4. VỌNG TÂM PHÁT SINH NHƯ THẾ NÀO
Mục đích của
thiền định là để có
trí tuệ hầu
chấm dứt tất cả những
ảo tưởng và
u mê.
Trước tiên, sự
chấm dứt này
tùy thuộc vào ta có
nhận ra được
đặc tính và sự làm việc của
vọng tâm hay không. Thêm vào đó,
cần phải hiểu rằng có rất nhiều
yếu tố khác nhau
ảnh hưởng đến sự phát sinh một tâm
huyễn ảo.
Theo quan niệm này, Je Tsongkhapa ( Đại
Lạt Ma của
Tây Tạng sống vào thế kỷ 15, Ngài
sáng lập ra các
truyền thống tu tập Lamrim và Ngagrim --Dg)
liệt kê sáu
yếu tố, sáu
động lực có
ảnh hưởng mạnh đến việc phát sinh ra
ảo tưởng: (1)
nghiệp lực, (2) đối tượng, (3)
ảnh hưởng của
xã hội, (4)
tuân theo những lời dậy bảo
sai lầm, (5)
thói quen và (6) do những
ý niệm sai lầm.
Nguyên nhân cốt tủy phát sinh ra
vọng tâm là những dấu ấn của
nghiệp lực đã để lại trong
tiềm thức của
chúng ta bởi những hành động không
tinh khiết trong qúa khứ. Vì những hành
động trước kia đã được
hoàn thành trong
vô minh, được điều động bởi lòng
tham lam,
sân hận hoặc do
muôn vàn những ảo vọng khác; có qúa nhiều dấu ấn -
hạt giống của nghiệp - đã được trồng trong tâm của
chúng ta. Mỗi khi gặp
điều kiện thích hợp, những
hạt giống này nảy mầm là
vọng tâm lại phát sinh.
Chính đối tượng là
yếu tố thứ hai giúp cho sự nảy mầm này. Mỗi khi đối tượng
đến gần ta cộng với nghiệp đã có sẵn trong tâm ta là, bang!
ảo tưởng phát sinh,
vọng tâm thành hình.
Thí dụ, một việc thường xẩy ra là khi
chúng ta đi mua sắm, đi shopping. Đối tượng (hàng hoá) sắp sẵn trên kệ, chúng đập vào mắt ta, ngay trước khi
chúng ta chưa kịp
nhận diện được cái gì đang xẩy ra thì tâm của
chúng ta đã bị
chìm đắm trong đối tượng. Chúng có thể ẩn sâu trong nhiều ngõ ngách và rất khó
phân biệt đâu là tâm và đâu là đối tượng
ham muốn; tay của
chúng ta đã tự động cho vào túi lấy tiền để mua, có khi còn chưa kịp
nhận ra chúng ta đang làm gì. Thật là
đơn giản, phải không qúy vị? Vậy, mỗi khi chủ thể (tâm) có
liên hệ với đối tượng là
ngay lập tức ảo vọng
bùng nổ như một trái bom nguyên tử.
Ở
Tây phương cái gì cũng xôi động, cũng nhanh, cũng được phóng đại ra nên cái
vọng tâm càng
hoạt động nhiều hơn nữa. “Hãy nhìn đây, thật là
tuyệt hảo ! Thật là vĩ đại !” Kỹ thuật
quảng cáo qúa
tinh vi qúa
hấp dẫn và được dùng
thường xuyên đến nỗi khi
chúng tôi muốn trình bày về thiền,
chúng tôi cũng phải
quảng cáo, “
Thiền định thật là tuyệt vời! Tâm của
chúng ta thật là lạ thường! Kính mời qúy vị đến
tham dự buổi
thuyết trình để
học hỏi về chúng.” Hình như văn hoá của
Tây phương qúa nhiều đối với tôi.
Đức Phật đã cho
chúng ta một cái
tên thật là
đơn giản cho
vấn đề này. Ngài gọi
cõi giới mà
chúng ta đang sống là “cõi dục”,
thế giới của
dục vọng. Thật là
rõ ràng và
dễ hiểu tại sao Ngài lại gọi nó như vậy.
Thế giới của
dục vọng --
dục vọng là ở đây! Mỗi khi tâm
vọng tưởng tiếp xúc với vật được
ham muốn là
ngay lập tức nó bị hướng dẫn vào
u mê, vào
say đắm, đã
u mê lại càng
u mê hơn. Đó là
lý do tại sao Milarepa ( đại thiền giả,
đại thi sĩ của
Tây tạng sống vào thế kỷ thứ 11-- Dg) đã vào hang cốc để ở. Ngài đã biết mỗi khi tâm
vọng tưởng tiếp xúc với vật được
ham muốn là
ngay lập tức nó không còn được
kiểm soát nữa. Đó là
lý do ngài cho rằng
tốt hơn nên tránh tất cả những
tiếp xúc cho tới khi tâm đã được
hoàn toàn thanh tịnh.
Đối tượng làm
nguyên nhân cho sự khởi phát một tâm
vọng tưởng chắc chắn phải có sự
liên hệ với
nghiệp lực. Đây là
lý do mà chúng được gọi là “vật
liên hệ,
sự kiện liên đới.”
Thí dụ, có thể
chúng ta đã có một
nghiệp lực liên kết nào đó ở trong tâm của
chúng ta, nghiệp này được
đánh thức bởi những
ham muốn, nhưng lại không được
đánh thức bởi những gía trị
mâu thuẫn hoặc khác biệt với nó. Như vậy là chủ thể tâm đã có sự
ràng buộc về nghiệp với đối tượng.
Nếu không có sự
tiếp xúc (duyên) với đối tượng thì chủ thể
ảo tưởng không
thành hình .
Yếu tố thứ ba được
Lạt ma Tsongkhapa nói đến là những sự
ảnh hưởng từ bên ngoài. Tính
tiêu cực, sự
sai lầm của những người chung quanh là nguồn gốc của ảo vọng. Những người
chúng ta quen biết, những người
chúng ta tiếp xúc hàng ngày thường đem đến cho
chúng ta những
lầm lạc, những
tin tức không đúng
sự thật. Do đó, khi
tiếp xúc với bạn bè hay thân cận với bất cứ một người nào cũng phải
vô cùng thận trọng.
Thí dụ, nếu tất cả những người chung quanh
chúng ta đều say sưa rượu chè thì
chúng ta cũng bị
ảnh hưởng không ít thì nhiều. Nếu
chúng ta có đủ lực để
kiểm soát tâm thì sẽ bị
ảnh hưởng ít,
nếu không chúng ta cũng sẽ buông xuôi trong một sớm một chiều.
Thật khó mà giữ được sự
kiểm soát lâu dài đối với những
ảnh hưởng mãnh liệt. Nếu
chúng ta thật tình muốn khám nghiệm
đời sống chúng ta, tôi
tin chắc rằng
chúng ta sẽ
tìm ra rất nhiều những
thí dụ loại này. Sự
ảnh hưởng này không có
giới hạn cho cả bạn xấu cũng như bạn tốt. Trong
cuộc đời của
chúng ta,
chúng ta gặp rất nhiều “những loại thầy” này, họ toàn là những người
cung cấp thêm
ảo tưởng cho
chúng ta. Do đó, phải rất
thận trọng khi chung sống với những người chung quanh, họ phải là những người cho
chúng ta những
rung động đúng, những
rung động của
trí tuệ. Còn không,
cả đời sẽ chỉ
tiếp xúc với
ô nhiễm, với những làn sóng
lầm lạc,
u mê. Điều này không có nghĩa là
chúng ta phải
hoàn toàn buông bỏ tất cả những người bạn xấu hoặc ghét họ hay nghĩ xấu cho họ. Không,
hoàn toàn không nên có
phản ứng như vậy. Hãy luôn luôn
phát tâm từ bi.
Chúng ta nên nhớ rằng
chúng ta cũng đã bị
ô nhiễm;
chúng ta không nên đỗ lỗi cho bất cứ ai. Sự
ảnh hưởng của họ chỉ làm cho
ô nhiễm càng ngày càng dầy thêm mà thôi.
Tâm của người
Tây phương thật
hấp dẫn, thật lạ lùng. Nó rất
thực tế, nó
nghi ngờ tất cả mọi thứ. Đây có thể là phong cách tốt, ngay cả với những
sự kiện sai
sự thật. Nhưng, tâm của họ cũng thật xa
thực tế. Nếu nó nhìn ra được một
sự kiện tốt, một
hình ảnh đúng ở bên cạnh thì nó sẽ không
ngần ngại gì mà
không chấp nhận ngay
toàn thể vấn đề là tốt.
Thái độ này rất nguy hiểm. Họ
nhận xét, tất cả những nền triết lý,
giáo điều của các
tôn giáo ít ra nó cũng có điểm tốt. Ngay cả một kẻ xấu
nhất trần gian cũng có một cái gì đó tốt ở trong họ. Do đó, một cái tâm chạy
lung tung không được
kiểm soát khi nó
tìm ra được một điểm nào tốt, nó liền vồ chụp
ngay lập tức, hành động này chẳng đúng chút nào.
Tôi không hiểu tại sao, nhưng hình như tâm của người
Tây phương pha trộn nhiều thứ; nó pha trộn rất nhiều hương vị khác nhau thành ra nó rất
hấp dẫn. Xin qúy vị thử khám nghiệm xem
nhận xét này có đúng không. Trong bất cứ
trường hợp nào,
thái độ này cũng có thể gây ra
rắc rối hoặc
phiền toái.
Thí dụ, có thể anh đang
chú tâm lắng nghe một người đang
diễn tả một
tư tưởng mà
thực ra nó
hoàn toàn sai lạc. Anh nghĩ, “Chẳng cần biết họ
nói đúng hay sai nhưng nó thật
hấp dẫn. Hãy cứ để ông ta nói thêm đi.” Tôi cho rằng tâm của người
Tây phương như vậy -- một sự
hiếu kỳ lạ thường và sẵn sàng nghe bất cứ gì. Nhưng
thực ra, mỗi một
ý niệm sai lầm, mỗi một
tin tức sai lạc mà
chúng ta chấp nhận theo kiểu này, đều làm cho tâm
vọng tưởng của
chúng ta mỗi dầy thêm. Đó là
lý do tại sao tôi cho rằng
thái độ này
vô cùng nguy hiểm.
Tất cả những
liên hệ đến
yếu tố thứ tư làm
nguyên nhân cho sự phát sinh một cái tâm
vọng tưởng là nghe theo những sự
dạy bảo sai lạc.
Yếu tố này khác với
yếu tố trước,
yếu tố thứ ba, là nó
đặc biệt chú trọng đến sự chọn lựa ai và cái gì có
ảnh hưởng xấu đến
chúng ta.
Yếu tố thứ ba đề cập một cách tổng quát đến kiểu sống của
chúng ta, đến
hoàn cảnh sống của
chúng ta.
Tuy nhiên,
yếu tố thứ tư đề cập đến sự
tin tưởng đặc biệt vào một vị thầy rồi lắng nghe và
tuân theo những
ý niệm sai lầm mà ông ta giảng dạy.
Thí dụ, trong thời
Đức Phật Thích Ca sống có một người đã dùng một
phương pháp rất quái đản để tìm
giải thoát, ông ta đi gặp một vài vị thầy. Thầy của ông bảo ông hãy đi giết một ngàn người rồi lấy những ngón tay mà làm xâu chuỗi, “Khi nào xong việc, anh hãy
trở lại để nhận bài học khác.” Người đàn ông này tên là Angulimala,
tin tưởng vào lời dậy bảo của thầy, đã giết đến 999 người trước khi gặp
Đức Phật, Phật chỉ cho ông cách
thực hành Đạo Pháp chân thật. Do đó ông đã
vô cùng hối hận và
sầu khổ vì sự
tin tưởng mù quáng của mình.
Những lời dậy bảo, về bất cứ loại nào, đều có thể rất hấùp dẫn. Nhưng khi
con người đi tìm sự
thích thú ở sự vật thì
thường thường đó chỉ là
lòng ham muốn, mong cầu. Điều này thấy rất rõ ở những đứa trẻ. Trước khi những đứa trẻ
Tây phương đi ngủ chúng thường được
cha mẹ chúng đọc cho nghe những
câu chuyện. Phải đúng như vậy không qúy vị? Những
câu chuyện nghe thật hay, thật
hấp dẫn, nhưng hầu như toàn là chuyện
vớ vẩn. Trẻ con rất nhậy cảm và thích
mơ mộng theo chuyện
thần tiên. Chúng tin những chuyện đó là có thật và
dĩ nhiên chúng được in sâu vào trong tâm khảm. Phần nhiều các bậc
cha mẹ không
để ý đến điều này, họ thường nghĩ, ”Không sao đâu,
miễn là chúng thích và ngủ đi là được rồi.” Họ không biết cái hậu qủa gì đang
diễn tiến trong
tâm trí của đứa trẻ, cái hậu qủa gì đang sản xuất ra trong tâm của chúng. Điều quan trọng là chúng ngủ càng nhanh càng tốt để
cha mẹ được rảnh rỗi, để
cha mẹ được ngủ yên, đừng
quấy rầy là tốt rồi. Nhưng điều này chẳng đúng một chút nào. Thật là chẳng
tốt lành một chút nào khi cho con mình một mớ
kiến thức rác rưởi. Chỉ cho con mình thêm ảo vọng và làm cho tâm
vọng tưởng của chúng càng ngày càng dầy thêm.
Dĩ nhiên, nếu
chúng ta là người có
trí tuệ,
chúng ta đọc bất cứ
tư tưởng rác rưởi nào cũng không bị
ảnh hưởng.
Chúng ta có thể nghiệm ra điều này mà không
cần phải giải thích thêm. Không có chuyện gì xẩy ra. Nhưng khi
chúng ta qúa
ham thích, quá ước ao --”Thích quá, thích quá, kể nữa đi !” thì nó lại in rất sâu vào tâm của
chúng ta. Đây là một điều
vô cùng thiếu sót của
trí phân biệt, nó không biết
phân biệt rõ ràng cái gì tốt cái gì xấu.
Chúng ta đã
thu nhận tất cả mọi thứ mà không cần biết đúng sai,
chúng ta đã không có óc
nhận xét.
Các loại thu nhận khác cũng
y như vậy.
Thu nhận qúa nhiều, nhưng không dùng được, toàn là rác rưởi, không biết
phân biệt cái gì lợi cái gì hại. Hầu như tất cả các sản phẩm
văn hóa của người phương Tây như sách vở,
báo chí, phim ảnh,
truyền thông ...
vân vân... đều có khuynh hướng sản xuất thêm, tạo thêm sự
ham muốn và
u mê.
Dĩ nhiên, cũng có những điểm ngoại trừ trong một số phim ảnh. Nhưng hầu như tất cả đều được sản xuất ra theo
thị hiếu, theo sự
ham thích của
con người, theo cái gì mà tâm
u mê đòi hỏi ---tất cả đều
chạy theo lòng ham muốn của
con người. Các nhà sản xuất loại phim ảnh này, sách vở này đều hiểu thấu
tâm lý của
con người. Họ biết rất rõ cái gì
mọi người đang muốn, đang mê và cái gì sẽ làm cho
con người càng ngày càng
đi vào cảnh mê mờ ảo vọng hơn là những cái họ đã là.
Tóm lại, tất cả những
ý niệm sai lầm và tất cả những
tin tức sai lạc là những
nguyên nhân đem lại
ảo tưởng,
vọng tưởng cho tâm nếu tâm thiếu một
trí phân biệt sáng suốt.
Thí dụ,
chúng ta đã nhận qúa nhiều
tin tức từ các máy truyền hình, nó đã khích cho
chúng ta trở nên hăng say,
háo hức. Đôi khi nó
hấp dẫn đến độ
chúng ta phải đi ngay, phải vội vã kẻo hết! Vậy, tất cả những tin nào khích động
chúng ta thêm hào hứng, thêm hăng say,
chúng ta càng nên tránh, càng phải
đề phòng.
Yếu tố làm tăng thêm
sức mạnh cho
huyễn ảo chính là các
thói quen của
chúng ta.
Thói quen được tạo ra như thế này: trong một lúc nào đó
chúng ta có được một
kinh nghiệm với một vật hoặc một
sự kiện, khi
chúng ta gặp lại đối tượng giống như vậy,
chúng ta lặp lại
kinh nghiệm thứ nhất, rồi mỗi lần lặp đi lặp lại làm cho hành động này tăng thêm
sức mạnh trong ký ức, in sâu hơn vào
tiềm thức, cho tới một ngày chúng trở nên mạnh đến độ có thể
ảnh hưởng đến tất cả những
suy nghĩ và những tưởng tượng của
chúng ta.
Thói quen xây đắp những thành trì
vững chắc đến nỗi khi một
hiện tượng xẩy ra gần giống như vậy là tâm của
chúng ta liền tự động
chạy theo ảo tưởng. Có những người trở nên rất mẫn cảm,
u mê và
say đắm những loại ảo vọng này đến nỗi họ không lúc nào quên được. Tại sao nó lại xẩy ra như vậy?
Tại vì kinh nghiệm đã được lặp đi lặp lại rất nhiều lần làm cho dấu ấn trong
tiềm thức càng ngày càng dầy thêm, đậm thêm. Tâm chìm sâu trong
sự tích trữ
kinh nghiệm,
bồi bổ thêm cho
ảo tưởng. Họ không thể ngủ nếu thiếu những
ảo ảnh này
xuất hiện trong những giấc mơ của họ. Tôi
tin chắc rằng tất cả
chúng ta đều có
kinh nghiệm về những
hiện tượng này. Nếu những
thói quen được lặp lại
thường xuyên và khi những dấu ấn đã đủ mạnh là
chúng ta sẽ trở nên
gắt gỏng nóng giận ngay.
Đôi khi đối tượng
huyễn ảo còn tự nó in sâu vào trí tưởng tượng của
chúng ta.
Thí dụ, bên
Tây phương, khi người ta đã
trở thành bạn trai bạn gái
với nhau, người ta
thề thốt, ” Xin đừng quên anh/em! Hãy nhớ anh/em luôn nghe. Nếu anh/em quên em/anh, có nghĩa là anh/em không còn yêu em/anh nữa.” Đó là
lý do tại sao
chúng ta không có
tự do.
Chúng ta có thể thấy rất rõ
chúng ta không có
tự do, bởi vì
chúng ta đã bị
sở hữu bởi đối tượng.
Yếu tố thứ sáu là những
ý niệm,
chúng ta đã có sẵn những
ý niệm trong tâm khảm, chúng đã rất
hấp dẫn trước khi đối tượng
xuất hiện. Khi nhớ về một
vấn đề gì,
chúng ta đã có sẵn một
phán đoán về nó: “ Cái này tốt lắm! Nó thật là tuyệt! Nó tốt như thế này, nó
hoàn hảo như thế kia, nó thế này nó thế kia....”
Chúng ta ca tụng giá trị của nó qúa đáng so với
giá trị thực của nó. Đó chính là sản phẩm của một
ý niệm sai lầm.
Thí dụ, khi chị có
bạn trai là chị đã bị
lệ thuộc. Chị sẽ thấy dáng đi của anh ta
hấp dẫn,
thân hình của anh ta
tuyệt đẹp. Cái gì từ anh ta cũng đáng
ca ngợi, ngay cả khi anh ta làm cái gì xấu thì cái đó cũng là nguồn
hạnh phúc của chị. Vì chị chỉ chú trọng đến sự
hấp dẫn của anh ta nên những
hình ảnh tiêu cực về anh ta đều
bị loại bỏ.
Tâm của chị sẽ làm việc như vậy
cho đến một ngày nào đó người
bạn trai này
nói xấu chị, không làm chị
thỏa mãn, chị mới bắt đầu đổi
thái độ. Lúc đó chị sẽ nghĩ, “Anh ta chẳng tốt chút nào.” Rồi tâm của chị chỉ chú ý vào
ý tưởng này “Không tốt, không tốt, thằng đểu....” tất cả những gì tốt ở anh ta bắt đầu
xuất hiện ngược lại; anh ta không còn có gì
hấp dẫn chị nữa.
Chúng ta thấy
hiện tượng này rất rõ, phải vậy không qúy vị? Tâm
vọng tưởng của
chúng ta làm việc không thể tưởng tượng nổi.
Trước tiên, một đối tượng
xuất hiện một cách
hoàn toàn tích cực (tốt) rồi nó chuyển thành
tiêu cực (xấu). Nhưng tôi nghĩ rằng không có một cái gì, không có một
chúng sinh nào
hoàn toàn tích cực cũng như
hoàn toàn tiêu cực cả. Tất cả mọi sự đều có tốt có xấu. Chỉ có cái tâm
chấp hữu mới nhìn sự vật hoặc trắng hoặc đen, chỉ có cái tâm
bám víu mới nhìn sự vật hoặc xấu hoặc tốt.
Tây phương có câu
châm ngôn: “ Anh chỉ nghe cái gì anh muốn nghe.” Câu này
diễn tả rất đúng
trạng thái của tâm, câu này chính là
ngôn từ của
Đạo Pháp. Nó
diễn tả thật
sát nghĩa những gì mà
chúng ta đang hội thảo.
Chỉ nhìn cái gì nó muốn, rồi, luôn luôn
diễn dịch sai
sự thật. Cái lối nhìn một chiều về
sự kiện của nó làm
chúng ta mất trí phán đoán.
Đồng thời chúng ta cũng nhìn nó như là tự nó
xuất hiện, tự nó có mặt ở đây (quên mất
yếu tố duyên khởi, cái này có thì cái kia có, cái này diệt thì cái kia diệt -- Dg)
Chúng ta cho rằng tự nó đến với
chúng ta và nó luôn luôn như vậy, không bao giờ thay đổi.
Chúng ta đã qúa
sai lầm khi nhìn sự vật theo kiểu này và đây chính là lối nhìn của tâm
vọng tưởng mà ra. Thay vì nhìn như thế,
chúng ta hãy nhìn sự vật, nhìn
sự kiện, nhìn
hiện tượng như nó là, chúng
xuất hiện như vậy, thế thôi, chứ không phải
xuất hiện theo
ý kiến riêng của
chúng ta. Thực sự
chúng ta đã không biết cái gì đã xẩy ra. Hãy chỉ nhìn sự vật như nó là. Tâm
vọng tưởng nhìn sự vật một cách bao giàn hơn là nhìn “nó là như vậy”. Sự vật
vô thường thì
vọng tâm lại cho là
thường hằng,
sự kiện luôn
biến đổi lại được nhìn
như không bao giờ thay đổi. Những
hiện tượng gây khổ đau lại luôn được
chấp nhận đem lại
hạnh phúc.
Chúng ta luôn luôn nhìn sự vật một cách sai
sự thật, chúng tự có và tự
xuất hiện.
Lạt ma Je Tsongkhapa cho
chúng ta biết tiến trình
bám víu vào
sự kiện, chấp vào sự vật như vậy sẽ làm
chúng ta đi xa
thực tế, đi xa
sự thật. Nó
hoàn toàn không có
liên hệ gì đến hiện tính của sự vật.
Chúng ta chấp vào sự vật,
chúng ta nhận thức sự vật, rồi
chúng ta tin tưởng rằng chúng phải
xuất hiện theo một cách nào đó mà
chúng ta muốn nhưng kết qủa là
ảo tưởng của
chúng ta lớn dần. Tâm
vọng tưởng của
chúng ta càng ngày càng trở nên dầy hơn, mạnh hơn.
Nhận xét này đưa
chúng ta trở về một
quan niệm mà
chúng ta đã nói đến trước kia: bất cứ cái gì
xuất hiện --tốt xấu,
thiên đàng địa ngục,
luân hồi niết bàn...-- cũng đều là sản phẩm của tâm, đều là sự
thị hiện của tâm. Khi tâm bị bao phủ bởi
u mê, bởi
vô minh thì
tự nhiên nó sẽ đưa đến
đau khổ. Vì thế, để
thoát khỏi khổ đau, điều
vô cùng quan trọng là phải hiểu thấu đáo cả hai đăïc tính
tự nhiên của
vọng tâm và những
yếu tố phát sinh ra nó cũng như sự
tăng trưởng của
u mê mù quáng. Hãy
đặc biệt quan tâm và
thực hành thiền định trên sáu
động lực này. Nó thật sự có gía trị. Sự
hiểu biết của
chúng ta chính là
sức mạnh làm cho tâm trở nên ngay thẳng.
Nếu không như
vậy thì không còn một cách nào khác hơn có thể giúp
chúng ta thoát khỏi những ảo vọng và
mê lầm.