Tiểu Sử Dagmola Jamyang Sakya (Sakya Dagmo Kusho)

29/12/201012:00 SA(Xem: 24009)
Tiểu Sử Dagmola Jamyang Sakya (Sakya Dagmo Kusho)

TIỂU SỬ DAGMOLA JAMYANG SAKYA

(SAKYA DAGMO KUSHO)

Thanh Liên biên dịch

 Nữ Đạo sư Dagmola Jamyang Sakya (Sakya Dagmo Kusho) - thường đượcblank
 các bạn hữu của bà gọi một cách trìu mến là Dagmola - sinh ở tỉnh Kham, miền
 Đông Tây Tạng. Những dấu hiệu tốt lành trước và trong khi Dagmola ra đời cho
 thấy đứa trẻ là một Lạt magia đình Dagmola đã bối rối khi đứa trẻ vừa chào
 đời là một bé gái. Là cháu của Deshung Rinpoche III (1906-1987), một trong
 những Đạo sư chứng ngộ cao cấp nhất của dòng Sakya trong thế kỷ 20,
 Dagmola có may mắn khác thường là được hấp thụ một nền giáo dục Phật Giáo
 tốt đẹp. Ngay từ thời thơ ấu Dagmola đã bắt đầu việc tu hành. Khi mới lên tám,
 bà đã nhận lãnh các giáo lý của cả bốn trường phái Phật Giáo Tây Tạng và hiển
 lộ nhiều khả năng đặc biệt. Bà có thể nhìn thấy và liên lạc với những địa thần
 nổi danh nhờ những giấc mơ thường có tính chất tiên tri và sâu sắc.

 Năm 15 tuổi, Dagmola kết hôn với một thanh niên của gia đình Sakya Khon, một
 trong những dòng truyền thừa tâm linh vương giả của Tây Tạng, trở thành
 Dagmo Kushog Sakya (Bà Mẹ Thiêng liêng Tôn kính), vợ của Đức Jigdal
 Dagchen Rinpoche, một trong những Lạt ma lãnh đạo của Dòng Sakya của
 Phật Giáo Tây Tạng, một truyền thống xuất phát từ thế kỷ 12 và vẫn còn tồn tại
 tới ngày nay. Kết quả của cuộc hôn nhân này là bà đảm đương gánh nặng khi
 gia nhập vào hàng ngũ của tầng lớp quý tộc Tây Tạngđại diện cho truyền
 thống cổ xưa của dòng truyền thừa tâm linh này. Bà đã nhận lãnh những giáo lý
 rộng lớn và quán đảnh từ nhiều Lạt ma tôn kínhkiệt xuất kể cả Đức Dilgo
 Khyentse Rinpoche và Kalu Rinpoche. Bà đã làm thuần thục dòng tâm thức của
 mình bằng những khóa nhập thấtthực hành.

 Năm 1959, Dagmola cùng chồng là Đức Jigdal Dagchen Sakya và gia đình đào
 thoát khỏi Tây Tạng. Trải qua những gian khổ và sợ hãi cùng cực trong chuyến
 đi, gia đìnhthường xuyên nương tựa vào việc cầu xin sự an toàn và tin vào
 những tiên tri cùng những điềm triệu dẫn dắt mọi người tới sự tự do. Trên
 đường đi, mẹ và người dì thân yêu của bà bị bắt giữ và đã chết trong nhà tù.
 Ngay cả trong những hoàn cảnh thảm khốc như thế gia đình bà đã biểu lộ sự
 kiên cường và can đảm thường có trong những người tị nạn Tây Tạng. Và như
 vậy chính định mệnh đã đưa người phụ nữ có nụ cười thanh thản và mái tóc đen
 nhánh này tới Hoa Kỳ để giảng dạy Phật Giáo Tây Tạng. Với niềm tin bất biến
 nơi Đức Phật và Đức Tara, tương lai không thể biết trước đã mang lại cơ hội cho
 Dagmola và gia đình bà. Năm 1961, dưới sự bảo trợ của Quỹ tài trợ Rockefeller,
 bà và gia đình rời trại tị nạn ở Ấn Độ tới Seattle để giảng dạy lịch sửvăn hóa
 Tây Tạng. Khi thời hạn ba năm trợ cấp đã hết, những người quý tộc thuộc giai
 cấp lãnh đạo của dòng Sakya phải lăn mình vào đời để có thể tồn tại. Chồng bà
 tìm được một công việc bán-thời gian tại một viện bảo tàng của trường đại học,
 bà bắt đầu làm việc tại một ngân hàng máu, và năm cậu con trai đi cắt cỏ và rửa
 xe.

 Năm 1974, Đức Jigdal Dagchen Sakya và Dagmola thành lập Tu viện Sakya ở
 Seattle. Không lâu sau đó, nhiều hành giả Hoa Kỳ tìm đến không chỉ khẩn cầu
 giáo lý và những sự ban phước mà còn xin những chỉ dẫn về các vấn đề hôn
 nhân và những chuyện khác - là những vấn đề chẳng bao giờ họ hỏi các Lạt ma
 của họ. “Tôi không biết – bà trả lời cho họ!” các Lạt ma nói với bà bằng tiếng Tây
 Tạng, và bà bắt đầu đóng một vai trò không chính thức như một cố vấn tâm linh.
 Bà tiếp tục kháng cự lại những lời khẩn nài bà chính thức giảng dạy mãi cho tới
 năm 1985. Khi ấy, khi một nhóm nữ hành giả thỉnh cầu chú của bà (Deshung
 Rinpoche III) ở Ấn Độ cho phép bà giảng dạy. Vị Thầy này đã đồng ý
 Dagmola quyết định rằng bà không thể từ chối được nữa. Bà nói: “Tôi nhận ra
 rằng Đức Tara muốn tôi làm điều này, và có vẻ như giáo lý mang lại cho mọi
 người sự cứu giúp, chữa lành và đáp ứng vô cùng to lớn theo ước nguyện của
 họ.”

 Như thế, bà đã được một trong những Đạo sư Phật Giáo Tây Tạng lỗi lạc nhất
 của Dòng Sakya và những Lạt ma Tây Tạng tôn quý khác cho phép đảm đương
 vai trò của Lạt ma (Đạo sư).

 Teresa Watanabe thuật lại như sau trong tờ Los Angeles Times, thứ Bảy 27
 tháng Năm 2000: “Ngồi giữa một tranh thanka Tara Tây Tạng và một chiếc bàn
 chất đầy trái cây cúng dường, bà Sakya, 66 tuổi, nói: ‘Đức Tara như bà mẹ hiền
 chăm sóc tất cả chúng sinh. Khi bạn kêu cầu, ngài sẽ che chở bạn.’ (…) Về sau,
 trong một cuộc phỏng vấn, Sakya giải thích rằng Đức Tara tượng trưng cho
 những phẩm tính tương tự như lòng nhân từ và bi mẫn của Kuan Yin (Đức Quán
 Thế Âm) trong Phật Giáo Trung Hoa, Kannon (Đức Quan Âm) của Phật Giáo
 Nhật Bản và ngay cả Đức Mẹ Đồng Trinh của Thiên Chúa Giáo. Có lần Đức Đạt
 Lai Lạt Ma đã nói rằng Mẹ Teresa quá cố cũng là một hiện thân của Đức Tara.”
 Từ khi tới Hoa Kỳ, trong nhiều năm, Dagmola và chồng đã thiết lập một tu viện
 và trung tâm văn hóa Tây Tạng hoạt động hữu hiệu ở Seattle, Washington.
 Trong khi chờ đợi, với sự sâu thẳm của nội tâm, Dagmola đã lặng lẽ hiến mình
 cho việc thực hành tâm linh dưới sự dẫn dắt của người chú tôn kính của bà là
 Deshung Rinpoche quá cố. Dagmola duyên dáng, nhân từ, sâu sắc, nói tiếng
 Anh lưu loát và rất dễ gần. Bà đã hết lòng nuôi dạy năm người con trai và giúp
 đỡ chồng trong nhiều Phật sự.

 Hạnh nguyện của Dagmola

 Dagmola ban quán đảnh và giảng dạy đều đặn tại Tu viện Sakya. Bà đã sáng lập
 Trung tâm Mother Tara Sakya tại Pasadena, California và đã thiết lập các trung
 tâm tại Kona, Hawaii, Flagstaff, Arizona, và Mexico City.
 Dagmola là một mẫu mực đầy cảm hứng của một cuộc đời thấm đẫm Giáo Pháp
 – bà đã hiến mình cho việc nghiên cứu, thực hành, và giảng dạy Phật Pháp với
 kinh nghiệm sâu rộng về Đức Tara. Dagmola là đồng-tác giả quyển Princess in
 the Land of Snows (Công chúa Xứ Tuyết), một quyển sách làm say đắm lòng
 người, viết về đời bà ở Tây Tạng và cuộc đào thoát của gia đình bà khi vượt qua
 Rặng Himalaya vào năm 1959.

 Đây là câu chuyện của bà:

 «Tôi sinh ra ở Tây Tạng. Ngay từ thời thơ ấu tôi đã được chú tôi là ngài
 Deshung Rinpoche dẫn dắt vào Phật Giáo Tây Tạng. Tôi đã sống nhiều năm ở
 ba quốc gia khác nhau và đã chứng kiến nhiều cuộc đổi dời kể cả việc đất nước

 tôi bị mất vào tay Trung quốc, chuyến du hành của con người lên mặt trăng, sự
 sụp đổ của Liên Bang Sô viết vĩ đại và vô số những sự kiện khác mà bề ngoài
 dường như không thể xảy ra. Tuy nhiên, một điều luôn luôn bất biết trong đời tôi
 là niềm tin của tôi nơi Phật Pháp.

 Có nhiều vị Phật, Bồ Tát và Bổn Tôn trong Phật Giáo Tây Tạng. Bổn Tôn riêng
 của tôi là Đức Tara, là vị mà tôi đã thực hành trong nhiều năm. Đức Tara là một
 nữ Bồ Tát hay một đấng giác ngộ. Tôi đã thọ nhận những nhập môn, giáo lý
 những khẩu truyền về Đức Tara từ nhiều Đạo sư uyên báccuối cùng do sự
 khẩn nài của các vị Thầy và của chồng tôi, Đức Dagchen Rinpoche, tôi đã bắt
 đầu giảng dạy. Là một trong số ít những nữ Đạo sư Phật Giáo Tây Tạng, tôi cảm
 thấy mình thật may mắn được đứng ở một vị trí làm lợi lạc cho người khác ở
 khắp nơi trên thế giới. Đồng thời, đó là một kinh nghiệm khiêm tốn về việc tôi
 thường được nhắc đến như một hiện thân của Đức Tara. Là những Phật tử, một
 trong những điều trước tiên chúng ta cần phải học là tánh khiêm tốn. Bởi cái
 tôi hay bản ngã là gốc rễ của mọi đau khổ trong thế gian nên điều quan trọng là
 phải hạn chế cái tôi đó. Tuy nhiên, bởi các đệ tử của tôi cứ khăng khăng ám chỉ
 tôi là một hiện thân của Tara nên tôi phải gánh thêm trách nhiệm là đóng vai trò
 của Đức Tara trong mọi phẩm tính tốt lành của ngài.

 Lúc ban đầu, tôi hơi do dự trong việc giảng dạy cho những đệ tử có nền giáo dục
 cao cấp, nhưng không lâu sau đó tôi đã nhận ra rằng tôi có thể thực sự chìa tay
 ra cho mọi người và chạm vào cuộc đời của họ để làm lợi lạc cho họ theo cách
 thế mà không có nền giáo dục hay của cải nào có thể mang lại được. Điều có
 thể thực sự đúc kết được là niềm tin. Tôi đã nhìn thấy những điều thần diêu xảy
 ra trong đời tôi, và rõ ràngniềm tin tự nó đã là một điều nhiệm màu. Nhiều đệ
 tử của tôi là những bác sĩ, khi thì là những người thực hành y khoa, khi khác lại
 là những thầy thuốc. Họ tới gặp tôi, nhận các nhập môn, giáo lýthực hành
 Tara, và tôi thấy niềm tin của họ phản chiếu trong công việc và những mối quan
 hệ của họ với các bệnh nhân. Với sự hiểu biết về những nguyên lý căn bản của
 Phật Pháp và với một cam kết kiên quyết thực hành Tara, tôi đã cảm nhận được
 lòng bi mẫn của những bác sĩ này đối với bệnh nhân của họ. Tôi đã nhìn thấy sự
 nhẫn nại của những nhà trị liệu này trong khi chữa trị cho bệnh nhân, và tôi cảm
 nhận được lòng bi mẫn của những thầy thuốc này khi họ sử dụng tài năng đặc
 biệt của họ để chữa bệnh. Tôi đã gặp các phụ nữ có những vấn đề trong việc
 mang thai và sau khi thực hành Tara họ may mắn có được một đứa con. Có
 những người bị rối loạn tinh thần đã cảm thấy thư thản hơn nhờ tập trung trì tụng
 các thần chú tán thán Đức Tara. Những điều huyền nhiệm như thế không xảy ra
 mỗi ngày trong đời tôi, nhưng khi xảy tới chúng mang lại cho tôi niềm vui và sự
 mãn nguyện.

 Là một nữ Đạo sư, tôi cảm thấy các phụ nữ có thể gắn bó trực tiếp và thẳng thắn
 với tôi hơn nữa và nhờ đó đã giúp cho tôi củng cố nhiều tình bạn với một vài phụ
 nữ kỳ diệu, tốt lành và tràn đầy bi mẫn, và tới lượt họ, họ đã hộ trì để quảng bá
 thông điệp của Đức Tara. Là những chúng sinh, tất cả chúng ta đều tùy thuộc
 vào những người khác. Giống như các đệ tử của tôi nương tựa nơi tôi để nhận
 được sự hướng dẫn và các giải pháp, tôi phụ thuộc vào họ để thực hành lòng
 kiên nhẫn và bi mẫn. Tôi học được rất nhiều từ cuộc đời và những kinh nghiệm
 của họ, và tôi dành dụm một mẩu nhỏ của những điều ấy trong trái tim tôi để nhớ
 tới họ và cầu nguyện cho hạnh phúc của họ.

 Tôi là mẹ của năm cậu con trai và có bảy đứa cháu, và vì thế tôi tiếp tục học tập
 những điều mới mẻ vào mỗi bước ngoặt của đời tôi. Việc thực hành Phật Pháp
 và đặc biệtthực hành Tara đã làm cuộc đời tôi thêm phong phú, và ước
 nguyện thiết tha nhất của tôi là muốn được chia sẻ cảm xúc quý báu này với tất
 cả những ai đến với tôi.. »

 Trung tâm Mother Tara Sakya “Tara Ling”

 Sau 33 năm làm việc tại ngân hàng máu ở Seattle, Dagmola mơ tới việc thành
 lập một Trung tâm Tara tại Los Angeles. Một nhóm người ủng hộ đã bắt đầu nỗ
 lực thiết lập một địa điểm để bà có thể giảng dạy, hướng dẫn việc thực hành
 tổ chức các khóa nhập thất về Đức Tara. Trong số những người ủng hộ này có
 cả trưởng nam của bà là David Minzu Khon - người có thể trở thành nhà lãnh
 đạo của Dòng Sakya, giờ đây đang sống ở Beverly Hills. Ông đã tìm ra con
 đường để giúp đỡ Tây Tạng không phải bằng cách trùm lên đầu chiếc mũ Lạt
 Ma mà như một giám đốc ngân hàng và hiện nay là nhà tài trợ cho cuộn phim có
 ngân sách khổng lồ “Bảy Năm ở Tây Tạng,” trong số những đề án khác.
 Trung tâm Mother Tara Sakya do Dagmo Kusho Sakya thành lập vào ngày 30
 tháng Sáu năm 2000 với những điều tốt lành và sự ban phước của Đức Đạt Lai
 Lạt Ma và chồng bà - Đức Jigdal Dagchen Sakya (Dagchen Rinpoche).

 Dagchen Rinpoche đã đặt tên cho trung tâm là “Mother Tara Sakya Center” và
 Đức Đạt Lai Lạt Ma ban tặng danh hiệu là “Tara Ling”. Dagmola đã mang giáo
 lý và sự ban phước đến cho nhiều đệ tử của bà khắp mọi nơi trên thế giới.
 Trung tâm Mother Tara Sakya là một trung tâm Phật Giáo Tây Tạng được tổ
 chức trên căn bản tự nguyện, không bộ phái, phi lợi nhuận, có hai địa điểm tại
 Pasadena và Los Angeles thuộc tiểu bang California. Đức Sakya Trizin đã ban
 phước cho trung tâm và giảng dạy giáo lý. Dagchen Rinpoche cũng ban phước,
 ban các quán đảnh và một giáo lý Ngon-dro.

 Sứ mệnh của “Tara Ling” là góp phần vào việc bảo tồn và giảng dạy văn hóa
 triết học Tây Tạng cho tất cả những ai quan tâm.

 Thông tin liên lạc

 Mother Tara Sakya Center "Tara-Ling"
 65 N. Raymond Avenue, # B001, Pasadena, CA 91103
 Jamyang (323) 254-7805
 Sue Hall (310) 985-0181
 E-mail: info@taraling.org
 Website: http://www.taraling.org
 Yujean Kang, President (714) 662-1098
 Steve Gomberg-Sunday Chenrezi Practice Leading Monk

 Thanh Liên biên dịch từ các bài:
 - “Lamas”
 http://sakya.org/Lamas.htm
 - Mother Tara Sskya Center "Tara-Ling"
 http://www.sakya.org/Other_Sakya_Centers.htm
 - “Jamyang Sakya : General Reviews”
 http://www.devaworld.com/index.cfm/fuseaction/review.general/review_id/214
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
11/09/2012(Xem: 62626)
Hiện tượng của thầy Thích Pháp Hòa là hợp với logic của cuộc sống bất cứ thời nào. Bên cạnh ma quỷ luôn có thánh thần, bên cạnh ác tăng luôn có những cao tăng kềm chế. Nếu kẻ lợi dụng mảnh áo cà sa để hướng dẫn Phật tử vào chốn u minh nhằm bóc lột tiền tài, công sức của họ, bằng cúng dường bằng tà thuyết phải cúng Phật mới được siêu sinh thì thầy Pháp Hòa mở ra từng pháp thoại có khả năng giác ngộ người nghe thầy thuyết giảng. Thầy khẳng định những điều đơn giản nhưng hiếm người hiểu rõ, đó là: “Phật Giáo là một triết lý, một lối sống để tìm đến sự an lạc trong tâm hồn, không phải là một tôn giáo vì Phật không phải là đấng toàn năng để có thể ban phước lộc cho người này hay trừng phạt người kia.”
Hãy cẩn trọng với giọng nói, video và hình ảnh làm từ trí tuệ nhân tạo AI: một số người hoặc đùa giỡn, hoặc ác ý đã làm ra một số sản phẩm tạo hình giả mạo liên hệ tới các tu sĩ Phật giáo. Những chuyện này đã được nhiều báo Thái Lan và Cam Bốt loan tin. Trong khi chính phủ Thái Lan xem các hình ảnh giả mạo tu sĩ là bất kính, cần phải ngăn chận ngay từ mạng xã hội, nhiều nước khác, như tại Hoa Kỳ, chuyện này không được chính phủ can thiệp, vì xem như chỉ là chuyện đùa giỡn của một số người ưa giỡn. Bởi vì rất nhiều người trong chúng ta không phải là chuyên gia về trí tuệ nhân tạo để phân biệt hình giả và hình thật, nên thái độ phán đoán cần được giữ cho dè dặt, cẩn trọng.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.