trình bày ở trên kia. Khi qui y, chúng ta hãy trở nên làm một với việc qui y. Khi phát nguyện tâm bồ đề, chúng ta hãy trở nên làm một với tâm bồ đề. Không phải khi làm lễ qui y, ngồi trên tấm nệm mà tâm lại suy nghĩ những gì ở đâu đâu. Hãy để tâm hoà nhập với Phật Phápchúng ta đang thực hành. Điều này tuy khó nhưng không phải là không làm được, điều này thực sự cần thiết nếu chúng ta thực tập để mang lại lợi ích cho tâm hồn chúng ta và cho mọi người.

Bởi vì không những chỉ nghe mà còn cố gắng thực hành, nên một số rất đông những người Tây phương đã đạt được những thành qủa tốt trên đường tìm giác ngộ và họ đã có những chứng nghiệm rất cao. Những học trò này rất thành thực và bén nhậy trong lúc nói chuyện với Lạt ma Zopa và với cá nhân tôi, tâm của họ thực sự đã được cảm hoá bởi những điều họ nghe. Nếu trong lúc học hỏi, người nói như cái máy phát thanh, người nghe như bức tường, thì làm sao có được những ơn ích này? Nói một cách sâu xa hơn, với bản tính đa nghi của người Tây phương, họ không dễ dàng chấp nhận bất cứ điều gì cho đến khi họ đã hoàn toàn hiểu và thấm nhập những ơn ích của lời dạy bảo. Tôi thích nghe họ phát biểu: “ Thầy nói như vậy, tôi không chấp nhận.” Chúng tôicảm tưởng rằng họ ái mộ ông thầy vì lòng tin nhất thời hơn là có sự hiểu biết sâu xa hầu có đủ điều kiện để nghe Pháp.

Qui yphát tâm bồ đề 

 Nguyện mãi mãi, Con xin qui y Phật, Pháp, Tăng, Tăng sĩ trong cả 3 truyền thừa, cùng chư Nam Tiên và Nữ Tiên của mật chú, những vị Anh Hùng, Chư Thiên, Chư Bồ Tát và đăïc biệt là Thầy con 

 “Thừa” được phiên dịch từ chữ Phạn yana, có nghĩa là “con đường, cỗ xe, phương tiện.” Theo nghĩa rộng thì đó là một phương tiện để nâng tâm thức của chúng ta lên một cấp độ cao hơn. Thí dụ, nếu chúng ta phát nguyện tâm bồ đềthực hành sáu hạnh bồ tát, chắc chắn chúng ta sẽ đạt giác ngộ. Cỗ xe lớn, Đại thừa, đưa chúng ta đi từ chỗ khởi đầu, tâm bồ đề qua sáu hạnh và từ thập địa bồ tát lên đến giác ngộ. Nếu chúng ta bắt đầu một cách thật hoàn hảo và hành động đúng, chắc chắn chiếc xe sẽ đưa chúng ta đến chỗ mong muốn. Yana còn có nghĩa là con đường: con đường đi đúng sẽ dẫn đến đúng chỗ. Nếu vì vô minh, chúng ta chọn con đường đi sai, chúng ta sẽ đi lạc.

Ba cỗ xe Phật giáo là hai cỗ thuộc Tiểu thừa và một cỗ thuộc Đại thừa. Chúng ta qui y Tăng trong cả ba thừa. Mặc dù chúng ta đang theo truyền thống Đại thừađặc biệt hơn, trong cái chiều hướng sâu thẳm nhất của Mật tông, chúng ta cũng không nên kiêu ngạo mà nghĩ rằng “ Tôi thuộc Đại thừa, tôi không cần qui y Tăng bên Tiểu thừa.” Mặc dầu chư vị La hán bên Tiểu thừa còn bám víu vào sự giải thoát cho riêng họ, nhưng họ cũng đã vượt thoát khỏi ngã chấp để chứng nghiệm tánh không và họ cũng có khả năng hướng dẫn chúng ta ra khỏi kiếp luân hồi. Vì thế, chúng ta không nên kỳ thị mà chúng ta nên qui y các ngài.

Tiểu thừaĐại thừa không phải là những phát minh của các vị Lạt ma Tây Tạng. Hai truyền thống Phật giáo này được sáng lập bởi chính Đức Phật và như vậy nó đã tồn tại từ lâu đời trước khi được truyền vào Tây tạng. Có một số người nghĩ rằng Đức Phật chỉ truyền dạy bằng tiếng Pali và cho rằng những bản kinh được ghi chép bằng ngôn ngữ khác là sai. Có những người khác lại tin vào tiếng Phạn (Sanskrit). Cả hai luận cứ này đều sai lầm. Một khi Phật pháp được truyền sang nước khác, được thực hành bởi các vị hành giả, thì nó vẫn được giữ nguyên vẹn lời dạy bảo, nhưng rồi dần dần được làm cho thích hợp với tâm hồn dân địa phương, và vì vấn đề truyền thông sao cho dễ hiểu. Như vậy, có một sự khác biệt lớn giữa xứ tuyết Tây tạng và bình nguyên nóng cháy Aán độ, do đó chúng ta có thể hiểu được sự thay đổi của Đạo Pháp khi nó di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác.

Ngày xưa, có một ông vua là môn đệ của Đức Phật, một đêm vua mơ thấy 18 người tranh giành nhau một cuộn vải, ai cũng cố gắng tranh phần thắng về mình. Sau cùng, ai cũng chiếm được trọn cuộn vải. Vua đến hỏi Phật về ý nghĩa của giấc mơ đó. Ngài giải thích rằng cuộn vải tượng trưng cho những lời dạy bảo của Ngài, sau khi Ngài qua đời, mười tám trường phái sẽ nắm giữ theo sự hiểu biết riêng của họ để giải thích giáo lý của Ngài. Mỗi người nhận được một cuộn vải có nghĩa là mỗi một tông phái sẽ nắm giữ một con đường đúng riêng và sẽ thực hành theo để đi đến giải thoát. Như vậy, sự thành lập mười tám tông phái Tiểu thừa là do lời tiên tri của Đức Phật.

Tông phái Phật giáo nguyên thủy (Theravada) là một trong 18 tông phái đó. Một số tín đồ của Tiểu thừa cảm thấy buồn khi được gọi là “ tín đồ Tiểu thừa” và yêu cầu được gọi là Phật giáo nguyên thủy -- điều này vô lý, vì Phật giáo nguyên thủy chỉ là một trong số 18 tông phái kia, Thevada không nắm giữ tất cả triết lý của Tiểu thừa, nên không thể coi như bằng nhau –Ngược lại, một số khác lại tự đắc khi nghĩ mình thuộc Phật giáo Đại thừa. Sự phân biệt nhị nguyên này phát khởi do tâm vô minh và đi ngược hẳn lại sự an bình nội tại của Phật Pháp.

Sự khác biệt căn bản giữa Tiểu thừaĐại thừa nằm ngay tại tâm của họ. Nguyên tắc căn bản của Tiểu thừa là chú trọng vào sự giải thoát một mình họ, trong khi đó những người theo Đại thừa quan niệm đạt giác ngộ để giải thoát tất cả muôn loài chúng sinh. Một số người phân biệt mặc áo màu vàng là Tiểu thừa, áo màu đỏ là Đại thừa, nhưng đó là một sự sai lầm. Tất cả những ai tu tập không vì sự giác ngộ cho riêng mình mà cho muôn loài chúng sinh thì là Đại thừa, không phân biệt họ mặc áo mầu gì. Nếu ai mặc áo đỏ mà chỉ tu tập cho riêng họ, lo giải thoát khỏi luân hồi sinh tử cho riêng cá nhân họ thì đó chính là môn đồ của Tiểu thừa.

Chúng ta qui y Tăng thuộc Đại thừa cũng như Tiểu thừa, chư vị thần tiên và chư vị bồ tát - tất cả những vị này đã chứng nghiệmthành tựu con đường cao nhất của Mật tông. Có vị xuất hiện như một vị thần từ bi, có những vị xuất hiện dưới dung mạo giận dữ.

Khi một vị bồ tát thị hiện dưới hình thức giận dữ, chúng ta không nên nghĩ rằng họ phải luôn luôn hiền hòa. Ngay cả trong đệ nhất địa của thập địa bồ tát, được gọi là “Hoan Hỉ Địa”, họ cũng có thể thị hiện ra hàng trăm cách khác nhau. Từ những hình dạng này, những lời dậy bảo có thể thị hiện từ Báo Thân Phật ra 100 vị Phật khác nhau hoặc hóa hiện ra 100 cảnh giới khác nhau để giáo hóa chúng sinh. Trong tiến trình bồ tát hạnh, khả năng của họ tăng lên gấp mười ở mỗi một cấp bậc; những gì họ có thể làm được vượt xa sự lý giải của chúng ta. Vì thế, chư vị bồ tát có thể thị hiện ra trong bất cứ dung mạo nào, một vị thần hiền lành hay một vị thần hung dữ ...vân vân..., chúng ta nên qui y các ngài.

Thực ra, chư bồ tát có thể thị hiện ra là người Đông phương hay người Tây phương, người da mầu hay người da trắng, người Thiên chúa giáo, người Hồi giáo hay người Do thái giáo - bất cứ hình dạng nào. Ngày nay, có quá nhiều tín đồ tôn giáo với tâm hẹp hòi, họ không muốn đến với những vị thầy tâm linh khác chủng tộc, khác màu da, khác tôn giáo hay khác quốc gia. Khi họ đã theo một vị thầy riêng, đã trở thành đệ tử của vị thầy đó, họ cho tất cả những vị thầy khác và tín đồ của ông ta là quỉ ma. Tôi gọi những người này là “chủ nghĩa Thầy.” Đây thật là một điều sai lầm, họ qui y với một tâm kỳ thị. Đây không phải là đường lối qui y của Phật giáo.

Dĩ nhiên, một số khác lại tự tôn mình là vị thầy số một và độc nhất trên thế giới, rồi đồ đệ của họ cũng tự nhiên tin như vậy. Trong trường hợp này, thay vì trở nên một chiếc xe chuyên chở tín đồ đến giải thoát, tôn giáo mà họ rao giảng lại làm ngộp thở tín đồ, họ trở nên hẹp hòi hơn và sau cùng trở thành một loại cuồng tín. Tốt hơn hết là không theo một tôn giáo nào, còn hơn là có đạo theo kiểu này. Ít ra, những người vô tôn giáo không có những quan điểm quá khích như vậy, với họ, họ nghĩ rằng chỉ cần trở nên một người bình thường là quá đủ, quá tốt rồi.

Chúng ta qui y phật và bồ tát trong 10 phương, qui y những vị đã đạt ngộ tánh không, bất kể họ thuộc màu da nào, quốc gia nào hay tín ngưỡng nào. Hãy nhớ rằng, cấp bậc thứ nhất trong hàng bồ tát có thể là người Phi châu đàn ông hay đàn bà, có thể là một bác tài xế lạc đà Ả Rập, cũng có thể là một tên khủng bố, khi nghĩ được như vậy, chúng ta sẽ phục vụ người khác tốt hơn.

Sau cùng, như trong lời cầu nguyện, chúng ta qui y vị thầy của chúng ta, đặc biệt hơn nữa là vị thầy nguyên thủy của chúng ta, người sẽ hướng dẫn chúng ta trên con đường đến giải thoát. Hãy luôn luôn nhớ rằng vị thầy duy nhất của chúng ta theo phương pháp này là Heruka Vajrasattva (Ngài Kim Cang Tát Đỏa) Danh từ Tây tạng Lob-pon có nghĩa là một người chỉ cho chúng ta con đường ngay thật và hướng dẫn chúng ta đi theo con đường đó, Ngài uốn nắn những hành động của thân khẩu ý của chúng ta và đem chúng ta ra khỏi những hành động mù quáng, vô minh. Ngài có thể hướng dẫn chúng ta đến giác ngộ ngay trong đời hiện tại hoặc chỉ trong ba năm. Hãy gọi tên Ngài bằng một tiếng tôn kínhqui y Ngài mãi mãi.

Khi qui y, chúng ta hãy quán tưởng như sau, bên phải là cha tôi, bên trái là mẹ tôi. Kẻ thù số một của tôi, người nào gây trở ngại cho chúng ta nhiều nhất, ở ngay trước mặt tôi. Người bạn thân nhất của tôi, người mà gắn bó với ta nhất, ở đằng sau tôi. Tất cả những chúng sinh khác ở chung quanh tôi. 

Theo Đại thừa, đây là sự quán tưởng tốt nhất. Nếu chúng ta thắc mắc chúng ta nên đặt người bạn thân của chúng ta ở đâu? Chúng ta thường trả lời “ Ồ, ngay ở đây, trước mặt tôi !” và kẻ thù ở sau lưng hoặc tít ngoài xa kia. Thay vì làm như vậy, khi qui y, chúng ta nên đặt kẻ thù ở ngay trước mặt. Hãy nhìn họ, hãy chiêm nghiệm đời sống của họ. Nói một cách chân thành, chúng ta hãy nghĩ đến những vấn đề riêng tư của chúng ta, trong cái riêng tư này có những nguyên nhân gây ra những hành động không thể kiểm soát được, rồi chúng ta hãy nghĩ rằng kẻ thù của chúng ta cũng ở trong hoàn cảnh đó. Hãy nghĩ như vậy cho kẻ thù của ta, “Tôi nghĩ rằng, người này xấu nhưng những khó khăn của họ cũng giống y hệt của tôi, thì tại sao tôi lại nổi giận mỗi khi tôi thấy họ? Vấn đề xấu nhất của họ chính là ngã chấp vô minh. Nghĩ rằng ghét cái gì thì sẽ ghét cái đó. Tôi không nhìn thấy tâm vô minh của họ thì tại sao tôi lại có những hành động xấu khi thấy họ? Thân xác của họ chỉ đại diện cho một cái tâm xấu, tôi không thích họ chỉ vì cái tâm xấu này sao? Họ có thể nhìn ra điều này nếu tâm vô minh của họ được thanh tẩy rồi họ cũng sẽ được giải thoát.” 

Do đó, chúng ta nên phát tâm từ bi đến kẻ thù của chúng ta khi chúng ta qui y. Đây là một quan niệm đúng đắn nhất, tuyệt vời nhất của qui y. Thực hành qui y theo đường lối này là cách tốt nhất để giải quyết những vấn đề của tham sân si. Nếu không, chúng ta lại tích tụ thêm âu lo cho hiện tại và lại làm tăng thêm những bám viú, những ràng buộc trong lúc qui y. Chúng ta nói rằng chúng ta đang thực hành Phật pháp, nhưng Phật phápchúng ta đang thực hành chẳng mang lại ơn ích gì mà chỉ tăng thêm sự ràng buộc cho cuộc sống. Với thái độ như vậy, niềm an lạc của Phật sẽ trở thành một vật sở hữu, thay vì giải thoát chúng ta ra khỏi những phiền toái, những khó khăn của cuộc sống thì lại ràng buộc và gây cho chúng ta nhiều phiền toái hơn nữa. Lúc đó họ sẽ bực tức: “ Phật Pháp của ông như cục cứt!” Như vậy cái ngã lại tăng lên.



Trí tuệ là trí tuệ! Tại sao nó lại gây trở ngại cho chúng ta nếu có một vài kẻ vô minh bảo chúng ta là cục cứt? hay gọi Lạt ma của chúng ta là đồ quỉ sứ? Chúng ta không thể dễ dàng trở nên một cục phân hay đồ quỷ sứ khi bị gọi như vậy. Do đó, chúng ta hãy thâïn trọng! Nếu chúng ta tức giận khi một vài kẻ nhục mạ sự thực hành Phật Pháp của chúng ta, vô tình chúng ta đã mang Phật xuống thành một sự vật. Điều này chẳng những áp dụng cho đạo Phật mà còn cho tất cả những tôn giáo khác nữa. Nếu tín đồ của một tôn giáo nào mà tức giận gọi tôn giáo khác là không tốt rồi đi đốt chùa, đốt nhà thờ của họ, là những hành động điên rồ, cuồng tínhoàn toàn sai lầm. Hãy kiểm chứng xem chúng ta phản ứng như thế nào khi đối diện với những hành vi này? Một khi tức giận thì đã quá muộn để kiểm soát!

Việc quán tưởng muôn loài chúng sinh ở chung quanh chúng ta khi chúng ta làm lễ qui y là một việc làm đầy sức mạnh hầu che chở và lôi kéo chúng ta ra khỏi những vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Rất nhiều người trong chúng ta luôn luôn bị ám ảnh bởi những hành động xấu. Ta không thể quên nó được và không bao giờ dám nghĩ đến những kinh nghiệm của họ. Cuối cùng, ta phải thành thật mà nhìn nhận rằng ta cũng giống y hệt những người khác. Chúng ta bắt đầu tự nhủ “ Ít ra, tôi không phải là người xấu nhất trần gian, tôi không cô đơn trong sự buồn khổ, có nhiều người giống tôi, tôi nên có những hành động từ bi hỉ xả với họ cũng như cho chính tôi.”

Làm thế nào Phật, Pháp, Tăng cứu chúng ta ra khỏi biển luân hồi sinh tử ? Tất cả đều tùy thuộc vào thái độ tinh thần của chúng ta! Chúng ta phải hiểu thấu đáo bản tính hiện hữu của luân hồi và nguồn sức mạnh vô biên của Phật, Pháp và Tăng sẽ dẫn chúng ta ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này. “ Tôi không thể cứu nổi tôi. Mặc dầu tôi có đủ thông minh để làm cho cuộc sống đầy đủ hơn, sung túc hơn, nhưng tôi không đủ trí tuệ để lôi kéo tôi ra khỏi sức thu hút, sự bám viú vào những thú vui vật chất, chúng trói buộc tôi vào kiếp sống luân hồi. Tôi không có cách nào giải thoát tôi ra khỏi cái vòng luân hồi này. Nhưng chư vị Phật có thể hướng dẫn tôi. Các Ngài có những phương pháp, có ánh sáng siêu việt để phá tan bức màn vô minh đang bao phủ tôi, các Ngài có chìa khóa mở cửa tâm hồn tôi, như vậy cây trí tuệ trong tôi sẽ lớn mạnh. Tôi qúa mệt mỏi vì những vấn đề không thể kiểm soát được mà cứ kéo dài mãi mãi chẳng bao giờ ngừng. Chư vị Phật sẽ chỉ cho tôi con đường thích hợp nhất để đem tôi từ chỗ tối tăm ra ánh sáng. Chư Tăng sẽ hướng dẫn tôi và các chúng sinh ra khỏi vòng u mê. Và Phật Phápgiáo lý tối thượng, là con đường chân thật, là sự chấm dứt mọi khổ đau của chúng sinh.” 

Có rất nhiều ý nghĩa và cấp độ của danh từ Phật Pháp, tùy theo sự hiểu biếttrình độ của mỗi chúng sinh, và tôi chắc chắn rằng qúy vị đã từng học hỏi trong kinh sách của Phật giáo. Khi chúng ta qui y Phật Pháp, đối tượng qui y chính là Trí Huệ Bát Nhã, qua trí huệ đó, chúng ta sẽ hiểu thấu được chân tính và hòa nhập làm một với tánh không, hoàn toàn vượt ra khỏi ý thức nhị nguyên. Chúng ta luôn luôn nói về Phật Pháp, nhưng Phật Pháp là gì? Phật Pháp chính là Trí huệ, Trí Huệ Bát Nhã. Tuy nhiên, chúng ta phải mất một thời gian rất lâu và cần tích lũy rất nhiều chứng nghiệm thì mới đạt đến Trí Huệ Siêu Việt này. Bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau thảo luận vấn đề này. Một cái xe hơi, muốn chạy tốt, nó phải tùy thuộc vào rất nhiều bộ phận, rất nhiều thành phần. Mỗi bộ phận đều không phải là cái xe. Cũng giống như vậy, trí tuệ là một sự tổng hợp của rất nhiều nguồn hiểu biết, mỗi một nguồn là một thành phần trong toàn bộ của con đường trí tuệ.

Vì thế, chúng ta có thể hiểu rằng có một sự khác biệt giữa công việc mà chúng ta qui y -Trí Huệ Bát Nhã, một sự hiểu biết toàn diện bản thể tuyệt đối, Tánh Không- và Phật Phápchúng ta thảo luận ở đây -trí tuệ để giải quyết những vấn đề thuộc tinh thần- Trí Huệ Bát Nhã là một đối tượng toàn trichúng ta qui y. Có rất nhiều học trò khiếu nại họ đã chờ đợi quá lâu để được học Tánh Không. Nhưng như chúng ta đã thấy, tôi đã giảng dạy Tánh Không ở đây! Có điều tôi không tuyên bốđánh lừa qúy vị bằng một lời lẽ đơn giản: “ Hãy lại đây! Tôi sẽ chỉ cho qúy vị Tánh Không, ngày mai qúy vị sẽ giác ngộ!!!”

Chư Phật dậy chúng ta Phật Pháp và cho chúng ta biết nó tác độngnội tâm ta như thế nào để thực sự chấm dứt khổ đau. Qua việc thực hành liên tục chúng ta sẽ trở thành Phật. Tăng sĩ giúp chúng ta thành lập những điều kiện tốt cho việc thực hành để chắc chắn chúng ta sẽ thanh tẩy được nghiệp chướngchấm dứt khổ đau. Như tôi đã trình bày trên kia, chư vị Bồ Tát thị hiện bằng vô vàn cách khác nhau với một mục đích duy nhất là giúp chúng ta trên con đường thực hành Phật Pháp. Khi các ngài thị hiện ra trong hình thù hung dữ, chúng ta đừng sợ hãi, đừng tức giận mà nghĩ rằng các ngài không còn yêu thương chúng ta nữa. Thay vì thế, chúng ta nên suy nghĩ : “ Vị Bồ Tát này đang cho tôi biết tôi xấu như thế nào khi tôi tức giận. Nếu Ngài không làm như vậy thì không bao giờ tôi biết được chính tôi, tôi nên cám ơn Ngài về lòng tốt của Ngài.” Bất cứ lúc nào, bất cứ ai giận chúng ta, chúng ta cũng nên nghĩ rằng ông đó, bà đó... là sự thị hiện của Bồ Tát để dạy chúng ta về sự nóng giận. Giống như thế, khi nào chung quanh chúng ta có những người dễ thương, chúng ta nên nghĩ đến những sự an vui và đó chính là Bồ Tát đang chỉ cho chúng ta cách trở nên một người an lạc.

Chúng ta biết rằng có những người khi chúng ta gặp, chúng ta cảm thấy vui vẻ, an lành, nhưng có những người khi gặp, chúng ta lại cảm thấy khó chịu, không một chút tình cảm nào. Nghiệp đấy, nghiệp nó tác động đấy! Trong nội tâm của chúng ta có những nguồn năng lực gây ra tình trạng này, chúng ta hoàn toàn không kiểm soát được nó. Một anh đẹp trai, một cô duyên dáng tự nhiên nó đã như vậy dù ở bất cứ đâu, một người xấu tự nhiênxuất hiện như vậy. Đó là nghiệp của họ, mặc dầu họ không muốn, rất khó mà thay đổi được nó. Người Tây phương giải thích bằng khoa học vấn đề này như thế nào? Nghiệp làm cho đời sống của chúng ta khó hơn, bực bội hơn, nghiệp cũng làm cho đời sống của chúng ta dễ hơn, thoải mái hơn.

Tuy nhiên, không thể nói rằng nghiệp luôn luôn như vậy, nghiệp không thể thay đổi. Thực ra nghiệp là một hiện tượng có thể thay đổi được. Khi một nghiệp lực xuất hiện, thì ngay lúc đó một lực khác cũng xuất hiện để cân bằng.

Hãy lấy một thí dụ, Gomchen, một con chó nhỏ ở tu viện; tất cả mọi người yêu thương nó, Phật yêu thương nó, Chúa Jesus cũng yêu thương nó. Nếu không như vậy, thì không một ai có thể nói chuyện hoặc đến gần nó được; đến khi nào họ thay đổi một hình dạng thích hợp hơn thì sẽ lại gần nó được. Đó là nghiệp của họ. Tất cả chúng sinh trong cõi luân hồi đều phải chấp nhận những sự việc xẩy ra cho tới khi nào có một sức mạnh ở phía sau của kinh nghiệm này, của nghiệp lực này làm cho nó tan biến đi. Tất cả đời sống của chúng ta đều tùy thuộc vào nguồn năng lượng này. Khi nguyên động lực của một hành động đã tan biến, nó sẽ không còn mang lại hậu quả. Hãy quan sát cuộc đời của ta, ta sẽ hiểu được luật nhân quả. Đời sống của mỗi chúng sinh tùy thuộc vào đường lối suy nghĩ riêng, cấp độ ý thức riêng, thái độ riêng và hoàn cảnh sống chung quanh họ. Đó là nghiệp. Tôi dùng danh từ nghiệp ở đây hơi nhiều, mong rằng qúy vị hiểu thấu đáo.

Để kết luận, chư Phật chỉ cho ta con đường chân thật và sự chấm dứt tối hậu, Phật Pháp giải thoát ta ra khỏi luân hồi sinh tử. Các Ngài chỉ cho chúng ta biết nhận định ra đâu là sự hướng dẫn đúng và đâu là hành động đúng để phù hợp với con đường tu tập của chúng ta. Điều này có nghĩa là cho chúng ta, không phải cho Phật, ta phải thực sự có trách nhiệm trên con đường giải thoát của chính ta. Chúng ta phải hiểu rõ vấn đề này.

Chư Tăng trong ba thừa, gồm cả chư vị hộ pháp như Mahakala và Kalarupa đều là những người bạn của chúng ta; họ có thể giúp chúng ta bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu. Do đó chúng ta nên hiểu ý nghĩa thật của danh từ Tăng. Phần đông chúng ta hiểu Tăng là những người mặc tăng bào, nhưng không có một sách vở nào nói đến điều này. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng tất cả những ai đã hiến mình cho Phật Pháp qua một nghi lễ đều là Tăng. Những vị Tăng tối cao là những người đã chứng nghiệm được chân tính, Tánh Không; bất kể loại áo nào họ mặc, bất kể màu da nào họ có, bất kể quốc gia nào họ ở...vân vân..., họ đều thực sự là Tăng sĩ, là những người bạn quí nhất của chúng ta

Chúng ta thường cảm thấy cô đơn, nhưng chúng ta không cô đơn. Bởi vì, chư Tăng bất diệt luôn luôn đang ở với chúng ta, đó là chư vị thần tiên, chư vị bồ tát trong mọi hình dáng và chư vị tăng sĩ trong cả ba truyền thừa. Họ có thể hướng dẫn chúng ta thoát khỏi những biến động, những lầm lẫn trong cuộc sống. Một khi chúng ta nhận thức được điều này là chúng ta không bao giờ thiếu bạn, không bao giờ cô đơn. Hãy thiền định, hãy đi vào bên trong: người bạn chân thật không bao giờ bỏ chúng ta đang ở đó.

Đối tượng quán tưởng khi qui y

Phương pháp thực hành quán tưởng Ngài Kim Cang Tát Đỏa khác với phương phápchúng ta thường quán tưởng trên con đường tiệm tu đến giác ngộ, trong phương pháp tiệm tu đối tượng chính để quán tưởngĐức Phật Thích Ca. Nhưng Đức Phậtchúng ta quán tưởng ở đây là Heruka Vajrasattva (Kim Cang Tát Đỏa) hay Vajradhara (Kim Cang Thủ), tùy theo vị nào dễ cho chúng ta quán tưởng

Hãy quán tưởng Ngài Kim Cang Tát Đỏa màu xanh, đứng, đang ôm choàng nữ Phật tính của Ngài, Vajra Varahi màu đỏ (có nơi dịch là Phật Mẫu --Dg). Chung quanh Ngài là chư tiên nam và nữ, 62 vị thần trong mạn đà la Heruka, cùng vô lượng Phật, vô lượng Bồ Tát và các vị A la hán đã chứng ngộ cảnh giới an lạc bất diệt

Nếu chúng ta chọn Vajradhara để quán tưởng thì Ngài ngồi trên tòa sen ôm choàng nữ Phật tính của Ngài, Vajradhatu Ishvari. Ngài mang màu xanh, nữ Phật tính màu đỏ, chung quanh Ngài cũng giống như sự thị hiện ở trên, ngoại trừ không có 62 vị thần của Heruka mạn đà la. Tuy nhiên, dù quán tưởng Heruka hay Vajradhara, hãy nhớ kỹ một điều là vị thầy của chúng ta cũng xuất hiện y như vậy. Vị thần này là đối tượng chính để chúng ta quán tưởng khi qui ychúng ta sẽ trở nên làm một với Ngài (thầy của chúng ta.) Như vậy, Vajrasattva hay Vajradhara chính là Phật; chư vị thần tiên, chư tăng của ba dòng truyền thừa chính là Tăng và Phật Pháp chính là Trí Huệ của các Ngài.

Ơn phước của sự quán tưởng Heruka trong tư thế đứng sẽ được ban phát, sẽ được thấm vào hệ thần kinh của chúng ta và nó sẽ đánh thức nguồn năng lực nội tại (kundalini, tâm hỏa) của chúng ta. Công việc này giúp chúng ta trong việc thực hành maha-anuttara yoga mật tông. (maha là vĩ đại, to lớn; anuttara là không gì sánh bằng, tối thượng, Trung hoa dịch là A Nậu Đa La. Trong Kim Cang Thừa có tất cả 6 thừa, bậc hạ: Kriyayoga, Upayoga và yoga. Bậc thượng: Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga. Anuttara yoga là sự tổng hợp của ba tầng yoga bậc hạ -- Dg).

Sự quán tưởng không phải là công việc của đôi mắt, chúng ta không thể nhìn đăm đăm vào hình ảnh của Ngài để ở trước mặt chúng ta. Thần xác của Heruka là sự thị hiện chân bản thể của Ngài trong hình tướng thần linh trước mặt chúng ta. Do đó, sự quán tưởng là một sự biến đổi, là một sự chuyển hóa để trở nên làm một với tâm bản nhiên an lạc, đó là chân tínhChúng ta không thể cảm nhận chân tính bằng con mắt trần hay bằng giác quan của chúng ta. Vì thế, để cảm thông với chúng ta, nguồn năng lượng siêu việt mới thị hiện thành hình dáng này, trong suốt như ánh sáng. Sự thị hiện không xuất hiện thường xuyên nhưng đột khởi như một hình ảnh trên màn ảnh hoặc như một người đột nhiên thoáng đi qua cửa sổ. Qua sự quán tưởng này, chúng ta sẽ dễ dàng liên lạc được với Pháp Thân Phật (Dharmakaya).

Sau khi qui y, chư Phật và Tăng trong ba thừa -- Thần Tiên, chư Bồ Tát trong hình thể an lạc hoặc hung dữ cùng các vị Hộ Pháp...vân...vân -- sẽ hòa tan trong ánh sáng và hòa nhập trong vị thần chính Heruka. Vajra Varahi cũng trở nên ánh sáng rồi hòa nhập trong Heruka. Cuối cùng, chính Heruka cũng hòa tan trong ánh sáng rồi kết tụ lại ở trái tim của Ngài thành một qủa cầu sáng. Quả cầu sáng này sẽ đến trên đỉnh đầu (luân xa 7) của ta và tuôn chảy vào đường kinh mạch chính, đi qua luân xa cổ họng (luân xa 5) để hòa tan vào luân xa trái tim (luân xa 4) của ta. Như thế là toàn thể con người của ta trở nên làm một với ánh sáng, đó là vị thầy nguyên thủy Heruka của chính ta. Tiếp tục tập trung vào đó càng lâu càng tốt, đừng để những tư tưởng nhị nguyên, cái này cái kia, quấy phá ta. 

Khi thực hành, chúng ta có thể tập trung vào một điểm như vậy khoảng nửa giờ. Khi những ý niệm xấu bắt đầu xuất hiện, hãy ngưng thiền và phát nguyện Tâm Bồ Đề:

 Con muốn trở nên Heruka để hướng dẫn muôn loài chúng sinh đến cảnh giới an lạc của Heruka.

Ba phương pháp qui y

 Có ba phương pháp qui y: bên ngoài, bên trong và bí mật. Thông thường, phần đông chúng ta nghĩ rằng kinh điển hay Ba la mật, là phương pháp duy nhất để qui y. Đó là phương phápchúng ta gọi là qui y bên ngoài, hiện nay phương pháp này thường được giảng dậy. Theo cách này, qui y Phật là một vị Phật ở bên ngoài chúng ta: một người đạt quả vị Phật, như Phật Thích Ca. Qui y Pháp là những lời dạy bảo của vị đó. Qui y Tăng là qui y các vị đã được chỉ định hay các vị đã chứng ngộ được pháp tánh trong sự dạy bảo, như tôi đã giải thích ở trên. Phật, Pháp và Tăng đã hiện diện như vậy thì sẽ có đầy đủ quyền lực để hướng dẫn chúng ta là những kẻ sợ hãi luân hồi sinh tử, chúng ta nên qui y các Ngài.

Còn lại hai phương pháp qui y kia là của Mật tông. Qui y ở bên trong là qui y đức Phật mà chính ta sẽ trở thành. Đối tượng Trí Huệ, Phật Pháp tương lai, là chính Phật Pháp nội tại. Khi ta chứng ngộ được cảnh giới đó, chính ta sẽ trở thành Tăng: đó là đối tượng, vị Tăng nội tại. Theo phương pháp qui y này thì ta không chỉ là một vị Tăng mà thực ra ta đã hợp nhất với Tam Bảo và ta cũng không cần phải qui y một cách riêng biệt nào bên ngoài nữa.

Khi qui y theo phương pháp nội tại này, tâm của ta sẽ trở nên làm một với chân tâm; tất cả đều chuyển thành cảnh trí của Heruka hay của Vajradhara, cùng với chư Bồ Tát, Thần Tiên như đã trình bày ở trên. Để theo phương pháp này, ít nhất ta cần phải có một sự hiểu biết sâu rộng về những ý niệm sai lạc và những phóng chiếu của bản ngã, như thế ta mới có thể thanh tẩy được những vấn đề khi ta qui y. Đây không phải là một điều dễ dàng.

Qui y bí mậtphương pháp thứ ba. Phương pháp này là phương pháp khó nhất. Ta phải biết rằng khi đã qui y hệ thần kinh của ta đã được thấm nhập bởi những nguồn năng lượng an lạc thay vì những nguồn năng lượng ô nhiễm của những lôi kéo, của những bám víu vào cảm giác. Ở đây ta sử dụng cái nguồn năng lượng đã sẵn có trong hệ thần kinh của ta, để phát khởi cùng một lúc với niềm hỷ lạc và hợp nhất với chân tính để tiến lên con đường giải thoát. Kinh nghiệm này sẽ thực sự giải thoát ta khỏi những bất mãntrí phân biệt nhị nguyên. Phần đông chúng ta không ai ý thức được cái nguồn năng lượng đã sẵn tiềm ẩn ở bên trong chúng ta. Nhưng khi chúng ta đã tạo được một trạng thái đúng qua việc thực hành, như phương pháp thiền này hoặc phương pháp thiền Tum-mo (luyện tâm hỏa) là chúng ta có thể kinh nghiệm được sự hoạt động của nguồn năng lượng an lành này mà trước đây chúng ta không bao giờ nghĩ đến nó. Tôi được nghe có nhiều người đã đạt được những kinh nghiệm vĩ đại về nguồn năng lượng này ở bên trong hệ thần kinh của họ khi họ thực tập phương pháp tu dưỡng Chu-len của tôi.

Đây là ba phương pháp qui ychúng ta không còn phải thảo luận thêm gì nữa, nó đã được dạy bảo để cho những người muốn thực hành Đạo pháp chọn lựa phương pháp nào thích hợp nhất trên con đường phát triển tâm linh của họ. Phương pháp qui y bên ngoài phổ thông nhất, phương pháp bí mật dành cho những người có cơ duyên, cho những người có căn cơ.

Nếu chúng ta hiểu được ý nghĩa chân thực của sự qui y, chúng ta sẽ nhận được kết quả tốt đang xẩy ra trong tâm chúng ta và sẽ kinh nghiệm được những ơn phước của nó. Như vậy chúng ta sẽ thực sự hạnh phúc khi qui y và mỗi lần chúng ta làm việc này, nguồn năng lượng hỷ lạc sẽ lớn dần trong trái tim của chúng ta. Nếu chúng ta không biết qui y thì dù thiền bất cứ cách nào đi nữa cũng chỉ như tuyết rơi trên đường, nhìn thì hấp dẫn lắm, đẹp lắm nhưng sẽ tan biến mau. Giống như vậy, sự thiền định của chúng ta sẽ không có kết quả lâu dài. Với sự hiểu biết sâu xa về qui y, chúng ta sẽ bắt đầu nếm mật ngọt của Phật quả

 

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.