2. ÁP DỤNG ĐẠO PHÁP VÀO ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Tôi nghĩ các bạn đã nghe đầy đủ về
Đạo pháp.
Lạt ma Zopa đã thâu
tóm lại và
giải thích làm thế nào để
hiện thực hoá sự
hiểu biết này, tôi
thiết nghĩ các bạn cũng biết sự
lợi ích của nó như thế nào. Từ đó các bạn đã có
kiến thức làm sao
giải quyết những khó khăn xẩy ra trong cuộc sống của các bạn theo
Đạo pháp, tôi không muốn nhắc lại những điểm này nữa.
Tuy nhiên,
chúng ta có thể nhìn sâu hơn một chút những gì
Lạt ma Zopa đã
nhấn mạnh.
Thí dụ, khi
Lạt ma và những người khác đề cập đến Phật, Pháp và Tăng,
chúng ta không nên nghĩ đây là những gì đã qua đi, đã chết. Họ không
thuần túy là những nhân vật
lịch sử, cũng không phải những gì
Lạt ma nói về tương lai, như nói: “Nếu các bạn
thực hành Đạo pháp như thế, như thế, các bạn sẽ đạt
giác ngộ trong tương lai, điều này làm các bạn vui.”
Thực ra Lạt ma đang nói về
hiện tại – cái gì đang xẩy ra trong tâm của các bạn ngay bây giờ.
Ngay khi
chúng tôi nói về nghiệp, sự làm việc của nhân và quả, không phải
chúng tôi phát biểu một cái gì đã
hoàn thành trong
quá khứ để có
ảnh hưởng đến những
kinh nghiệm hôm nay.
Thực ra,
chúng tôi muốn chỉ cho các bạn biết cái gì các bạn làm buổi sáng với
ý hướng xấu, thì ngay buổi chiều
cùng ngày hậu quả xấu có thể xẩy ra. Tốt nhất hãy học những gì có
liên quan đến những sự thay đổi ngay bây giờ còn hơn là sưu tầm, tích trữ những
tài liệu lịch sử hoặc những
kiến thức triết học về các
sự kiện.
Thí dụ, khi
Lạt ma Zopa nói về ba
lãnh vực chính của
con đường dẫn đến
giác ngộ. Cái gì mà các bạn
lãnh hội được trong bài học này không
tùy thuộc vào sự
giải thích của ngài mà là những gì đang xẩy ra trong tâm của các bạn khi các bạn nghe nó. Nếu các bạn quá chú ý vào kiểu cách
diễn tả thông minh của ngài, thì có thể các bạn sẽ chỉ
lãnh hội được những lời
giảng giải như vậy, nhưng đây chỉ là những gì các bạn đã thấy. Người
Tây phương thường có những
thái độ, “ Ôi chao, ngài giảng quá hay, thật là tuyệt!” Nhưng nếu các bạn
nhận xét cái gì đang xẩy ra thì các bạn sẽ thấy rằng ngài đã không giảng về
trí tuệ. Ngài chỉ
diễn tả những gì đang xẩy ra trong tâm của các bạn, trong
nội tâm của các bạn. Ngài chỉ muốn
nhấn mạnh rằng các bạn hãy nhìn vào chính các bạn gần hơn nữa, sâu hơn nữa. Ngài nói rất
đơn giản, rất thẳng; cái gì chính các bạn
nhận thức được, cái đó làm cho nó trở nên
tuyệt vời.
Vì thế, tất cả đều
tùy thuộc vào các bạn nghe như thế nào, nghe bằng cách nào. Nó giống như đang coi một phim
hấp dẫn trên truyền hình. Các bạn chăm chú,
nóng ruột muốn biết cái gì sắp xẩy ra. Cũng giống như vậy, khi
Lạt ma nói, các bạn hãy
để ý xem ngài đang khuấy cái gì lên trong bạn. Những
lời nói của ngài và những sự
hiểu biết,
thực hành của các bạn phải hợp nhất
cùng lúc với nhau.
Thực ra,
Đạo pháp không đề cập đến những gì ở bên ngoài như dẫy
Hy Mã Lạp Sơn; nó đề cập đến chính các bạn, trong các bạn. Và
dĩ nhiên, không nói đến
thân thể các bạn, mũi, tóc hoặc tai của các bạn mà chỉ nói về những
trạng thái tâm của các bạn. Nó chỉ
thuần túy đề cập đến sự tác tạo
tâm lý,
thái độ của chính các bạn.
Có thể người ta nghĩ rằng
Đạo pháp chỉ là những
hiện tượng văn hoá của người
Đông phương,
thực ra nó không phải như vậy. Cái gì
chúng ta thường nghĩ khi
chúng ta nói về “văn hoá”? Đó chỉ là tâm
tương đối, những
huyễn ảo được chia sẻ của một xứ sở hay của một loại người nào đó, vì thế nó chẳng có một chút
liên hệ gì với
Đạo pháp. Nếu
chúng ta diễn tả ý nghĩa này ra thêm một chút thì
chúng ta có thể nói rằng
Đạo pháp là “văn hoá” của sự phát triển
tâm linh của riêng chúng ta. Nhưng điều này đã không được hiểu theo
ý nghĩa thông thường của chính nó.
Khi người ta nói
Đạo pháp bị
giới hạn bởi
văn hóa thì đó chỉ là những lời
thoái thác, một
lý do để bào chữa. Họ nói: “Lạt ma đang giảng về
văn hóa riêng của ngài. Cái đó khác với của tôi, tôi là người Hoa kỳ, không thể
thực hành được.” Tâm thường
viện cớ như vậy để
thoái thác. Có những ngày hầu như bạn không nhìn thấy, không
suy nghĩ được một điều gì
rõ ràng, hãy
quan sát xem cái gì đã xẩy ra trong những ngày đó. Thay vì
tìm hiểu nguồn gốc những
sai lầm thì bạn lại nghĩ: “Tôi không thể
thực hành Đạo hôm nay.”
Phản ứng này thường xẩy ra phải không? Nhưng nó cho
chúng ta biết
chúng ta chẳng hiểu thực sự
Đạo pháp là gì. Cũng giống như vậy, khi
chúng ta nói
chúng ta không thể theo Đạo vì
chúng ta là người Hoa Kỳ, vì
chúng ta đang ở nước Hoa Kỳ.
Đạo pháp không phải là
văn hóa của bất cứ người nào. Nó không phải của Hoa Kỳ, cũng chẳng bao giờ
trở thành như vậy. Cũng chẳng phải là
văn hóa phàm tục của người
Tây Tạng. Đây không phải là cái mà
chúng tôi muốn giảng dậy. Cả
văn hóa của
Tây tạng cũng như của Hoa Kỳ đều là
phàm tục, đều thuộc về
luân hồi, nên
chắc chắn chúng tôi không muốn chỉ cho các bạn cách
trao đổi cho nhau.
Đạo pháp chỉ dậy
con đường tìm hiểu nội tâm đang nằm sâu trong những
lãnh vực tầm thường,
mê tín,
huyễn ảo của bất cứ một người nào, một
quốc gia nào.
Văn hóa của Hoa Kỳ là gì? Mỗi buổi sáng vừa
thức dậy,
lập tức tâm của bạn
đi vào bếp,
ý nghĩ đầu tiên của bạn là, “Cà phê của tôi đâu?” Rồi đến buổi trưa bạn muốn một cái hamburger. Đó là những cái tạo nên
văn hóa của Hoa Kỳ, phải vậy không?
Văn hóa phàm tục đó chẳng có
liên hệ gì với
Đạo pháp.
Đạo pháp không có
liên hệ gì với những tập tục,
thói quen bên ngoài của
xã hội.
Làm thế nào bắt đầu một ngày với Đạo pháp? Thay vì để cho
bản ngã đi tìm cà phê, hãy
thức dậy một cách có
ý thức, chú ý vào những cảm nhận ở bên trong và những
hiện trạng của tâm. Rồi,
thiết lập những gì hứng khởi
cần phải làm trong một ngày. Như “Mục đích sống trong ngày hôm nay là gì? Nó phải là cái gì quan trọng hơn uống cà phê. Sống chỉ vì ly cà phê thì chẳng có gía trị gì. Hãy hướng ngày hôm nay cho việc phát triển tâm
bồ đề là điều rất
tốt đẹp, hãy hướng về sự
bình an của
con đường giải thoát và
giác ngộ để ơn ích cho tất cả
mọi người.” Rồi
quyết định, “Từ lúc này đến khi đi ngủ, tôi sẽ
ý thức trong tất cả mọi hành động của tôi qua thân, khẩu và ý. Bằng cách này, tôi sẽ giữ được sự
kiểm soát, tạo được sự
an lành cho
nội tâm của tôi.”
Nếu
chúng ta tạo được một tâm trạng hứng khởi như vậy mỗi buổi sáng,
chúng ta sẽ không phải nhắc đi nhắc lại cái gì phải làm trong ngày hôm nay? Cũng chẳng
cần phải nghĩ, “Tôi phải
cố gắng làm một người có đạo, tôi phải sống
tốt lành.” Với một
động lực thúc đẩy và một sự
quyết tâm như
vậy thì một ngày
an lành sẽ đến. Nếu có người nào tức giận,
la mắng bạn, bạn cũng sẽ giữ được sự
kiểm soát và
bình tĩnh. Đây không phải là
chúng ta tự hành hạ chúng ta, đè nén sự
giận dữ của
chúng ta. Sự tự
kiểm soát sẽ đến một cách
tự nhiên và êm diụ, nó đến từ sự
nhận thức sâu xa về nguồn gốc của những
sai lầm và những
bất lợi của
tính xấu.
Nhưng bạn không được tin những điều này chỉ vì tôi nói hoặc người nào khác nói. Hãy tự
thẩm định những điều này và tự
tìm hiểu xem nó thấm vào trái tim bạn như thế nào. Nếu bạn
thực hiện như vậy mỗi ngày, tôi
chắc chắn rằng bạn sẽ
tìm ra phương pháp mà
Đạo pháp đang
kiểm soát, nó rất
thực tế.
Một
phương pháp rất hữu hiệu trong việc
kiểm soát cả
nội tâm lẫn
ngoại cảnh là niệm
mật chú. Một trong những câu mà
chúng tôi thường lặp đi lặp lại của Phật
Thích Ca là Om muni muni maha muniye svaha. Niệm
mật chú có hiệu qủa vì nó giúp tâm
chúng ta yên tịnh và
an bình, nó tự động hướng về một điểm. Nó làm cho tâm
chúng ta tiếp nhận được những
rung động vô cùng vi tế, do đó nó thăng tiến sự cảm nhận của
chúng ta. Âm vang,
chấn động của chúng có
tác dụng tẩy
trừ tận gốc rễ những
năng lực xấu để cho
bản tính chân thực tự nhiên của sự vật được
hiển lộ ở tâm
trong sáng của
chúng ta. Nhờ
tụng niệm những
câu mật chú
siêu việt,
chúng ta có thể thanh tẩy tất cả những nguồn
năng lực ô nhiễm đang ở trong thân, khẩu và ý của
chúng ta.
Tụng niệm mật chú có phải là một
phương pháp thiền định siêu tuyệt hay không, nó
tùy thuộc vào bạn và
trí tuệ của bạn.
Sức mạnh của
mật chú không phải tự chính nó. Nó
hoàn toàn không tự động
mang đến cho
tâm linh bạn những đại ơn đại phước, dù là một
chủng tử thánh thiện rất
cổ kính nào đó khi bạn tụng lên cũng
cần phải trầm tư
suy tưởng. Nghĩ rằng
mật chú tự nó có
sức mạnh là một
ý niệm vô cùng sai lầm.
Thí dụ, nếu bạn đang say sưa
chìm đắm trong
tham dục mà
tụng niệm những
câu mật chú có
giá trị cứu độ thâm sâu thì cũng chẳng có ơn ích gì. Đó cũng chỉ là
một sinh hoạt khác của
luân hồi, của
phàm tục mà thôi.
Giả sử bạn đang ngồi niệm
mật chú mà cứ nghĩ đến miếng sô cô la, “ Trời, sô cô la, sô cô la, sô cô la thật tuyệt!” Nếu bạn qúa bận tâm vì những
ý tưởng này hoặc bị
quyến rũ bởi những
thức ăn ngon trong chợ thì làm sao bạn có thể
thực hành thiền
đúng đắn được? Làm sao nó có thể đem lại
an lạc cho bạn? Để cho
mật chú có hiệu qủa, bạn
cần phải giữ cho tâm bạn
an tịnh và
ít nhất bạn cũng phải tập trung được một khoảng
thời gian.
Thêm vào đó, bạn
cần phải có lòng hứng khởi, hăng say
thanh khiết. Không cầu mong một ơn phước nào cho riêng bạn.
Mục đích chân thật của
mật chú, cũng như những sự
thực hành khác của
Đạo pháp, là đem lại ơn phước cho người khác, cho muôn loài
chúng sinh, chứ không phải cho riêng bạn. Thay vì cứ nghĩ, “Tôi muốn, tôi muốn, tôi muốn,” hãy
cố gắng phát triển lòng
ao ước thanh khiết là
vì lợi ích cho người khác. Bạn không nên qúa
thông minh, qúa
xúc động, qúa vội vã mong cầu trong
vấn đề này. Chỉ nên
hồi hướng ơn phước của
mật chú cho muôn loài rồi nguồn
năng lượng này sẽ
tự nhiên tuôn trào.
Mật chú cũng có
sức mạnh giải trừ bệnh tật.
Thí dụ, đôi khi người ta bị
mất trí, bị điên vì những
năng lượng xấu quấy phá tâm
ô nhiễm của họ. Những
chấn động thanh khiết của
mật chú có thể mang tâm của họ
trở lại tình trạng an bình, êm dịu, nó có khả năng trị bệnh
tâm thần. Vì một thân xác bệnh tật cũng
ảnh hưởng đến những
tình trạng tâm sẵn có
ô nhiễm nên
mật chú cũng có khả năng chữa trị và điều dưỡng nó. Chẳng có gì gọi là
ma thuật trong
vấn đề này. Khoa học đã
chứng minh và đang
áp dụng lối trị bệnh này.
Ý nghĩa câu mật chú của
Đức Phật Om muni muni maha muniye svaha là “Hãy
kiểm soát, hãy
kiểm soát, hãy
kiểm soát thật nhiều.” hoặc “Hãy
tỉnh thức, hãy
tỉnh thức, hãy
tỉnh thức thật nhiều.” Các bạn có thể cho rằng
Phật giáo quá chú trọng đến sự
kiểm soát, sự
tỉnh thức và
cảm thấy tất cả các
lạt ma đều nói, ”Tâm
huyễn ảo của các bạn đầy ắp những tật xấu nên các bạn phải
hạn chế nó tối đa.”
Chúng tôi không có ý nói như vậy. Hơn nữa, nếu buổi sáng
chúng ta có
quyết tâm như
vậy thì nguyên một ngày
chúng ta mới tự động
để ý đến những hành động của
chúng ta hơn. Một khi đã có
quyết tâm thì cái đồng hồ
nội tâm sẽ tự chạy
một mình. Vì đã hướng dẫn nguồn
năng lượng chủ yếu
đi theo một chiều nên
chắc chắn những
năng lượng phụ sẽ phải tuôn
chạy theo cùng một đường.
Ở
Tây Tạng chúng tôi thường nói hướng dẫn tâm cũng như “cầm cương hướng dẫn ngựa chạy.” Ngựa là con vật có
sức mạnh, nếu bạn không có cách
kiểm soát nó, nó sẽ chạy
lung tung, có khi còn hại cho chính nó và những con vật khác nữa. Nhưng nếu
chúng ta biết cách điều khiển
năng lượng và
sức mạnh của con ngựa thì nó có thể
hoàn thành được rất nhiều công việc khó khăn.
Chúng ta cũng
áp dụng như vậy cho chính
chúng ta. Nhìn một cách khoa học, thân, khẩu và ý của
chúng ta chẳng có gì khác hơn là để chuyên chở,
chuyển đạt những hình
thái năng lượng khác nhau. Vì thế, nếu buổi sáng
chúng ta hướng dẫn nguồn
năng lượng này bởi sự
quyết tâm của
chúng ta thì những
năng lượng của thân, khẩu và ý sẽ
đi theo cùng một đường. Do đó sự
kiểm soát mà
chúng ta đề cập đến ở đây giống như người phi công không
hạn chế mà là hướng dẫn chiếc máy bay của anh ta. Sự
phức tạp, sự khó khăn của
ngôn từ không
diễn tả được những gì của
nội tâm. Nhưng nếu
chúng ta thực hành thiền định và
đạt được những
nhận thức từ nó thì chữ “kiểm soát”, “tỉnh thức” sẽ không còn là một trở ngại cho
chúng ta nữa.
Phần quan trọng nhất của một ngày chính là buổi sáng.
Giả sử bạn
thức dậy với một cơn nhức đầu hay với một cái chân đau, thay vì
để ý đến những
đau đớn này, điều đầu tiên bạn nên làm là hãy có một
quyết tâm vững mạnh giữ
thái độ hứng khởi về tâm
bồ đề cho suốt cả một ngày. Ngày đầu tiên
chắc chắn là khó khăn. Nhưng từ những ngày sau nó sẽ dễ hơn, dễ hơn với niềm hứng khởi
thanh khiết này. Đây là kết quả của sự trau dồi, phát triển và
điều kiện hóa tâm của
chúng ta theo một chiều hướng
thánh thiện.
Không cần biết
chúng ta đã đọc bao nhiêu về
Đạo pháp, nhưng hầu như
chúng ta đã không dành ra được một ngày để
kinh nghiệm những sự
thực tập như vậy. Nhưng nếu
chúng ta cố gắng thì
ngay lập tức tâm của
chúng ta sẽ cảm nhận được niềm
an lạc này. Khi quý vị bắt đầu
thực hành tâm linh,
dĩ nhiên, quý vị sẽ làm theo những gì quý vị đã nghe, đây là những điều nên làm khi bắt đầu bước vào bất cứ một
con đường thực hành tâm linh nào. Nếu
chúng ta không chấp nhận
điều kiện này,
chúng ta sẽ mất
kiên nhẫn trong việc
thực hành và
chúng ta sẽ nghĩ
chúng ta bị bắt buộc rồi sẽ mất hết sự
tự nhiên. Có thể quý vị sẽ cầu
phép lạ khi quý vị
ngồi thiền, rồi không thấy
phép lạ xẩy ra, quý vị sẽ tự hỏi, “Tại sao tôi lại
chạy theo phong tục kỳ lạ này của người Phương đông?” Thế rồi tâm
tiêu cực của quý vị sẽ
trả lời, “Anh đang bắt chước kiểu ngồi của một
lạt ma ngoại quốc đấy. Chẳng có gì hay khi làm như vậy. Tại sao anh không ngồi
thoải mái trên ghế như những người Mỹ khác?”
Do đó
chúng ta nên
thận trọng với tâm của
chúng ta. Nó biết rõ phải làm thế nào để
hợp lý hóa tại sao không nên theo những
phương pháp với
mục đích thuần hóa nó.
Chúng ta cần phải hiểu rõ tính
hoài nghi của cái tâm
nghi ngờ này mà
tiếp tục thực hành một cách
kiên nhẫn bền bỉ và
vững chắc.
Một điều khác cũng
cần phải nhận định là trong cùng một lúc có hai cái tâm cùng làm việc trong
chúng ta.
Thí dụ, trong lúc quét nhà, một cái
tâm chú ý đến việc quét nhà còn một cái tập trung vào việc
tụng kinh. Điều này không có nghĩa là hai tâm
mâu thuẫn nhau hoặc việc
tụng kinh của bạn là không
chân thành. Ngay trong lúc
thực hành Đạo,
chúng ta cũng vẫn đang sống trong trần gian và đang có những
sinh hoạt liên hệ. Có nhiều điều
chúng ta cần làm để sống, như kiếm tiền, pha trà, uống cà phê, nấu ăn, ...
vân vân...
Chúng ta không nên bỏ những
sinh hoạt này. Hãy
nhận định một cách
đơn giản rằng chúng chỉ có những
giá trị tương đối trong dòng
hiện hữu,
trong đời sống thường ngày. Do đó, trong lúc làm công việc quét nhà tâm của
chúng ta cũng vẫn
thực hành tâm linh được.
Có những
phương pháp hướng dẫn việc
thực hành tâm linh này.
Mật chú là
năng lượng, nhưng không phải là
năng lượng tầm thường. Nó
thuần túy thanh tịnh,
xuất phát từ trí tuệ
đơn thuần. Vì thế, nếu tâm của
chúng ta cũng khởi phát ra từ nguồn
năng lượng thanh tịnh này thì
chúng ta vẫn
an lạc mặc dầu chúng ta đang làm những công việc trần gian của
kiếp luân hồi. Theo chiều hướng này thì tâm như một
đại dương,
tự tính của nó
trầm lặng mặc dù
vẫn có những làn sóng nhấp nhô ở trên mặt.
Nếu
chúng ta có
trí tuệ,
chúng ta có thể
chuyển hóa năng lượng của những dòng
sinh hoạt thường ngày của
chúng ta – như mầu sắc, tình cảm, ...
vân vân...—thành
an lạc. Như vậy những
năng lượng ở bên ngoài của một cái gì mà
chúng ta nhận thức được sẽ không có khả năng bắt tâm của
chúng ta khởi lên
lòng ham muốn,
hấp dẫn, gợi cảm hoặc những
sinh hoạt tiêu cực khác. Hơn thế nữa, tâm của
chúng ta còn có thể
kiểm soát và
chuyển hóa những
hoàn cảnh này, những
sinh hoạt này
thành thánh thiện,
đạo đức. Với sự hướng dẫn,
tỉnh thức và
kiểm soát này,
chúng ta sẽ không còn
diễn dịch,
biện minh cho những
hiện tượng khác nhau trong sự
bám víu và
cố chấp nên không còn cơ hội để những
vọng tưởng xuất hiện nữa.
Chúng ta sẽ không còn bị cảnh thổi lên dìm xuống khi
đối diện với những cái tốt xấu, với những cái
ưa thích hoặc ghét bỏ.
Ở điểm này có thể có những câu hỏi như “ Nếu bạn
thánh thiện hóa những
sinh hoạt, những đối tượng như vậy hoặc
chuyển hóa chúng thành một cái gì khác, bạn có chắc rằng bạn sẽ không tạo ra một huyễn tượng
tâm thần khác không? Làm sao một
phương pháp (
phương pháp cũng là
huyễn ảo, Dg) lại có thể
xóa bỏ được sự thật?” Người
Tây phương thật là
thông minh, nên những câu hỏi như vậy rất thường xẩy ra. Để
trả lời, tôi xin đặt một câu hỏi khác,”
Phải chăng những cái mà bạn nhìn thấy, thật sự nó ‘tốt’ hoặc ‘xấu’?” Quý vị nghĩ rằng những cái mà
chúng ta nhìn thấy tốt hoặc xấu thực sự nó như vậy, làm sao
chúng ta biết nó như vậy? Tôi không nghĩ rằng quý vị sẽ
hài lòng khi
trả lời câu hỏi này. Quý vị có thể nói, “Bởi vì tôi
cảm thấy đúng.” Nhưng tại sao quý vị
cảm thấy như vậy? “Bởi vì tôi nhìn nó bằng con mắt của tôi.” Tôi lại hỏi, “Vậy cái gì làm cho con mắt
của quý vị nhìn là luôn luôn đúng? Quý vị có luôn luôn nhìn được
sự thật bên ngoài sự phóng tưởng, sự
vọng tưởng của
tâm thần không?” “Không,
dĩ nhiên là không,” rồi quý vị
trả lời tiếp, “nhưng lần này chính mắt tôi nhìn thấy là đúng.” Làm sao quý vị biết được? Tôi
bảo đảm với quý vị là sẽ không có một câu
trả lời nào
tuyệt đối đúng cho câu hỏi này.
Chúng ta có thể
suy nghĩ cả
một đời, nhưng không thể nào có được một câu
trả lời hoàn toàn thỏa mãn.(1)
_____________________________________________________
(1) Chú thích của người dịch:
Để nói lên
tính cách huyễn ảo của tất cả mọi
hiện tượng, kể cả những
phương pháp thiền định và để
phá chấp đến tuyệt cùng, Milarepa, một
thánh tăng của
Tây Tạng ở thế kỷ 11 nói:
Kẻ nào
vướng mắc trong
huyễn ảo Kẻ đó
lầm lẫn trong
thiền định.
Nếu ngươi biết chúng không là
chướng ngại Mà chỉ là sự
thị hiện Của tâm rỗng lặng
Thì ngươi đã bị phỉnh lừa trong
thiền định.
Đó là căn nguyên của tất cả mọi
lầm lạc Tất cả đều
xuất hiện trong tâm.
Lại nữa,
Thiền định là một ảo nghĩ
Không
thiền định cũng là một
ảo tưởng Chúng giống nhau cho dù người thiền hay không thiền.
Trí phân biệt là mầm mống của mọi
sai lầm Trong tất cả chẳng có gì là tất cả
Trong
quan điểm chẳng có gì là
quan điểm Đó là tính thể của tâm.
(Một trong hàng ngàn bài thơ đạo Milarepa để lại cho
thế gian. Đọc toàn bài thơ ở phần
phụ lục.)
______________________________________
Đừng để mất một điểm nào trong
vấn đề này. Câu hỏi này không khó vì nó chỉ là một điểm u tối của triết lý, chúng
huyễn ảo. Nó không
hoàn toàn là một
rắc rối, một khó khăn về
lý thuyết, nhưng nó đến từ
kinh nghiệm của
chúng ta.
Vấn đề là
chúng ta không thể nào nhìn được
bản tính tuyệt đối của mọi
hiện tượng.
Không chấp nhận điểm này thì rất khó mà nói về
sự thật. Khi tôi hỏi, “Làm sao quý vị biết được cái gì quý vị nhìn là thật hay giả?” thì đừng nghĩ, “Lạt ma đang hỏi tôi một câu hỏi khó. Chỉ có ngài mới
trả lời được.” Nó không phải như vậy. Không có ai có thể giấu quý vị câu
trả lời chân thật. Chỉ khi nào chính quý vị kiểm chứng được những
kinh nghiệm của quý vị về cái mà quý vị gọi là
sự thật thì lúc đó quý vị mới bắt đầu
đồng ý về
vấn đề này.
Chuyện gì đã thường xẩy ra ở nước Mỹ khi một người da đen và một người da trắng
xung đột với nhau. Thực sự họ đã không nhìn ra được
toàn diện vấn đề. Thật ra, người da trắng đã sơn phết một
quan niệm lệch lạc về người da đen và ngược lại. Rồi,
dựa trên lối nhìn lệch lạc này, họ hành động một chiều, cứng nhắc cho nhau. Tại sao sự kỳ thị này lại có
sức mạnh ảnh hưởng đến tâm của họ?
Thực ra, đây chỉ là những
vọng tưởng bệnh hoạn, những phóng tưởng
tâm thần mà tất cả những
vọng tưởng này, những phóng tưởng này chẳng có
liên hệ thực tại nào với cá tính của họ. Nó không phải là cái họ nhìn mà là cách họ nhìn, điều này đã tạo ra sự khác biệt, điều này đã tạo ra sự kỳ thị.
Hoàn toàn chỉ là những điều tưởng tượng. Những điều tưởng tượng chứ không phải là những điều được dậy bảo; đó là một phần
văn hóa của họ. Vì thế khi tôi nói về sự
chuyển hóa sự thật tương đối của bất cứ một
sự kiện nào bằng cách
thành lập những
quán tưởng (tưởng tượng)
thích ứng là tôi đã không nói về một điều gì mới lạ hay khác lạ mà đây chính là những điều mà
con người vẫn thường làm. Đã có những
sự kiện ảnh hưởng sâu xa trong tâm của
chúng ta nên khi được thanh tẩy, khi được
chuyển hóa bằng những
động lực thích ứng thì
chắc chắn sẽ
đạt được nhiều ơn ích, nhiều
thành quả.
Kinh nghiệm cho
chúng ta biết rằng khi ánh sáng
mặt trời rọi vào căn phòng
đen tối thì
ngay lập tức bóng tối sẽ biến mất. Không có một sự
nghi ngờ gì cho
sự kiện này phải không? Khi
chúng ta quán tưởng Đức Phật Thích Ca cũng vậy, ánh
sáng trí tuệ, như ánh sáng
mặt trời của Ngài sẽ chiếu soi tâm ta. Chiếu soi một cách
tự nhiên trong
tâm hồn chúng ta và sẽ
trở thành một sự hướng dẫn. Khi
sự quán tưởng của
chúng ta về Ngài trở nên mạnh và
trong sáng – thân của Ngài không phải là thân xác thịt nhưng đó chính là sự
thị hiện của
Pháp Thân Phật –
trong khoảng 5, 10 phút thì thật là ơn ích, thật là hữu hiệu. Không
cần phải tụng niệm,
chỉ quán tưởng cũng đủ rồi.
Hãy tưởng tượng
chúng ta đang đi dạo phố tại New York với những cửa hàng đầy quần áo đẹp đủ màu, thật là
hấp dẫn trong những khung cửa sổ, nó
đánh thức lòng ham muốn của
chúng ta làm tâm
chúng ta bấn loạn. Ngay tại đó
chúng ta cũng có thể
chuyển biến những
năng lượng này vào ánh
sáng trí tuệ của Phật hay nếu
chúng ta biết cách,
chúng ta cũng có thể hóa giải nó vào trong
tính không của chính nó. Qua
phương pháp này, mỗi khi
chúng ta nhận thức được tính tham nổi lên qua những bộ quần áo, chúng chỉ là những trò
huyễn ảo của
tâm bình thường, do đó nó chẳng có một
giá trị nào với
tâm chân thật, vì thế bất cứ cái gì
huyễn ảo xuất hiện thì cũng sẽ tự động tan biến. Sự khó khăn, lòng tham, sẽ được hóa giải.
Nếu không như vậy, tâm của
chúng ta cứ bám chặt vào
vọng tưởng rồi nghĩ: “Ôi chao, đẹp quá, ước gì nó là của tôi,”
chúng ta sẽ mang cái
hình ảnh này suốt cả ngày.
Nếu
chúng ta dừng lại và
suy nghĩ thâm sâu chúng ta sẽ
nhận ra sự thật này đang diễn ra.
Chúng ta cũng có thể cho là “
Lạt ma này
nói nhiều quá, những gì ông ta nói toàn là giả tưởng, chẳng có
căn bản gì cả.” Nhưng
chúng ta cũng đừng
chấp nhận hay từ chối một cách
mù quáng.
Tốt hơn, hãy
kinh nghiệm nó, đừng phê phán tốt hay xấu. Như
chúng tôi đã trình bày trước kia,
Đạo pháp không
quan tâm đến
quá khứ hay tương lai mà chính là ở ngay giây phút
hiện tại. Vậy hãy tự kiểm chứng những lời dậy bảo này và
cố gắng tìm ra giá trị ở trong đó.
Có thể có những
nghi ngờ ở điểm này. Quý vị có thể nghĩ: “Tôi dùng
phương pháp này để hóa giải những đối tượng đẹp và
hấp dẫn một cách dễ dàng. Nhưng còn những
vấn đề quá
rắc rối, cực kỳ khó khăn thì sao? Như có người tấn công tôi, gây
sầu khổ cho tôi, trong
trường hợp này tôi phải làm gì?” Đúng là một
quan tâm khá quan trọng. Được, nếu quý vị thực sự
tỉnh thức, thực sự biết
kiểm soát thì ngay cả những
sự kiện vô cùng khó khăn cũng có thể hóa giải trong
Đạo pháp.
Việc đầu tiên
chúng ta phải làm khi có những
liên hệ khổ đau với một người nào hay sự vật nào thì hãy nhớ rằng một
phản ứng xấu,
tiêu cực sẽ không bao giờ mang lại kết quả, không bao giờ
giải quyết được
vấn đề. Sự
hối hận, sự tự vệ, lòng mong muốn
trả thù... sẽ không hóa giải được gì, không giúp ích gì. Chúng chỉ làm cho
chúng ta tức giận hơn, bấn loạn thêm. Hãy
bình tĩnh nghĩ về những
kinh nghiệm ở
quá khứ sẽ giúp cho
chúng ta biết đây là
sự thật. Những xúc cảm và những
ý nghĩ tiêu cực chỉ dẫn đưa
chúng ta đến
đau khổ trong tương lai, điều
vô cùng quan trọng là hãy hướng về những
phản ứng tích cực,
trong sáng.
Vì thế, thay vì
để ý đến những
phiền não, giận ghét, hãy nhìn thẳng vào tâm ta, hãy nhìn sâu vào bên trong, bên ngoài xem cái gì,
sự kiện gì đang xẩy ra. Hãy tự nhủ: “Khoan, đợi một chút,
bình tĩnh lại. Cái này rồi sẽ qua đi.” Nếu
chúng ta có thể cầm giữ sự nóng giận lại trong một vài giây, tâm của
chúng ta sẽ
trong sáng hơn. Ở
trạng thái này
chúng ta có thể hiểu thấu được
vấn đề một cách
tinh tế hơn, đúng hơn.
Nên nhớ rằng mỗi một
sự kiện đang xẩy ra bây giờ đều có
nguyên nhân. Có thể đây là những
hậu quả mà
chúng ta phải lãnh nhận vì những hành động xấu của
chúng ta đối với người khác trong
quá khứ. Vì thế,
chúng ta nên nghĩ rằng
chúng ta đang trả dần những món nợ cũ. Ngay cả những
sự kiện gây
đau khổ cho
chúng ta,
chúng ta cũng nên nghĩ rằng đây là những ơn phước. “Cho dù người nào hay bất cứ gì đang làm tôi khổ, thì đây cũng chỉ là sự
thị hiện của
Đạo pháp, giúp cho tôi thăng tiến trên đường tìm
giác ngộ. Nếu tôi có thể học được gì trong những
đau khổ này thì sẽ giúp tôi phát triển thêm
lòng từ bi đến những người đang khổ đau và giúp tôi tránh được những hành động gây ra khổ đau cho chính tôi, hơn nữa nó sẽ mang lại
hạnh phúc cho những người đã cho tôi những giây phút
bực bội này.
Nếu không có những người đối xử với tôi như là một đứa trẻ thì làm sao tôi có thể
trưởng thành trong tình cảm và trong
tinh thần được.” Với những cảm nghĩ như vậy,
chúng ta có thể
chuyển hóa những sự
giận dữ, những sự
bực bội của
chúng ta thành
lòng từ mẫn
chân thành, trong một chiều hướng
hiểu biết thâm sâu.
Hình như
phương pháp này không
quen thuộc với quý vị chút nào, có vẻ còn đi ngược lại với
hoàn cảnh và đôi khi có người còn cho là
điên khùng nữa. Nhưng đối với những người
chân thành thực hành Đạo pháp thì đây là một
phương pháp vô cùng quý báu để
tinh tấn. Họ
nhận thấy những
phương pháp bình thường và thông thường đều không có
giá trị để
đối trị những
vấn đề rắc rối, chúng
chỉ dẫn đến
đau khổ hơn hoặc
bất mãn hơn mà thôi.
Tuy nhiên chấp nhận tất cả mọi
tình trạng khổ đau để
tu tập, để hiểu thấu
bản tính của tâm là
phương pháp tuyệt diệu nhất.
Chúng ta không thể sống nếu cắt đứt tất cả mọi
liên hệ với người khác,
đặc biệt trong một thành phố lớn như thế này,
mặc dầu có những
liên hệ gây ra
phiền toái. Nhưng nếu
chúng ta cứ
tiếp tục chung sống,
tiếp xúc với nhau,
chúng ta sẽ học được rất nhiều bài học quí báu.
Nói đúng ra, chẳng có ai là
hoàn toàn, còn rất nhiều điều
chúng ta cần phải tinh tấn, còn rất nhiều
vấn đề chúng ta cần phải tìm hiểu.
Bài học này chỉ có
giá trị cho những người đang sống gần nhau, còn
liên hệ giao tiếp
với nhau. Nhiều khi có những
va chạm nhưng họ đã phải
cố gắng tìm hiểu nhau để trau dồi mối tương quan. Mặc dù có những người
cố tình gây ra chuyện xấu, nhưng chẳng sao cả nếu còn có những người đang sống
chân thành với
Đạo pháp. Những điều
xấu xa sẽ
trở thành ơn phước nếu họ biết cách
chuyển hóa chúng.
Mặc dù
lòng từ mẫn có
giá trị cao quí, nhưng
chúng ta cũng không thể luôn luôn
mở rộng tình thương mà nói: “ Tôi thương anh, lúc nào tôi cũng đối xử tốt với anh.” Rất có thể
chúng ta làm như vậy vì
chúng ta muốn được
bảo vệ, được
mọi người để ý hoặc muốn được
an toàn. Nếu
chúng ta cứ để
chúng ta bị
lệ thuộc vào người khác theo kiểu này thì
chúng ta không bao giờ
khám phá ra được khả năng của
chúng ta và cũng không bao giờ có thể phát triển được năng khiếu nào. Đừng bao giờ nghĩ rằng
chúng ta không có tài, không được mạnh, thực sự tâm của
con người có một
sức mạnh phi thường.
Chúng ta chỉ cần
thể hiện sức mạnh đó ra bằng hành động. Thay vì để mình trong
tình trạng chán nản,
chúng ta hãy dùng nó vào việc
thực hành tu tập. Như vậy,
chúng ta có thể
chuyển hóa, buồn thành vui, chán nản thành hăng say,
bất mãn thành
an lạc giải thoát. Trong những bài học
thực hành tu tập của người
Tây Tạng gọi là “chuyển
hoàn cảnh thành
con đường giải thoát.”
Thường thường khi gặp phải những chuyện bất bình,
chúng ta nói: “Chán quá!” Nhưng nếu nhìn thật sâu vào
vấn đề, hỏi đi hỏi lại cái gì làm
chúng ta chán trong
hoàn cảnh này, có lẽ chẳng có câu
trả lời nào làm
chúng ta hoàn toàn vừa lòng. Không ai có thể
chứng minh được cái gì thật sự là “chán.” Vì thế, bất cứ gì mà tâm thường tình cho là
bất mãn, chán nản, khó chịu đều có thể
chuyển hóa được bởi
Đạo pháp trong
con đường thực hành tâm linh.
Chắc chắn là được, ngay cả những gì khủng khiếp nhất.
Đối với những người
Tây phương thì không có gì đáng
nghi ngờ khi nghe bài giảng chuyển xấu thành tốt này. Trong những nước thiếu
văn minh, người ta khó có thể hiểu được
con người có thể
chuyển biến cái này thành cái kia. Nhưng ở đây,
truyền thống giáo dục của quý vị thường chú trọïng đến
vấn đề thay đổi những môi
trường sinh sống ở bên ngoài. Do đó, khi quý vị nghe nói về những
phương pháp chuyển hóa tâm linh để
ảnh hưởng đến những tình cảm ở bên ngoài, quý vị sẽ hiểu ngay nó là gì và sự
hiệu nghiệm của nó như thế nào.
Phần nhiều những người ở Hoa Kỳ đi làm việc cho người khác. Họ có rất nhiều cơ hội để
học hỏi và tiến thân mà những người khác không có. Vào buổi sáng, trước khi đi làm, quý vị nên xác định lại tính
năng động, sự
hăng hái của mình. Hãy nhớ đến
đặc tính thâm nhập tự nhiên của khổ đau mà phát triển
lòng từ bi đến tất cả những người mà quý vị sẽ gặp. Rồi nên dành
sức lực của mình để mang lại
lợi ích cho người khác.
Chúng ta nên
quyết tâm làm việc và
hoàn thành công việc một cách chăm chỉ, hăng say. Với một
căn bản vững chắc như vậy,
chúng ta sẽ không còn lười biếng,
buồn bực hoặc tức tối mỗi khi lái xe đến sở làm. Không mong muốn chiếm phần
lợi ích trong bất cứ
lãnh vực nào, không lừa dối chủ,
chúng ta làm việc trong
tinh thần tương thân tương trợ lẫn nhau. Với
thái độ đó, một ngày làm việc của
chúng ta sẽ
vô cùng giá trị và hữu ích thay vì mất
thời giờ vô ích.
Thời nay có rất nhiều người muốn những
hình thức luyện tập
thân thể khác nhau. Những
hoạt động như tăng sự
kiểm soát thân thể,
cần phải đạt nhiều tiện ích... nhưng học để
kiểm soát tâm rồi từ đó đem lại
lợi ích cho người khác là một sự
thực hành vô cùng quí giá. Có một kỷ luật
tâm linh như vậy,
chúng ta có thể
tinh tấn rất nhanh và rất xa trong mọi
lãnh vực kể cả
con đường dẫn đến
giải thoát. Một trong những
thành quả vĩ đại của việc
áp dụng kỷ luật này là để
chuyển hóa tất cả những
sinh hoạt bình thường hằng ngày vào
con đường tu tập tâm linh.
Trong thời
Đức Phật Thích Ca, có một ông già rất muốn
thực hành Đạo. Nhưng đáng tiếc ông ta quá
ngu muội, không thể hiểu được những lời dậy của Phật. Những
đệ tử của Ngài
thất vọng nên không đủ
kiên nhẫn để dậy ông ta. Vì thế,
lần lượt hết thầy này đến thầy khác từ giã ông; quá chán nản, ông muốn gieo mình xuống sông tự tử để
chấm dứt cuộc đời đau khổ này.
Nhìn thấy
tình trạng đáng thương không thể
vượt qua của ông già,
Đức Phật liền gửi ngay một
đệ tử thân cận nhất của Ngài đến khuyên can và nói với ông rằng chính Phật sẽ chỉ dậy cho ông cách
thực hành tâm linh. Khi ông già được dẫn đến
trước mặt Ngài,
Đức Phật nói rất
nhỏ nhẹ với ông : ”Ông không
cần phải học hỏi sâu xa, không
cần phải cầu nguyện cũng không
cần phải tụng kinh. Ông chỉ cần quét chùa và
cố gắng giữ nó càng sạch càng tốt.
Tuy nhiên, mỗi khi quét ông hãy tự nhủ, ‘ Hãy sạch ! Hãy hết
mùi hôi thối !’ Ông chỉ cần
thực hành như vậy cũng mang lại rất nhiều ơn ích.”
Ông già rất cảm kích về sự
thực hành đơn giản này và bắt đầu hăng say
thực tập. Ông quét chùa mỗi ngày,
thực hành chăm chỉ theo đúng sự
chỉ dẫn. Rồi đến một ngày, trong lúc đang quét bụi và rác, ông ta nghĩ, « Bây giờ tôi
cảm thấy tôi thực sự hiểu được
ý nghĩa của lời Phật dậy ‘ Hãy sạch ! Hãy vất rác đi’ Bụi bặm không phải ở bên ngoài ; nó ở bên trong.
Mùi hôi thối không phải ở đây, trong ngôi chùa này; nó ở ngay trong tôi, không phải chỉ quét chùa mà thôi, tôi cũng phải làm sạch cả tâm của tôi nữa. » Bang ! Ánh sáng
nội tâm bắn thủng bức màn
vô minh của ông già làm ông bừng tỉnh hiểu được
tứ diệu đế, nền tảng của
toàn thể con đường. Vì thế, chỉ trong một tích tắc ông ta đã
chuyển hóa từ một ông già quét rác
u mê thành một người có
trí tuệ.
Qua
câu chuyện này, quý vị chưa
nhận thức được từng
chi tiết của sự phát triển
trí tuệ trong
Đạo pháp. Điều quan trọng là tất cả những gì
chúng ta học và
kinh nghiệm được đều trực tiếp đi ngay vào tâm
chúng ta rồi
ngay lập tức nó chuyển thành hành động. Như vậy, dù là chỉ nghe một lời dạy
đơn giản cũng có thể mở
toàn diện tâm ta. Cái gì
chúng ta nghe được không quan trọng bằng cách
chúng ta nghe như thế nào. Oâng già nhận được một lời
chỉ dẫn vô cùng đơn giản nhưng ngay khi
nhận thức được nó có
liên hệ đến
cuộc đời của ông, ông đã
thực tập và
tinh tấn nhanh chóng.
Tương tự như vậy,
chúng ta nên
chuyển hóa tất cả những gì
chúng ta nhận được –
âm thanh,
mùi vị, mầu sắc...
vân vân... – vào
Đạo pháp. Làm thế còn
tốt hơn là vồ chụp hoặc
xua đuổi chúng. Nếu
chúng ta nhìn sự vật từ bên trong lẫn bên ngoài với một cái nhìn
toàn diện thì
cuộc đời của
chúng ta sẽ
giá trị biết bao. Đừng nhìn
thế giới bằng con mắt
tham sân si thì
thế giới sẽ
xuất hiện vô cùng trong sáng.
Thường thường những
vọng tưởng của
chúng ta mang lại nhiều trở ngại, nhiều
rắc rối hơn là chính sự vật, hơn là chính đối tượng.
Thí dụ, khi đi dạo trên những đường phố ở New York,
chúng ta thường nghĩ thành phố này quá
dơ bẩn. Thực sự không
hoàn toàn đúng như vậy. Chính vì những
bất an ở trong tâm, sự vội vã tấp nập của xe trên đường phố và những cảnh
sinh hoạt nhộn nhịp đã làm
chúng ta dễ dàng tức giận với những người chung quanh. Nếu
chúng ta dừng lại nói chuyện với một người nào,
chúng ta sẽ
nhận thấy tâm của họ cũng y hệt như
chúng ta. Đó chỉ là những
xét đoán tầm thường,
bề ngoài,
dựa trên những xúc cảm thoáng qua về thành phố New York và dân chúng của thành phố này.
Tâm của
chúng ta đã đầy ắp những
ý niệm sai lầm như vậy. Có người tin rằng những
ý niệm sai lầm này có trong
thiên nhiên và họ đã học được từ người khác hoặc ở một nơi nào đó. Điều này không
hoàn toàn đúng như vậy. Những
ý niệm sai lầm không truyền
từ tâm này qua tâm kia, cũng không
nhất thiết đến từ một chuỗi
sai lầm nào đó. Đúng ra, tâm -- bị
ảnh hưởng bởi nghiệp và
vọng tưởng đi vào một thân xác đầy
ô nhiễm -- đã sẵn mang đầy
vọng tưởng, như tin rằng “cái tôi ” là một
thực thể độc lập và có thật. Những
tin tưởng sai lầm này không có
dính dáng gì đến
ngôn từ hay
tư tưởng. Đúng ra, nó từ những
nguyên nhân khác. Nó chỉ
liên hệ đến
ngôn từ hay
tư tưởng khi tâm
ô nhiễm cố gắng diễn tả chính nó ra trên bình diện
ý thức, khi đó nó dùng
ngôn từ để chuyên chở,
chuyển đạt những
quan niệm sai lầm của chính nó. Do đó, không nên nghĩ rằng tâm của
chúng ta không có những
ý niệm sai lầm bởi vì
chúng ta đã không bao giờ học triết ở trường học.
Nhìn vào tâm để
khám phá và
điều chỉnh những
huyễn ảo của chính nó là một
việc làm đầy
thích thú, phải vậy không quý vị? Nếu
chúng ta khám nghiệm mọi sự qua lăng kính
Đạo pháp thì chẳng có gì làm
chúng ta chán nản cả. Thật là
thích thú khi thấy tâm nhậy bén trong việc
sáng tạo và
thích ứng với những
hoàn cảnh mới. Còn
thích thú hơn nữa khi
kiểm soát được tiến trình này và nhìn ra được mọi sự đều có thể
chuyển hóa vào sự
thực hành Đạo. Có rất nhiều người, dù có
việc làm hay không có
việc làm,
cảm thấy không có gì có
giá trị để làm trong
cuộc đời của họ. Nhưng sự
hiểu biết của
Đạo pháp sẽ làm
chúng ta rất bận rộn. Vì
quán tâm nên
chúng ta sẽ bận rộn trong việc
học hỏi những điều mới lạ và cũng biết được chúng rất
thực tế (mà trước kia
chúng ta không hiểu được.) Không giống những học trò, họ nhận được sự
hiểu biết qua sách vở, không phải do những
kinh nghiệm của
đời sống. Thật tốt nếu
chúng ta học được trên cả hai
phương diện, sách vở và
kinh nghiệm, nhưng qua
kinh nghiệm thì có gía trị hơn rất nhiều.
Được sinh ra là người là một điều
vô cùng may mắn. Vì thế,
chúng ta có khả năng dùng sự
hiểu biết của
chúng ta để phân tích. Sự khác biệt lớn lao giữa con chó và
con người là
chúng ta biết khám nghiệm
tư cách của
chúng ta, con chó không có khả năng này. Bởi vì
chúng ta có thể
thẩm định được tất cả những hành động của
chúng ta từ
tinh thần đến thể xác là tốt hay không tốt,
chúng ta có nhiều cơ hội và
trách nhiệm để tự khám nghiệm những
đặc tính của những
lỗi lầm và những điều chợt đến của
chúng ta. Có khi những
vấn đề này rất khó chia sẻ với những người khác, sẽ có rất nhiều ơn ích nếu
chúng ta khám phá ra được căn nguyên, gốc rễ
thâm sâu của những
yếu kém của
chúng ta. Thật đáng
xấu hổ nếu không biết
sử dụng khả năng hiếm có này, mà cứ nhìn đời với một con mắt
mù quáng và không biết phân tích! Vì thế, cho dù sự việc xẩy ra tốt hay xấu,
chúng ta nên
kinh nghiệm chúng bằng
trí tuệ trong sáng của
Đạo pháp, hãy
chuyển hóa chúng vào sự
thanh tịnh vô biên của
con đường dẫn đến
giác ngộ.
Như
chúng tôi đã đề cập trước kia, có một số
vấn đề đã xẩy ra sau khi một số người
Tây phương qua
Đông phương học đạo với
Lạt ma hay
đạo sư. Có thể họ đã thiếu một số
nghi lễ để
hoàn tất sự
học hỏi rồi
cảm thấy rằng họ không thể
thực hành đạo với các vị đó nữa.
Thí dụ, ở
Đông phương có những mùa đã được
ấn định để tổ chức các
nghi lễ cúng dường. Trong những
nghi lễ, trước
ảnh tượng các vị đã
giác ngộ, chiêng, trống, chuông, tù và… thường được dùng cùng với những bài
tụng niệm, rồi nến, bát nhang, chén nước, mâm
hoa quả,
thức ăn cũng được bày ra. Những
nghi thức cúng dường như vậy có thể rất dài và thực sự
cần thiết cho những buổi
thực hành Đạo của
chúng ta.
“Cúng dường” danh từ tiếng Phạn là “Puja”. Tại sao người ta lại cúng một người khác? Thông thường là để làm
vừa lòng người đó. Đó là
ý nghĩa thấp,
tương đối. Trong
Đạo pháp,
cúng dường có một
ý nghĩa thâm sâu hơn. Khi
chúng ta chuyển hóa tất cả vào những
hình ảnh,
âm thanh,
mùi vị tốt đẹp.... rồi dâng cúng chúng theo những
nghi thức tượng trưng của
tâm giác ngộ thì đó chính là ơn phước cho người
cúng dường. Nhờ tập trung tất cả những
năng lượng của
chúng ta vào
lễ nghi để hướng về
tâm giác ngộ là
chúng ta đã đem
chúng ta đến gần sự
bình an vĩnh cửu và
hạnh phúc thường hằng.
Vì thế,
chúng ta cần phải hiểu ý nghĩa đích thực của sự
cúng dường là gì. Nó không phải là những lời
tụng niệm cũng chẳng phải là
hoa quả mà chính là sự
tôn kính, sự
chân thành của
chúng ta đặt chúng lên
bàn thờ, đây mới chính là
tinh túy của sự
cúng dường. Bất cứ hành động nào, bất cứ
hình thức thiền định nào mà
chúng ta thực hiện đều đem
tâm thức của
chúng ta đến gần sự
an lạc thường hằng đồng thời phá tan đi những
lầm lẫn và
loạn động -- đó mới thực sự là
cúng dường. Vì thế,
chúng ta không nên nghĩ rằng không có những
nghi lễ Tây Tạng hoặc Aán Độ ở nước Mỹ là
chúng ta không thể
thực hành Đạo. Quý vị không cần những
âm thanh “ting, ting, ting” của chuông cũng chẳng cần mõ, tù và hay chiêng trống trong khi
cúng dường. Tất cả những gì
chúng ta làm –ngay cả những việc
đơn giản như
ăn uống – cũng có thể chuyển thành
cúng dường.
Mục đích chỉ là
gìn giữ sự
thanh tịnh.
Thí dụ, ở Mỹ người ta luôn luôn uống một cái gì. Từ khi đến New York tôi không ngừng uống nước, nóng quá! Từ bây giờ, mỗi khi khát nước hoặc mỗi khi lấy một cái gì để uống, hãy
kiểm soát, hãy nhìn vào tâm
chúng ta. Thay vì nuốt nước một cách
vô ý thức, hãy lắng đọng tâm tư một giây và dâng cúng ngụm nước đó cho sự
giác ngộ của
chúng ta. Nếu
chúng ta đã được dậy bảo về những lời chú, như OM AH HUM, hãy niệm chúng.
Nếu không biết,
chúng ta cũng có thể
chuyển hóa nước thành những giọt
cam lồ thanh tịnh bằng cách hãy nhìn vào tâm của
chúng ta. Vì hướng
năng lượng của những gì
chúng ta uống lên cấp độ cao hơn,
như không vì
mục đích ích kỷ, không vì sự khoan khoái thân xác, mà
chúng ta tự nhiên nhận được sự
cứu độ. Cả một tiến trình
chuyển hóa chỉ diễn ra trong một phút mà
hiệu quả của sự
cúng dường tồn tại lâu dài trong tâm của
chúng ta hơn mức độ
bình thường.
Vị
đại bồ tát Long Thọ nói rằng
chúng ta không nên dùng thân xác hiếm có này vào những
mục tiêu vô giá trị. Vì thế, mỗi khi
nuôi dưỡng chăm sóc nó, đừng làm vì những
lý do hư vọng như làm đẹp để
quyến rũ người khác. Thay vì như thế, hãy nghĩ rằng
chúng ta bảo trì và trau dồi
sức khỏe để đem lại
lợi ích cho người khác và cũng cho chính
chúng ta. Hãy dùng
toàn thể năng lượng để phát triển
con đường tâm linh và đạt
mục tiêu tối hậu. Vì thế, hãy
chuyển hóa tất cả những
năng lượng đi vào thân xác của
chúng ta cho
con đường an lạc miên viễn dẫn đến
giác ngộ.
Cách tốt nhất để dùng những nguồn
năng lượng một cách toàn hảo là luôn luôn
tỉnh thức và
ý thức bất cứ cái gì đang xảy ra cho
chúng ta. Mỗi khi
tỉnh thức và
ý thức như
vậy thì dù một
cử chỉ đơn giản nhỏ mọn cũng được
chuyển hóa vào
Đạo pháp.
Thí dụ, khi
chúng ta ăn uống, hãy
để ý đến những
cảm giác đang xẩy ra trong hệ
thần kinh của
chúng ta. Khi
Đức Phật Thích Ca còn sống, không có việc
cúng dường bên ngoài như vậy. Chính
thiền định cũng là
cúng dường. Cũng như vậy, khi
chúng ta ăn, uống trong sự
tỉnh thức thì cũng như
chúng ta đang
thiền định, tất cả mọi hành động đều là
cúng dường Đạo pháp.
Những rung cảm ở bên trong và những
cảm giác ở bên ngoài đều dấy lên trong bất cứ hành động nào,
cử chỉ nào
chúng ta làm. Khi chúng nổi lên, đừng nghĩ ngay, “cái này tốt,” hoặc “cái này xấu.”
Phản ứng ngay như vậy chỉ gây ra những
bối rối và
lầm lẫn,
sự thật thường bị che giấu như vậy. Thay vì thế, hãy
ý thức, hãy
tỉnh thức trên tất cả những rung cảm ở bên trong cũng như bên ngoài rồi hãy kiểm chứng chúng bằng con mắt
trí tuệ.
Thực hành đều đều như vậy sẽ phát triển trong tâm của
chúng ta một
thói quen tỉnh thức,
dần dần sẽ thanh tẩy tâm
chúng ta mỗi ngày mỗi sạch hơn, sạch hơn.
Muốn
ý thức tất cả những hành động một cách
hoàn toàn,
chúng ta cần phải tu sửa những
hành vi cử chỉ của
chúng ta. Vì thế khi ăn, uống
chúng ta nên ăn trong yên lặng, đừng
nói nhiều quá, đừng
ồn ào quá. Có thể
bàn luận những đề tài
đơn giản còn những đề tài
phức tạp, khó khăn hãy để lúc khác.
Nếu không làm như vậy tâm của
chúng ta sẽ bị dồn dập hết
vấn đề này đến
vấn đề khác, sẽ
đi vòng quanh
thế giới, mọi chuyện sẽ chằng chịt
với nhau đến nỗi không còn tập trung vào
cảm giác ăn uống được nữa. Vì thế, muốn có một bầu không khí yên tĩnh, hãy bớt nói chuyện càng nhiều càng tốt.
Tuy nhiên, khi đã ăn xong và tới giờ
tranh luận,
chúng ta hãy
chuyển tâm của
chúng ta vào
tranh luận, hãy
chuyên chú vào đó. Đừng nghĩ về
bữa ăn vừa qua cũng đừng nghĩ đến
bữa ăn sắp đến. Đừng nói chuyện
lung tung cũng đừng chuyển đề tài quá nhanh, quá nhiều. Điều này chỉ làm những
thói quen bừa bãi trong tâm
chúng ta tăng lên mà thôi, vì nó đã nằm sâu trong đó.
Chúng ta đã
huân tập biết bao hành động
vô ý thức qua
muôn vàn kiếp mà không hề
chú tâm vào
chân lý trong từng giây phút của
thực tại. Vì thế không thể nắm được
trọn vẹn vấn đề, không nhìn được
toàn diện mà chỉ là những chắp nối trộn lẫn
với nhau rồi
đi vào một cái tâm lơ đãng, không biết tập trung. Do đóù
chúng ta cần phải huấn luyện tâm,
phương pháp tốt nhất để bắt đầu là hãy tập trung vào cái gì
chúng ta đang làm, đừng
để tâm bị phân tán, bị
ảnh hưởng bởi những
ý tưởng không
cần thiết hoặc
hão huyền.
Kinh nghiệm đã cho
chúng ta biết tập trung vào tâm là một điều
vô cùng quan trọng. Nếu
chúng ta học quá nhiều
vấn đề trong một lúc thì rất khó mà
hoàn tất được một cái nào. Khả năng của
chúng ta sẽ bị phân tán làm
chúng ta không thể nào hiểu được điều
chúng ta đang học. Nhưng khi
chúng ta tập trung vào một đề tài trong một
thời gian thì tâm của
chúng ta sẽ trở nên
trong sáng để dễ dàng
hấp thụ vấn đề. Vì thế, thay vì
để tâm lang thang hết
vấn đề này đến
vấn đề khác,
chúng ta nên tập trung vào một thì dễ
kiểm soát tiến trình
tinh thần của
chúng ta hơn.
Hãy phát triển sự
kiểm soát này trên tất cả những
sinh hoạt của
chúng ta và
đặc biệt chú ý đến thân, khẩu và ý, đừng để chúng
tự do dẫn
chúng ta đi lòng vòng. Hãy
cố gắng tập trung vào một điểm, vào một hành động. Điều này rất tốt cho tâm của
chúng ta, từ đó
chúng ta có thể
giảm bớt được những
xung khắc, những
lầm lẫn ở
nội tâm và
dần dần chúng ta có thể phá vỡ được những
thói quen đã kết tụ trong
quá khứ. Những
thói quen này
chỉ dẫn chúng ta đến
đau khổ, vì thế chỉ có thể chiến thắng chúng bằng cách hãy phát triển tâm
tỉnh thức.
Tất cả những điều
chúng ta đang đề cập đến ở đây như làm việc, ăn, uống và
tỉnh thức chỉ để giúp
chúng ta có một giấc
ngủ ngon. Hầu như lúc nào
chúng ta cũng đi ngủ với một tâm trạng
bất an hoặc không được
kiểm soát. Đi ngủ trong một tâm trạng
an bình,
tỉnh thức,
thanh tịnh thì
tốt hơn là một tâm trạng
bất an,
bất tịnh. Nếu
chúng ta có thể thiền được ở trên giường thì rất tốt, vì
chúng ta có thể chuyển tất cả giấc ngủ vào
Đạo pháp. Trong những lời
giáo huấn của
Đại thừa có
giải thích rất tỷ mỷ về làm cách nào để
đạt được ơn ích trong giấc ngủ và giấc mơ. Nhưng ở đây
chúng ta có thể nói rằng nhờ biết tập trung mà
chúng ta có thể
tin chắc giấc ngủ của
chúng ta sẽ
an lành.
Đã rất nhiều lần, sau một ngày đầy
bực bội, có thể
chúng ta đã tự hỏi: “Tôi không thể ngủ được. Tôi phải làm gì đây?” Tâm bị phân tán ra rất nhiều hướng, vì
bực bội vẫn còn vang vọng trong đầu, làm sao mà ngủ được.
Thiền định có thể giúp tâm
chúng ta trở lại yên tịnh và
chúng ta có thể ngủ được. Rất nhiều người trong
chúng ta đã làm công việc này và họ đã có rất nhiều
kinh nghiệm về
sự thật này. Đã bao nhiêu lần quý vị
đi vào giấc ngủ khi
thiền định, ngay cả thiền lúc ban ngày?
Hãy
kiểm điểm xem những lần
mất ngủ, những lần chờ đợi giấc ngủ đến,
chúng ta như thế nào? Có thể
chúng ta đã chú ý đến những hành động của
chúng ta đã làm trong ngày, nhưng nếu
chúng ta không
kiểm điểm lại trước khi đi ngủ,
chúng ta đã làm mất một dịp để hiểu những gì
chúng ta đã tạo ra. Có thể chúng sẽ
trở lại trong giấc mơ và làm
lu mờ đi những gì
chúng ta đã học được, những
ý tưởng về sự
tỉnh thức sẽ
bị tràn ngập bởi những
năng lượng xấu.
Một trong những
lý do cần thiết để có một giấc ngủ
an lành là những giấc mơ phải có
giá trị và có
hiệu lực hơn lúc thức. Quý vị có
thể không tin điều này, quý vị nghĩ: “Ban ngày tôi có thể
ý thức vào những hành động của tôi. Tôi có thể biết và
kinh nghiệm được mọi thứ, từ thể xác đến
tinh thần. Nhưng ban đêm
tâm thức của tôi
mơ mộng, nó tạo ra những trò
huyễn ảo.Vì thế
tình trạng vô ý thức này có
giá trị hơn thế nào được?”
Lý do mà tôi đề cập tới
vấn đề này là
mặc dầu chúng ta nghĩ trong lúc tỉnh
chúng ta đã chú ý vào những công việc của
chúng ta nhưng những
cảm quan khác của
chúng ta vẫn
hoạt động, vẫn mở, vì thế chúng vẫn
phản ứng với những gì chúng nhận được.
Tuy nhiên trong lúc mơ, năm
giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi và
xúc giác không
hoạt động.
Thí dụ, khi
chúng ta nhìn một vật trong lúc mơ thì
chúng ta nhìn bằng con mắt của tâm chứ không phải bằng con
mắt thường. Khi thiếu vắng sự
hoạt động của những
giác quan bên ngoài thì tâm của
chúng ta được tập trung
toàn diện một cách
tự nhiên. Do đó,
thí dụ,
hiệu quả của giấc mơ về lòng tham có thể mạnh hơn và ghi dấu ấn sâu hơn vào tâm của
chúng ta hơn là sự
xúc động bình thường tới tim
trong đời sống hàng ngày.
Dĩ nhiên,
sự kiện này cũng xẩy ra
y như vậy với những
ấn tượng của
tâm linh.
Quý vị hãy tự
suy nghĩ và tự cảm nghiệm
sự thật này, đừng tin những gì tôi vừa trình bày bởi vì chúng là
lời nói từ một
lạt ma. Hãy
kinh nghiệm và hãy nhìn những kết quả bằng sự
kiểm soát tâm
của quý vị, ngày cũng như đêm. Nếu
chúng ta thực hành một cách
thành thật,
chúng ta sẽ
kinh nghiệm được kết quả trong một
thời gian rất ngắn, vậy hãy bắt đầu ngay bây giờ.
Nếu
chúng ta hiểu
Đạo pháp một cách
đúng đắn,
chúng ta sẽ không còn
lo lắng,
hối hả về
con đường giác ngộ cuối cùng nữa. Không thể có chán nản trên
con đường thực hành của
chúng ta, như nghĩ “ Tôi sẽ tự tử nếu tôi không
giác ngộ ngay bây giờ.” Đừng bao giờ hạ
quyết tâm như vậy, việc này chỉ đem đến những điều
bất lợi mà thôi. Hãy
tỉnh thức trên tất cả mọi hành động của
chúng ta và giữ lòng hăng say của
chúng ta càng
thanh tịnh càng tốt. Bằng cách này
chúng ta sẽ
đạt được mục đích một cách
tự nhiên.
Tôi rất vui vì được đóng góp một chút
hiểu biết vào biển
trí tuệ của quý vị. Tôi
hy vọng tất cả quý vị sẽ
thực hành Đạo Pháp trong đời sống hàng ngày
của quý vị. Điều này thật là
quý báu, thật là
giá trị.
Kính chào quý vị, cám ơn quý vị thật nhiều, thật nhiều.