Dẫn Nhập

13/11/201012:00 SA(Xem: 30979)
Dẫn Nhập
Dẫn Nhập
Thích Như Thạch
( Trần Ngọc Giao )

Nhập Bồ Tát Hạnh 
Đạo Luận

Nói một cách tổng quát , nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Đại thừa : Thế nào phát khởi Bồ Đề tâmtu tập Bồ Tát hạnh . Toàn bộ luận phân làm mười chương . 

Chương thứ nhất :
Những lợi lạc của tâm Bồ Đề ,
Khuyến khích chúng sinh phát tâm Bồ Đề chân thực .
Chương thứ hai :
Sám hối tội nghiệp ,
Kế đó tu tùy hỉ
Khuyến thỉnhhồi hướng phúc đức rộng lớn .
Chương thứ ba :
Gìn giữ tâm Bồ Đề ,
Phát khởi tâm Bồ Đề nguyện ;
Cùng thọ giới Bồ Tát .
Chương thứ tư :
Không buông lung ,
Tu tập hạnh không buông lung ;
Hầu tránh vi phạm Bồ Tát học xứ .
Chương thứ năm :
Giữ gìn chánh tri ,
Cho biết làm thế nào để giữ gìn Bồ Tát học xứ .
Chương thứ sáu :
Nhẫn nhục ,
Dạy tu nhẫn nhục trừ khử tâm chướng ngại
trong sự tu tập Bồ Tát hạnh .
Chương thứ bảy :
Tinh tấn ,
Vì muốn được tăng trưởng Bồ Tát hạnh ,
Phải tinh cần tu tập .
Chương thứ tám :
Thiền định ,
Trước tiên tu tĩnh lự để đối trị hôn trầm , tán loạn
( Đặc biệt quở trách sự tham dục ) .
Sau đó tiến thêm một bước tu tập pháp môn tự tha hoán
( Trao đổi mình và người ) ,
Để tăng trưởng tâm Bồ Đề thế tục .
Chương thứ chín :
Trí Huệ ,
Vì muốn thông đạt thực tướng của chư pháp ,
Dẫn đến tâm Bồ Đề thắng nghĩa .
Hầu có thể đoạn trừ phiền não ,
Nên phải có trí huệ .
Chương thứ mười :
Hồi hướng ,
Đem tất cả công đức của nghiệp lành ;
Hồi hướng đến tất cả chúng sinh .
Phần trên là đại ý nội dung của bộ luận này .
Nếu qui nạp lại , có thể chia làm bốn phần :

Phần 1 :

Ba chương đầu là tông chỉ chủ yếu , đối với chúng sinh chưa phát tâm . Dẫn phát thế tục tâm nguyện Bồ Đề và tâm hạnh Bồ Đề .

Phần 2 :

Ba chương Không buông lung , Giữ gìn chánh tri , Nhẫn nhục . Chỉ dẫn , khuyến khích thế nào giữ gìn tâm Bồ Đề . cùng nghiêm trì giới luật Bồ Tát . Không để ngoại duyên làm ô nhiễm , thoái thất .

Phần 3 : 

Ba chương Tinh tiến , Thiền định , Trí tuệ . Một mặt giúp hành giả tăng tiến tâm Bồ Đề thế tục , một mặt đem hành giả đến sự phát sinh tâm Bồ Đề thắng nghĩa , thuần tịnh không nhiễm . Cùng y vào đây thực hành xuất thế gian Ba la mật , tăng trưởng phúc tuệ tư lương , tăng tiến cho đến lúc thành Phật .

Phần 4 :

Cuối cùng là chương Hồi hướng . Hồi hướng phát nguyện , đây cũng là một phương cách tăng trưởng vô tận phúc đức .

Nếu từ khía cạnh khác , theo quan điểm chính ngài Tịch Thiên trong quyển Học Xứ Tập Yếu, có thể giải thích như sau :

1
Tông chỉ chủ yếu ba chương đầu : Muốn dẫn phát một loại ý nguyện tối thù thắng . Nguyện đem thân thể , tài sản , thiện căn của mình . Hoàn toàn bố thí cho tất cả chúng sinh . Hơn nữa , bắt đầu chân thành tu tập hạnh Bồ Tát .
2
Ba chương Không buông lung , v . v . . . Chủ yếu muốn nói đến quá trình tu học . Làm thế nào để giữ gìn thân thể , tài sản , thiện căn để thuận tiện cho việc lợi ích chúng sinh .
3
Bốn chương cuối : Muốn chỉ đạo hành giả , sau khi giữ gìn thân thể, tài sản v . v . . . Làm thế nào tiến thêm một bước trong công việc tịnh hóa cùng tăng trưởng .

Nói một cách tổng quát , nội dung chủ yếu của bộ Nhập Bồ Tát Hạnh dùng để chỉ dẫn hành giả trong quá trình tu học hạnh Bồ Tát . Làm sao tu tập lục độ vạn hạn h, để thuận tiện dùng những phương thức bố thí , giữ gìn , tịnh hóa cùng tăng trưởng thân thể , tài sản , thiện căn v . V . . . Trong việc lợi tế quần sinh

Tịch Thiên trong quyển Học Xứ Tập Yếu . Chương Học tập bố thí nói : “ Đem thân thể , tài vật cùng thiện căn hoàn toàn bố thí cho tất cả hữu tình . Hơn nữa , phải giữ gìn , tịnh hoá cùng tăng trưởng chúng . Đây là yếu lĩnh của Bồ Tát học xứ ” . 

Tại cuối chương , Tịch Thiên dẫn kinh Bảo Vân để kết luận như sau : “ Thí xả là Bồ Đề của Bồ Tát ” . Nhập Bồ Tát Hạnh , chương thứ ba, bài kệ 10 - 11 cũng nói : 

“ Vì muốn thành tựu sự lợi ích của tất cả hữu tình .
Con bố thí thân mệnh mình không chút luyến tiếc .
Bố thí tất cả tài sản cùng thiện căn phúc đức .
Nếu có thể từ đáy lòng thí xả tất cả thân thể , tài sản , thiện căn .
Con sẽ vượt qua tất cả khổ, thành tựu Niết Bàn ” .

Do đây , có thể thấy được Tịch Thiên rất chú trọng đến sự tu tập bố thí . Từ cái nhìn của ngài , chữ Xả là tổng trì trong sự hành trì của cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa . Hành giả Tiểu thừa , do vì xả ly tất cả sự tham luyến đối với tam giới mà chứng được sự diệu lạc của Niết Bàn

Hành giả Đại thừa , tiến thêm một bước. Xả bỏ luôn sự diệu lạc của Niết Bàn , đạt tới cái gọi là : “ Trí không trụ ba cõi . Bi không trụ Niết Bàn ” . Chính là cảnh giới vô trụ của vô thượng Bồ Đề .

Chính Tịch Thiên nghĩ rằng : 

Tu tập bố thítrọng yếu nhất trong quá trình tu học Bồ Tát hạnh . Vì thế ngài không lập riêng chương Bố thí , mà đem quan niệm “ Thí xả tất cả ” vào trong tất cả các chương . Nhân đây , trong mỗi chương của quyển Nhập Bồ Tát Hạnh . Chúng ta có thể thấy rõ ý nghĩa của sự “ Thí xả tất cả ” này .

Thuật Ngữ 

Tara : Là một hóa thân nữ của Quán Thế Âm . Trong Phật giáo Ấn độvà Tây tạng nói đến rất nhiều . Quán Thế Âm, khi nhìn thấy chúng sinh đau khổ , ngài nhỏ lệ từ bi và giọt lệ này rơi xuống hóa thành Tara .
Văn Thù Bồ tát :Thường hiện thân , tay phải cầm kiềm trí huệ , tay trái cầm kinh Bát Nhã .
Mahasiddha : Người tu hành đắc đạothần thông.
Simhasana : Tòa ngồi chỉ dành cho những hàng Tỳ kheo Trưởng lão Pháp sư.

Hai tập Siksàsamuccaya ( Giáo Tập Yếu ) ;
Và Bodhicaryàvatàra ( Bồ TátHạnh ) :

Chắc chắn tác giả là ngài Sàntideva , riêng tập Sùtrasamuccaya đa số các học giả đều công nhận tác giả là ngài Long Thọ ( Nàgàrjuna ) . 

Tiểu sử này tôi rút từ 2 tài liệu History of Buddhism in India của Taranatha và La Légende de Sàntideva trong Indo-Iranian Journal Volume XVI . Trong tạng Luận của Tây tạng có nói đến bộ Mdo.sde.sna.tshogs.kyi.mdo.btus.pa ; được học giả Marcelle Lalou chuyển sang lại Sanskrit là Visvasùtrasamuccaya . Tập này ngày nay đã bị mất tích

Theo học giả J.W.De Jong có lẽ 2 tập này tương tự nhau nên các sử gia Tây tạngluận gia Ấn độ cùng cho tác giả của Kinh Tập Yếu ( Sùtrasamuccaya) là ngài Sàntideva . Kinh Tập Yếu đã được Hòa thượng Linh Sơn thượng Huyền hạ Vi dịch từ Hán văn ra Việt văn năm 1985 với tựa đề là Yếu Nghĩa Phật Pháp .

Lời Giới Thiệu

Bộ luận Nhập Bồ Tát Hạnh là một kiệt tác của Phật giáo Ấn Độ . Không những trên phương diện tư tưởng , tu chứng mà còn cả trên phương diện văn học . Nó đã đem lại niềm vui cho biết bao nhiêu thế hệ

Tương truyền ở Ấn Độ đã có hơn một trăm bộ chú thích cho bộ luận này và ở Tây Tạng nó đã trở thành một trong sáu bộ luận “ gối đầu ” cho những kẻ học Phật . Bộ luận này được truyền đến Trung Hoa vào đời Triệu Tống . 

Lúc ấy Phật giáo vừa trải qua cơn pháp nạn khốc liệt thời Đường Vũ Tông . Kế tiếp lại bị nhiều nạn đao binh phá hoại trong thời Ngũ đại . Cho nên sinh khí của Phật giáo lúc bấy giờ gần như bị kiệt quệ , ngoài Thiền TôngTịnh Độ Tông , các tông phái khác gần như tuyệt tích . 

Hơn nữa , vào thời đó . Các vị tăng sĩ ít “ hứng thú ” trong việc khảo cứu các tác phẩm mới được phiên dịch từ Ấn Độ . Vì lý do này , hầu hết các dịch phẩm mới dưới thời Triệu Tống ít được các nhà học Phật để ý đến và “ Nạn nhân chính ” trong đó là bộ Nhập Bồ Tát Hạnh

Điều tệ hại nữa là bản dịch của ngài Thiên Tức Tai , một cao tăng Ấn Độ . Không những thiếu sót nhiều chỗ , văn chương lại tối tăm khó hiểu . Thành thử số phận nó lại càng hẩm hiu . Kết quả là bộ luận này đã bị bỏ quên trong bộ Đại Tạng Kinh của Trung Hoa hơn một ngàn năm mà không ai biết đến . 

Trái lại , ở Tây Tạng lưu truyền rất thịnh hànhgần đây Âu Tây phong trào nghiên cứu bộ luận này càng lúc càng trở nên rầm rộ . Theo như sự hiểu biết của tôi , đã có hơn mười bộ : phiên dịch , chú giải , luận án nghiên cứu bằng tiếng Anh đã được xuất bản . Chưa kể đến các ngôn ngữ khác như Nhật, Đức , Pháp , Ý . . .

Điều này chứng tỏ nó phải có một giá trị nào đó mới có thể thu hút được sự chú ý của nhiều người như thế . Sự đặc sắc của bộ luận này có thể được nhìn từ hai phương diện :

1- Phương diện tư tưởng :

Ngài Tịch Thiên trên phương diện trước tác để lại vỏn vẹn hai ( có chỗ nói ba ) . Tác phẩm chính tức bộ luận này cùng bộ Học Xứ Tập Yếu . Tuy số lượng ít oi như thế . Nhưng chỉ cần nhìn vào , chúng ta có thể quả quyết rằng không những ngài là một học giả uyên bác mà còn là một nhà tư tưởng cao siêu . 

Trong chiếc áo nhà tu , Tịch Thiên biểu hiện cho chúng ta biết ; ngài không những là bậc trí tuệ siêu phàm mà còn là một kẻ rạt rào tình cảm . Lý trí và tình cảm không bắt buộc phải bị tách đôi như các nhà triết học Tây phương quan niệm mà lý có thể hợp nhất với tình . 

lý do này , Phật giáo Đại thừa chú trọng nhiều đến phương diện tình cảm , Vì nếu tình cảm được đặt đúng vị trí , sẽ trở thành một động lực căn nguyên của tâm Đại Từ Bi . Muốn thành Phật , tất nhiên phải có đủ cả hai đức tính từ bitrí tuệ . Thiếu một không thể được ! .

Phát Bồ Đề Tâm ! . Tu Bồ Tát Hạnh ! . Nghe qua có vẻ đơn giản . Nhưng chắc chắn không phải là công việc của một kẻ tầm thường . Đây là khung trời của những kẻ mà ý chí cao vượt đến những dãy ngân hà xa tít .

Phương tiện của những kẻ mà tâm nguyện kiên cường vững chãi hơn trăm ngàn thành lũy . Của những kẻ mà trăm ngàn lưỡi đao bén nhọn không làm nao núng và trăm ngàn sự vui cõi trời không làm họ xao động ! . 

Ai là kẻ có thể nắm giữ được gia nghiệp của Đức Như Lai ? . Ai là kẻ có thể làm xán lạn cho gia tộc Phật ? . Những kẻ chí nguyện vững chắc hơn trăm ngàn kim cương . Chỉ có thể là những kẻ vì chúng sinh chảy dòng lệ nhạt nhòa như người mẹ hiền nức nỡ trước nỗi khổ của đứa con mình . Từ những dòng tư tưởng trong bộ luận này chúng ta có thể thấy một cách mông lung tầm kích vĩ đại của ngài Tịch Thiên ! .

2- Phương diện thực tiễn tu hành :

Điều trọng đại nhất cho hành giả bắt đầu dấn bước trên con đường Bồ Tátphát tâm Bồ Đề . Phát tâm Bồ Đề là sự chuyển mình của hành giả từ thân phận tầm thường của một phàm phu vào đến tầm kích của vũ trụ

Đây là sự biểu hiện của một nhân cách vĩ đại không có một hệ thống triết học hay tôn giáo nào có thể tự hào . Khi hành giả lột bỏ được bộ quần áo tâm linh cũ nát để thay vào đó bằng bộ quần áo lộng lẫy - Bồ Đề Tâm . Trên phương diện người ” , hành giả trở nên cao quí hơn tất cả muôn loài trong thế giới :

Kẻ tù ngục sinh tử ,
Nếu phát Bồ Đề tâm .
Tức khắc tên Phật tử ,
Trời người nên cung kính ! .

Trong kinh Hoa Nghiêm , Bồ tát Di Lặc đã mô tả cho Thiện Tài một cách tỉ mỉ về hành trạng của tâm Bồ Đề như sau :

Bồ đề tâm như hạt giống ,
Vì từ đó sinh ra tất cả Phật pháp .
Bồ đề tâm như ruộng tốt ,
Vì nơi đây sản xuất ;
Các thứ thuần tịnh cho thế gian .

Bồ đề tâm như cõi đất ,
gìn giữ tất cả thế gian .
Bồ đề tâm như dòng nước ,
Vì rửa sạch tất cả cáu bẩn của tham dục .

Bồ đề tâm như ngọn gió ,
Vì thổi khắp thế gian ;
Không gì làm ngăn ngại .
Bồ đề tâm như ngọn lửa ,
Vì đốt cháy tất cả củi hý luận . . .

Bồ đề tâm như cha lành ,
bảo hộ hết thảy các Bồ tát .
Bồ đề tâm như mẹ hiền ,
dưỡng dục hết thảy Bồ tát .

Bồ đề tâm như nhũ mẫu ,
Vì chăm sóc hết thảy Bồ tát . . .
Bồ đề tâm như người tỉnh thức ,
đẩy lui tất cả các xấu xa .

Bồ đề tâm như lưới trời Đế thích ,
Vì khuất phục những quỷ phiền não A tu la .
Bồ đề tâm như lửa trời Đế thích ,
Vì đốt cháy tất cả tập quán ;
Tham dụcphiền não bất tịnh .
Bồ đề tâm như tháp thờ xá lợi ,
Vì hết thảy thế gian ;
Loài ngườiA tu la đồng kính ngưỡng .

Rồi Bồ tát Di Lặc kết luận :

“ Này thiện nam tử , Bồ đề tâm thành tựu vô lượng công đức tuyệt diệu như vậy . Tóm lại Bồ đề tâm cũng đồng như Phật pháp và các công đức của quả Phật . Tại sao thế ? . Bởi vì , chính từ Bồ đề tâm mà hạnh Bồ tát bắt đầu khởi hành và cũng chính từ đó hết thảy Như Lai trong quá khứ , hiện tạivị lai xuất hiệnthế gian

Vì vậy , này thiện nam tử . Một khi ước vọng giác ngộ tối thượng được phát khởi , vô số công đức cũng được phát sinh và cả đến ý thức ẩn áo nhất của Nhất thiết trí cũng phát sinh từ đó ” . 

( Trích từ Thiền Luận của Suzuki , bản dịch Tuệ Sỹ ) .

Thế nhưng , trong quá trình trui luyện chí nguyện Bồ tát , các công hạnh tuy đa dạng và nhiều đến vô lượng . Song mục đích không ngoài cốt yếu là buông bỏ tự ngã ” . Suzuki trong quyển “ Khai Ngộ Đệ Nhất ” có nói : “ Lúc buông bỏ tự ngã cũng chính là lúc tha lực hiển hiện ” . 

Khi hành giả tìm đến bờ vực của tâm linh trong sự thành khẩn tha thiết đến cực độ , ngay phút giây bàng hoàng đó , hành giả có thể tạm thời quên mất tự ngã . Và chính trong giây phút huyền diệu này . Lạ lùng thay , tha lực hiển hiện như một luồng ánh sáng chan hòa ! . 

Trong giây phút tuyệt vời này không còn sự phân biệt tự và tha . Mình và đối tượng đã trở thành một ! . Và ngay chính trong sự tha thiết cùng độ đó ; lại chính là giây phút hành giả thể nghiệm được chân lý , và đây chính là thể ngộ về Tính Không ! .

Dịch bản tiếng Việt bộ Nhập Bồ Tát Hạnh là một công trình kiệt xuất của Ni sư Trí Hải . Ni sư không những dịch thành văn xuôi mà lại còn dịch thành văn vần . Cả hai đều có thể gọi là những dịch phẩm quan yếu cho Phật giáo Việt Nam . Đây là một sự đóng góp lớn lao , không những cho nền văn hóa Phật giáo Việt Nam nói riêng mà còn cho cả nền văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung .

Tôi may mắn được nghiên cứu qua tác phẩm vĩ đại của ngài Tịch Thiên và đã phiên dịch bộ luận này theo thể tài kệ tụng bốn câu năm chữ . Đồng thời cũng viết xong một quyển chú giải . Song nhận thấy chúng chỉ là những viên sỏi vụn không có chút giá trị nào . Nay có nhân duyên gặp được “ trân châu bảo ngọc ” nên không ngần ngại , vội vàng vứt đi những viên sỏi vụn “ sần sùi ” . 

Chắp tay kính cẩn dâng hai dịch phẩm quý giá đến quý vị độc giả . Đồng thời phát tâm “ hợp đính ” để tiện cho người đọc . Nếu không thể lãnh hội phần văn vần , có thể tham khảo thêm phần văn xuôi để lãnh hội thêm ý chỉ uyên thâm của bộ luận .

Hai phần văn xuôivăn vần có được là nhờ sư huynh tôi , thầy Thích Pháp Quang trụ trì chùa Tịnh Luật ở Texas , liên lạc với Ni sư Trí HảiViệt Nam gửi qua cho thầy bằng “ email ” . 

Khi nhận được hai phần từ thầy Pháp Quang , tôi cảm thấy vui mừng như “ kẻ khát được cam lộ , kẻ nghèo gặp ngọc quý ” . Bèn không quản tài học thô thiển viết lên vài hàng giới thiệu hầu kết duyên với tất cả những hành giả “ Đã , đang , hoặc sẽ phát tâm học tập Bồ tát hạnh ” .

Cũng nhân đây “ phát lộ ” với tất cả đại chúng rằng mình được “ diễm phúc ” tắm gội trong hào quang của Tam Bảo cùng ánh sáng chói ngời của con người vĩ đại Tịch Thiên ! .

Nguyện đem công đức truyền bá “ áo nghĩa ” Đại thừa hồi hướng đến thân mẫu , Sư cô Thích Nữ Chúc Phước , đàn na tín chủ . Cùng tất cả chúng sinh

Nguyện tất cả những ai thấy nghe tin hoặc không tin , hiểu hay không hiểu , khen , chê , kính hoặc hủy . Đời đời đều trở thành Pháp quyến của nhau , dìu dắt nâng đở cho đến ngày tất cả đều thành Chánh Giác

Xin tất cả hãy cùng nhau phát lên lời thệ nguyện vĩ đại của Tịch Thiên :

Cho đến tận hư không ,
Nơi nào có chúng sinh .
Nguyện sẽ đến nơi đó ,
Diệt khổ đau cho họ ! .

Mùa Phật Đản 2547, tháng 5-2003
Tường Quang Tự,
Tỳ kheo Thích Pháp Chánh cẩn thức

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/09/2012(Xem: 62360)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.