SỰ QUÁN TƯỞNG
NƠI CHỐN NHƯ MỘT CÕI PHẬT
Trong bất kỳ
thực hành quán tưởng nào
chúng ta cần
nghĩ tưởng rằng mọi sự đã
toàn thiện từ
vô thủy, và điều ta
quán tưởng không là một sản phẩm của
trí năng mà là sự thực vốn có tự
ban sơ. Điều này có nghĩa là
chúng ta nhận thức sự
toàn thiện tự nhiên của môi trường là một
cõi Phật và
chúng sinh ở trong đó là các hiện thể linh thánh, các Dāka và Dākinī. Với lòng sùng mộ mãnh liệt,
chúng ta nhận thức vị Thầy của ta không phân cách với Guru Padmasambhava. Nếu
chúng ta duy trì lòng sùng mộ
thường xuyên, thì
chắc chắn là Guru Rinpoche sẽ luôn luôn kề cận ta, như cái bóng của ta. Để
nâng đỡ và làm
sống động lòng sùng mộ như thế,
chúng ta trì tụng các câu kệ của pháp Guru yoga này.
Câu kệ đầu tiên bắt đầu với “Emaho”, một
biểu lộ của sự
ngạc nhiên, và
tiếp tục với các từ : “Cõi Phật vô hạn tự
xuất hiện,
hiện diện tự nhiên,
hoàn toàn thanh tịnh…”
Cõi Phật này
ám chỉ Cõi
Cực Lạc của Guru Rinpoche, Núi Huy Hoàng Màu-Đồng-Đỏ, Sangdopalri, nơi các hiện thể
giải thoát tự nhiên khỏi các
cảm xúc độc hại, có khuynh hướng
tự nhiên thực hành Pháp, và là nơi người ta có thể
đối diện với Guru Rinpoche. Đây là nơi được gọi là một “Cõi Phật thuần tịnh”. Đối nghịch với cõi này,
chúng ta có chốn
phàm tình này nơi
chúng sinh đầy tràn các độc mạnh mẽ, như sự
tham muốn,
kiêu ngạo,
ganh tỵ, và
keo kiệt, nơi họ không hành xử
phù hợp với Pháp, và là nơi họ
hoàn toàn phóng tâm bởi các
mục đích bị
giới hạn vào đời này. Đây là nơi được gọi là một “cõi bất tịnh”.
Nếu
chúng ta quán tưởng nơi chốn quanh ta như một cõi
bất tịnh, thì nó sẽ không giúp ích cho ta. Nhưng nếu ta
quán tưởng nó là một
cõi Phật thuần tịnh, thì nó sẽ trở nên như thế; hay,
chính xác hơn,
chúng ta sẽ đến chỗ
chứng ngộ được sự
thanh tịnh tự nhiên của nó. Như vậy,
chúng ta nên
quán tưởng nơi chốn như một
cõi Phật tự
xuất hiện bao gồm toàn thể thực tại được
hiển lộ. Trong pháp Guru yoga
hiện giờ đây,
Cõi Phật được
sắp đặt toàn hảo này là Núi Huy Hoàng Màu-Đồng-Đỏ, Sangdopalri, Cõi
Cực Lạc của Guru Rinpoche.
Cõi Phật như thế không được làm bằng đất đá
bình thường, mà bởi các
châu ngọc quý báu. Nó có các
cây như ý cũng như một hồ chứa nước như chất
cam lồ có tám phẩm tính(27) và đem lại sự
bất tử. Ngay cả các
thú vật hoang dã sống ở đó cũng
xử sự hài hòa với Pháp, và tất cả những
âm thanh tự nhiên của nước, gió, lửa, và rừng rậm
vang dội như những
thần chú. Bầu trời tràn ngập
vô lượng cầu vồng và các Vidyādhara, Dāka, và Dākinī, nhiều như những
hạt bụi dưới ánh sáng
mặt trời.
Thiên nhạc, những bài ca
kim cương, và các giai điệu du dương của các
thần chú vang dội, đem lại sự
an lạc không thể
diễn tả cho
tâm thức. Các sinh
thể không bị
phân chia thành những người mà ta coi như bạn hữu và những người mà ta
xem như kẻ thù, mà tất cả đều có
bản tánh và
hình tướng của các Dāka và Dākinī. Tất cả đều là những bằng hữu trên
con đường,
xử sự phù hợp với Pháp. Trong
Cõi Phật này
chúng ta nhận thức các sinh thể
tự do đối với các
độc hại của sự
ganh tỵ,
kiêu ngạo, và
gây hấn, và không
phán đoán một vài người là
siêu việt và những người khác là
thấp kém,
chúng ta phát khởi một
lòng từ ái và khoan hòa đồng nhất với tất cả.
Nếu
chúng ta giữ trong tâm
cõi Phật được
quán tưởng này, thì
phương cách chúng ta nhận thức về các sự vật sẽ từ từ thay đổi.
Chúng ta sẽ
nhận thức mọi sự là
thanh tịnh và sẽ có thể nhìn thấy Núi Huy Hoàng Màu-Đồng-Đỏ ở
mọi nơi. Ví dụ như nếu ta nhìn các bích họa
miêu tả cuộc đời Đức Phật trên tường ở một điện thờ, lòng sùng mộ của ta
tăng trưởng. Còn nếu các bức tường chỉ được để một màu trắng trơn, chúng sẽ không gây hứng khởi gì. Để
duy trì sự quán tưởng một nơi chốn như một Cõi
Cực Lạc,
chúng ta cũng làm như vậy.
Tóm lại,
chúng ta nên
nhận thức mọi
hình tướng ta nhìn thấy là sự
hiển lộ của thân Guru Rinpoche, mọi
âm thanh ta nghe là
thần chú,
lời nói (ngữ) của Guru Rinpoche, và bất kỳ
tư tưởng hay hồi ức nào
xuất hiện trong tâm ta là sự phô diễn của
tâm trí tuệ
toàn thiện của Guru Rinpoche.
Chúng ta đừng cho rằng việc này là một
sự tạo tác trong
tâm thức, mà phải nghĩ rằng các sự việc đã
tự nhiên như vậy từ
vô thủy.
Trạng thái thuần tịnh này là một cái gì
hiện hữu tự nhiên, nhưng
chúng ta không
tỉnh giác về nó. Nhờ sự
thực hành pháp Guru yoga
chúng ta sẽ
dần dần đi tới chỗ
nhận ra bản tánh thực sự của các
hiện tượng.
Vì vậy mục đích của
thiền định là để giải tan
nhận thức sai lầm của ta về các sự vật và thay vào đó,
chứng ngộ được sự
thanh tịnh sẵn có của mọi
hiện tượng.
CHÍNH CHÚNG TA LÀ VAJRAYOGINĪ
Tương tự như vậy,
chúng ta phải
quán tưởng chính mình là một bậc
phi thường nào đó, ở đây là Vajrayoginī, bà mẹ, hay căn nguyên của tất cả chư Phật. Ngài có một mặt, hai tay, và hai chân. Ngài có màu đỏ chói,
rực rỡ và
trong suốt, không được
cấu tạo bằng các
yếu tố vật chất thô nặng như máu thịt và xương mà thay vào đó
trong sáng như thể được làm nên bởi ánh sáng. Mọi
chi tiết của
sắc tướng ngài cho tới các vật trang sức và màu trắng, màu đen của mắt ngài đều được
nhận thức tinh tế và
chính xác. Ngài có ba mắt, chúng đăm đăm nhìn lên trời hướng về Guru Rinpoche với lòng sùng mộ to lớn và tràn đầy niềm vui được gặp gỡ bậc Đao Sư. Đôi môi ngài
hé mở, để lộ những chiếc răng,
vì vậy tăng thêm một chút hung nộ cho sự
biểu lộ an bình của ngài. Ngài đăm đăm nhìn Guru Rinpoche với sự
nhất tâm, giống như một người nam và một người nữ nhìn nhau thật
trìu mến. Ngài đứng trong một tư thế nhảy múa với chân phải hơi uốn cong, gót chân phải dở lên khỏi mặt đất như thể sẵn sàng
bước tới, và chân trái ở trên mặt đất. Ngài đứng trên một bông sen, một
mặt trời, một
mặt trăng, và một
tử thi. Tay phải ngài cầm một lưỡi dao uốn cong, hướng thẳng lên trời,
tượng trưng cho sự cắt đứt
bản ngã cùng
ba độc là tham, sân và si. Tay trái ngài cầm một cái tách bằng sọ người đựng đầy amrita, chất
cam lồ bất tử. Trong khuỷu tay trái ngài còn có khatvānga hay cái chĩa ba,
tượng trưng cho một
sắc tướng ẩn mật của Guru Rinpoche. Ngài tô điểm bằng tám món trang sức bằng xương có dát ngọc: vương miện,
hoa tai, ba loại
chuỗi hạt, vòng tai, vòng kiềng và chuông,
tượng trưng cho sự
chuyển hóa tám thức(28) thành
trí tuệ. Ngài cũng đeo năm khăn choàng lụa
tượng trưng cho
năm trí tuệ. Trong
sắc tướng, ngài là Vajrayoginī, nhưng trong
bản chất ngài là Yeshe Tsogyal.
Sự quán tưởng chính
chúng ta là Yeshe Tso-gyal thì
đặc biệt quan trọng và sâu sắc. Bà là phối ngẫu của Guru Rinpoche vừa là
đệ tử chính của bậc
Đạo Sư. Ngài có một
lòng từ ái
sâu xa và
vô cùng ân cần đối với bà, cũng như
tin tưởng rằng
năng lực của bà có thể thấu suốt và
thực hành các
giáo lý của ngài.
Vì vậy, nếu
chúng ta quán tưởng chính mình là Yeshe Tsogyal, với Guru Rinpoche ở trên đỉnh đầu, thì một cách
tự nhiên lòng sùng mộ của
chúng ta sẽ được phát triển mạnh mẽ và dòng ân phước sẽ còn chảy vào
chúng ta nhanh hơn nữa.
Thực sự thì Yeshe Tsogyal là ai ? Bà không bao giờ
nuôi dưỡng bất kỳ
tà kiến hay
nghi ngờ nào về Guru Rinpoche ngay cả trong chốc lát và luôn luôn
nhận thức ngài là vị Phật trong
thân tướng con người.
Do bởi lòng sùng mộ toàn hảo và không lay chuyển của bà, bà là một
pháp khí toàn hảo cho tất cả các
giáo huấn quý báu của Guru Rinpoche. Vì thế bà đã có thể
thực hành không lầm lỗi và
đạt được sự
chứng ngộ toàn triệt. Một cách
tối hậu, không có sự dị biệt nhỏ bé nhất nào giữa sự
chứng ngộ của bà và sự
chứng ngộ của Guru Rinpoche.
Việc
quán tưởng chính
chúng ta là Yeshe Tsogyal
thiết lập một mối
liên hệ tốt đẹp qua đó
chúng ta có thể thọ nhận, như Yeshe Tsogyal, tất cả các sự
ban phước và
giáo lý của Guru Rin-poche, và nó sẽ khiến cho ta có thể
thực hành giáo lý và
đạt được Giác ngộ. Bà được coi như mẹ của tất cả chư Phật và giống như bất kỳ
gia đình nào nơi con cái có lòng
thương mến lớn lao đối với bà mẹ của họ,
chúng ta nên
nghĩ tưởng rằng tất cả chư Phật có
lòng từ ái và
thương yêu vĩ đại đối với
chúng ta.
GURU RINPOCHE Ở TRÊN ĐẦU
CHÚNG TA
Trên đỉnh đầu ta, ở trên một
hoa sen một trăm ngàn cánh, là hai đĩa
mặt trời và
mặt trăng. Đĩa
mặt trời biểu tượng cho các
phương tiện thiện xảo của lòng bi, trong khi đĩa
mặt trăng tượng trưng trí tuệ chứng ngộ tánh Không. Cả hai đĩa đều tròn đầy và bằng phẳng, một cái hơi nổi trên cái kia, và cả hai hơi
lềnh bềnh trên bông sen. Ngồi trên những vật này là
Đạo sư của
chúng ta trong
thân tướng của Guru Rinpoche, ở nơi ngài mọi đối tượng
quy y là một. Ở
phương diện bên ngoài, ngài là sự hợp nhất của
Tam Bảo: Phật, Pháp và Sangha (
Tăng đoàn). Trong
phương diện bên trong, ngài là sự hợp nhất của ba gốc: Lama (
Đạo Sư), Yidam (Bổn Tôn), và Dākinī. Trong
phương diện bí mật, ngài là sự hợp nhất của
ba thân:
Pháp Thân,
Báo Thân và
Hóa Thân.(29) Trong
bản chất, ngài là
vị bổn sư tốt lành của
chúng ta, là người
trong đời hiện tại đang
ban cho ta tất cả các
giáo huấn.
Trong
hình tướng, ngài là Đấng Sinh nơi Hồ Nước, Guru
Liên Hoa Sanh, là sự hợp nhất và
tinh túy của tất cả chư Phật trong
quá khứ,
hiện tại và tương lai,
hiển lộ ở đây trong
hình thức Hóa Thân. Thân ngài có
bản tánh không thể
bị hủy diệt của một vajra, hay
kim cương. Để
biểu thị việc
đạt được sự
bất tử, ngài có
vẻ mặt của một em bé tám tuổi
sáng ngời nét tươi trẻ. Nước da ngài trắng, hơi nhuốm đỏ, bừng bừng
sức mạnh.
Ngài mặc chín cái
áo choàng,
tượng trưng sự
thông suốt chín yāna (thừa) của ngài. Chúng
gồm có một quần trắng dưới một
áo choàng xanh và ba y
tu viện. Ngoài cùng ngài mặc một
áo choàng không tay thêu kim tuyến. Ba y
tu viện biểu thị việc ngài
thông suốt các
giáo lý Tiểu thừa ; quần xanh
biểu thị ngài
thông suốt các
giáo lý Đại thừa,
con đường của các
Bồ Tát; và
áo choàng kim tuyến
biểu thị việc ngài
thông suốt các
giáo lý bí mật của
Kim Cương thừa, Mantra thừa
bí mật.
Ngài có một đầu, hai tay và hai chân. Mắt ngài
mở rộng, chăm chú nhìn thẳng lên bầu trời,
biểu thị rằng ngài luôn luôn
tỉnh giác trạng thái tuyệt đối. Mặc dù miệng ngài hơi
mỉm cười, có một nét hơi cau mày hay nếp nhăn trên trán giữa cặp lông mày; vì thế nơi ngài
kết hợp cả hai vẻ
an bình lẫn
phẫn nộ. Ngài an tọa trong tư thế gọi là “sự
thoải mái vương giả,” chân phải hơi duỗi và chân trái kéo lên thành
một thế ngồi. Giống
như không một ai bất tuân mệnh lệnh của một vị vua, không một ai trong
ba cõi sinh tử bất tuân mệnh lệnh của Guru Rinpoche, vị vua của
trí tuệ tuyệt đối.
Tay phải ngài cầm một chày vàng có năm ngạnh, ở đây
tượng trưng cho kết quả của mọi phẩm tính của
nhập môn thứ nhất trong bốn
nhập môn (
quán đảnh), tức
nhập môn bình chứa. Trong nhiều
hiển lộ của ngài, Guru Rinpoche cầm chày vàng này trong
cử chỉ ngón trỏ ở ngang
trung tâm tim của ngài.
Tuy nhiên, ở đây, trong
thời đại suy hoại này khi các lực lượng tối ám của sự
tiêu cực giương cao lá cờ chiến thắng, Guru Rinpoche giơ cái chày-chinh-phục-tất-cả của ngài hướng lên bầu trời.
Cử chỉ đặc biệt này, hay mudrā (ấn) được
tìm thấy ở
nơi khác trong Longchen Nyingthig, trong sādhana gọi là Rigdzin Düpa, và được biết đến như Nangsi Zilnưn, hay “Hình tướng và
Hiện Hữu Chinh phục”.
Bàn tay trái ngài còn đang bắt ấn
buông xả, cầm một tách sọ người đầy chất
cam lồ với mọi phẩm tính và
tính chất toàn hảo. Tách sọ người này
tượng trưng kết quả của
nhập môn thứ hai hay
nhập môn bí mật. Bình
bất tử đặt trên tách sọ người
biểu thị rằng Guru Rinpoche đã đạt tới cấp độ Vidyādhara của sự
bất tử, hay “bậc trì giữ sự
thông suốt về sự bất tử”. Bình đựng được trang trí ở đỉnh bằng các nhánh
cây như ý.
Mặc dù Guru Rinpoche có thể được biểu trưng bằng cách đội nhiều loại mũ hay vương miện khác nhau, trong
trường hợp này ngài đội một vương miện
hoa sen năm cánh. Năm cánh này
tượng trưng Ngũ Bộ Phật, và bởi Guru Rinpoche là một
Hóa Thân của vị Phật thuộc padma (
Liên Hoa) bộ là
Đức Phật A Di Đà, nên vương miện có hình dạng một
hoa sen. Vương miện
hoa sen cũng
biểu thị rằng, như một
hoa sen mọc lên
tự do và không bị
ô nhiễm bùn lầy ở dưới, Guru Rinpoche
hiển lộ một cách
kỳ diệu, không bị
ô nhiễm bởi tiến trình ngăn che của một sự sinh ra
bình thường. Trên đỉnh nón là một
mặt trời và một
mặt trăng,
tượng trưng phương tiện và
trí tuệ, nón được gắn một lông chim kên kên trắng
tượng trưng cho sự
chứng ngộ thị kiến
tối hậu, Đại
Viên Mãn.
Trong khủy tay trái ngài có khatvānga, hay cái chĩa ba,
tượng trưng cho kết quả của
nhập môn thứ ba hay
nhập môn trí tuệ. Khatvānga cũng là một
hình thức ẩn mật của Dākinī Yeshe Tsogyal và Mandāravā, các phối ngẫu chính của Guru Rinpoche,
bản thân các ngài
tượng trưng cho
đại lạc và
tánh Không. Ba ngạnh
tượng trưng cho
bản tánh trống không của mọi
hình tướng, sự
biểu lộ của nó là
quang minh thuần tịnh, và
lòng bi mẫn, nó bao trùm tất cả. Từ mỗi ngạnh mắc ba vòng khoen
tượng trưng cho chín thừa. Dưới các ngạnh, từ trên đỉnh là một sọ người khô, một cái đầu thối rữa, và một cái đầu vừa bị cắt đứt,
tượng trưng ba thời và
ba thân. Dưới những thứ này là một bình
trường thọ, một đôi chày kép (chéo nhau), và một damaru, hay cái trống sọ người,
trang hoàng bằng các khăn choàng lụa, và năm màu của chúng
tượng trưng năm trí tuệ.
Guru Rinpoche ngồi trong
không gian tràn ngập tia ánh sáng cầu vồng hòa trộn vào nhau và những chòm sao lấm tấm và có những vòng tròn năm màu. Vô vàn
tia sáng chảy từ thân ngài đến khắp
mười phương. Từ dòng chảy ánh sáng này ngài có thể
hóa thân tùy theo ước muốn của ngài thành tất cả các
cõi Phật ở
mười phương, cũng như tất cả chư Phật,
Bồ Tát và tất cả các Bổn Tôn của ba cội gốc (Lama, Yidam, Dākinī). Tất cả những điều này là các
hóa thân của trái tim
trí tuệ của ngài. Ngài có thể thâu hồi chúng
trở lại thân mình trong cùng cách thức, bằng cách đó cho thấy rằng tất cả các
cõi Phật và chư Phật,
Bồ Tát và Bổn Tôn là một với ngài.
Có ba cách chính để
quán tưởng Guru Rin-poche. Cách thứ nhất là
quán tưởng độc nhất Guru Rinpoche như “một viên ngọc
hiện thân tất cả”, cách thứ hai là
quán tưởng Guru Rinpoche cùng tất cả các bậc Thầy
quý báu sắp hàng thành từng bậc vị này dưới vị kia, từ
Đức Phật nguyên thủy Samantabhadra (
Phổ Hiền) xuống tới chính Guru Rinpoche. Ở đây
chúng ta sẽ
quán tưởng theo
phương pháp thứ ba, gọi là “tập hội vĩ đại.” Trong
phương pháp này
chúng ta quán tưởng Guru Rinpoche ở
trung tâm một tập hội đông như mây các Guru và Bổn Tôn và được tập hội tất cả các
đệ tử thân thiết của ngài vây quanh. Các
đệ tử này thực sự là các
Hóa Thân của thân, ngữ, tâm, các phẩm tính, và các hành động của ngài, và vì mỗi một trong các
phương diện này được
phân chia thêm nữa theo năm
phạm trù giống nhau, trong tất cả đều có hai mươi lăm
đệ tử thân thiết. Các ngài
gồm có Vairocana, Namkhe Niging-po, Vua Trisong Detsen, Khandro Yeshe Tsogyal, Nanam Dorje Dudjom, và v.v… Cũng ở trên vương miện của các bậc vĩ đại
xung quanh Guru Rinpoche là tám vị Vidyādhara của
Ấn Độ, những bậc nắm giữ tám sự truyền thọ. Các ngài
gồm có Manjusrīmitra, bậc nắm giữ sự truyền thọ về
phương diện thân của Bổn Tôn, Đức
Văn Thù hung nộ; Nāgārjuna, bậc nắm giữ sự truyền thọ về
phương diện ngữ, Hayagrīva; và Hūmchenkāra, bậc nắm giữ
phương diện tâm, Yangdak Heruka.
Các thành viên khác của tập hội rộng lớn là tám mươi tư
thành tựu giả của
Ấn Độ và tất cả các
hiền giả và yogi
thành tựu của các trường phái và
dòng truyền thừa khác nhau đã nở rộ ở
Tây Tạng như Nyingma, Sakya, Kagyu, Shangpa Kagyu, Jor-druk, Urgyen, Nyengyu, Zhi-che, Kadam, và Geluk.(30) Như vậy các ngài tạo thành một đoàn
tùy tùng rộng lớn quanh Guru Rinpoche,
bao gồm tất cả những vị mà
chúng ta có lòng sùng mộ.
Chúng ta thiền định rằng tất cả các bậc Thầy vĩ đại này an trụ trên đầu ta,
đồng thời nghĩ tưởng rằng trong những đời
quá khứ của ta,
chúng ta đã từng thọ nhận
giáo huấn từ mỗi vị trong các ngài. Bằng cách này
chúng ta nên
phát khởi lòng biết ơn lớn lao và lòng sùng mộ vĩ đại,
nghĩ tưởng rằng
bản thân ta giống như Shưnnu Lobsang, “Bậc trẻ tuổi thông tuệ”, người đã
phục vụ hơn một trăm năm mươi vị thầy để đạt tới
giác ngộ.
Xung quanh các ngài,
chúng ta quán tưởng tất cả các Yidam của bốn phần của tantra, các Dākinī và các vị
bảo hộ của các
dòng truyền thừa tantra cha và mẹ, chư Phật,
Bồ Tát,
A La Hán, và các Phật
Độc Giác. Giống như các đỉnh núi cao ngất được những
đám mây lớn bao quanh,
cũng thế Guru Rinpoche được vây quanh bởi tất cả các bậc này.
Để
sửa đổi lại
nhận thức bất tịnh thông thường của ta về các
hiện tượng, ta đừng
quán tưởng các ngài với những
thân thể vật chất thô nặng gồm máu thịt, và xương, mà đúng hơn như những thân ánh sáng – rất
rõ ràng và
trong suốt, với một
hình tướng sống động như cầu vồng. Các ngài
xuất hiện rõ ràng, nhưng không có
thực chất, giống như ánh trăng trong nước.
Đồng thời, ta đừng
cảm thấy rằng các ngài là những biểu hiện trơ cứng,
vô hồn của ánh sáng cầu vồng, nhưng nên
nghĩ tưởng các ngài
hoàn toàn tràn đầy
trí tuệ,
từ ái, và
năng lực để làm
lợi lạc chúng sinh.
Mặc dù
chúng ta quán tưởng Guru Rinpoche là nhân vật chính được một đoàn
tùy tùng vô hạn vây quanh, trong
thực tế không có sự
phân biệt hay phân cách giữa các ngài: tất cả các Bổn Tôn và chư vị trong
sự quán tưởng đều là các
Hóa Thân của chính Guru Rinpoche. Vì các vị là sự
hiển lộ của tâm ngài và như thế đồng nhất với ngài tự
bản chất, nên
trí tuệ và
lòng từ bi của các vị ngang bằng với
trí tuệ và
từ bi của ngài.
Có nói rằng nhờ lòng khát khao và nhiệt thành mãnh liệt, bất kỳ điều gì cũng có thể được
thành tựu.
Tương tự như vậy, nếu
chúng ta nghĩ tưởng không chút
nghi ngờ rằng Guru Rinpoche thực sự
hiện diện trên đầu ta, thì các sự
ban phước của ngài sẽ đổ tràn xuống ta không hề
gián đoạn.
Chúng ta đừng nghĩ rằng có lẽ ngài ở đó, ngài có thể ở đó vào một lúc nào trong tương lai, hoặc cho rằng Guru Rinpoche được
quán tưởng trên đầu
chúng ta thì không gì khác hơn là một tạo tác của
tâm thức hay một sự thay thế hơi
thấp kém hơn Guru Rinpoche thực sự đang an trụ ở Núi Huy Hoàng Màu-Đồng-Đỏ xa xôi.
Chúng ta phải
tuyệt đối tin tưởng rằng ngài đang
hiện diện với tất cả
trí tuệ và
từ bi của ngài, và ta nên nghĩ rằng chỉ vì các che chướng của ta mà ta không thể sẵn sàng
nhận ra ngài. Hơn nữa, đừng nghĩ rằng Guru Rinpoche an trụ ở một nơi quá xa không biết tới
chúng ta hay tới những lời khẩn cầu của ta với ngài, hay
nghĩ tưởng rằng vì chăm sóc quá nhiều
chúng sinh có lẽ ngài không thể
lưu tâm tới ta hay tưởng nhớ tới ta. Guru Rinpoche có
trí tuệ,
lòng từ ái, và
năng lực viên mãn.
Chúng ta phải
nhận thức rằng ngay cả một sự
cầu nguyện với Guru Rinpoche, sự trì tụng
duy nhất một
thần chú Vajra Guru kêu gọi ngài, hay ngay cả một bàn tay giơ lên ở khoảng trái tim ta trong một
cử chỉ sùng mộ đối với ngài hay chỉ
đơn giản nhớ tới ngài với
đức tin trong sáng, cũng sẽ được ngài
nhận biết, vì ngài
hoàn toàn thấu suốt lòng sùng mộ của ta. Có câu nói rằng: “Đức Phật ở
trước mặt bất cứ ai có
lòng tin ở ngài.”
Cho dù trong cùng một lúc,
vô lượng chúng sinh đang
cầu nguyện với ngài, ngài sẽ biết thật
chính xác mỗi
chúng sinh đang
cầu nguyện thế nào, biết rõ ai đang
đau khổ và biết rõ ai đang
hạnh phúc. Ngài sẽ biết mỗi
chúng sinh đang ở cấp độ nào, và ngài sẽ biết mỗi lời
cầu nguyện của mỗi
chúng sinh và nó có
xuất phát từ sâu thẳm trái tim của họ không. Ngài sẽ thấu biết mọi điều này với sự
trong sáng lớn lao, với vẻ
sống động của một
hình ảnh trong một tấm gương. Chính Guru Rinpoche đã nói: “Ta đứng trước cửa nhà tất cả những ai có lòng sùng mộ.” Ngài sẽ luôn luôn đi cùng
chúng ta, thật gần gũi như cái bóng của ta. Nếu có lòng sùng mộ thì
chúng ta được hứa hẹn rằng tất cả chư Phật ba thời sẽ ở lại với
chúng ta.
Đây là
lời hứa của Guru Rinpoche, đấng là
Hóa Thân của thân, ngữ, và tâm của tất cả chư Phật, được
đặc biệt hiển lộ để
đáp ứng những nhu cầu của
chúng sinh trong
thời đại suy hoại này. Các sự
cầu nguyện và
lòng từ bi của ngài có
hiệu quả to lớn trong
việc làm giảm bớt nỗi khổ do các bệnh dịch, nạn đói và chiến tranh vây bủa một
thời đại như thế. Hiện nay, khi tất cả
chúng sinh bị
phiền não bởi các
độc hại to lớn, khi không gì còn
tồn tại ngoại trừ các
cặn bã của những phẩm tính
tốt đẹp của những thời
quá khứ, và khi các
ảnh hưởng xấu của những người phá vỡ
lời nguyện tôn giáo lan tràn,
chúng ta phải
đặc biệt cầu nguyện Guru Rinpoche để ngài sẽ khuất phục mọi
thế lực xấu và làm an dịu mọi nỗi
đau khổ.
Chúng ta cũng phải có
đức tin kiên cố rằng vị Thầy
của riêng ta – là người
chúng ta có thể
diện kiến trong đời này và từ ngài ta có thể trực tiếp nghe các
giáo huấn cốt tủy – thì đồng nhất với Guru Rinpoche. Như thế, việc
cầu nguyện bổn sư của ta sẽ đem lại cho
chúng ta những sự
ban phước còn nhanh chóng hơn nữa. Khi mưa đổ xuống trên mái nhà, ống máng thâu thập
toàn bộ nước.
Tương tự như vậy, nếu
chúng ta cầu nguyện với vị Thầy
của riêng ta
như không thể phân cách với Guru Rinpoche, thì
chúng ta sẽ có thể thu thập mọi sự
ban phước.
Guru Rinpoche, là
hiện thân của tất cả chư Phật ba thời, biểu hiện nhiều
phương diện. Bất kỳ
phương diện nào của ngài cũng là đối tượng cho sự khẩn cầu của ta, những nguyện ước của
chúng ta sẽ được
đáp ứng. Trong bài
cầu nguyện có tên là “Sự
Đáp Ứng Tự Nhiên Mọi Ước Nguyện”, nếu
chúng ta bị bệnh tật tấn công hay nếu đời ta bị nguy hiểm,
chúng ta khẩn cầu Guru Rinpoche trong
phương diện ngài là Amitāyus,
Đức Phật Vô Lượng Thọ. Nếu
chúng ta nghèo khổ và bị tước đoạt mọi sự,
chúng ta khẩn cầu ngài trong
phương diện ngài là Bổn Tôn của sự
Thịnh vượng. Nếu
chúng ta bị môi trường
tự nhiên đe dọa,
chúng ta khẩn cầu ngài trong
phương diện ngài là
Đạo sư của các
Nguyên tố (Đại). Nếu bị
dã thú hoặc những kẻ hung hăng tấn công,
chúng ta khẩn cầu ngài như vị
Anh Hùng Không thể chiến bại. Nếu bị
phiền não bởi bệnh tật,
chúng ta khẩn cầu ngài như
Đức Phật Dược Sư ở Urgyen. Nếu cái chết bất ngờ tấn
công chúng ta mà không
báo trước,
chúng ta khẩn cầu ngài trong
phương diện là
Đức Phật A Di Đà, “Phật
Vô Lượng Quang.” Nếu
chúng ta bị dày vò bởi nỗi
sợ hãi trong bardo,
chúng ta khẩn cầu ngài trong
phương diện là Đấng Thấu Suốt Ba Thời.
Bản tính của Guru Rinpoche là sự hợp nhất của tất cả chư Phật làm có thể có được mạng lưới
mênh mông của các
hiển lộ này.
Cuối cùng, nếu
chúng ta cầu nguyện với Guru Rinpoche như một
bản chất của tất cả chư Phật, thì
chúng ta sẽ
đạt được sự
thành tựu tối thượng trong việc
chứng ngộ bản tánh -
trí tuệ nội tại của chính
chúng ta. Hãy
cầu nguyện trong cách thế này với sự tập trung
nhất tâm và
toàn bộ niềm tin, và không chút
nghi ngờ về việc những khẩn cầu sẽ được
đáp ứng. Đây là
lý do vì sao trong lời
cầu nguyện này Guru Rinpoche nói đến mười ba lần “Hãy
cầu nguyện với
tâm thức trọn hảo
thoát khỏi mọi nghi ngờ”.
SỰ CẦU THỈNH BỔN TÔN TRÍ TUỆ
Bước
kế tiếp trong sādhana là sự
cầu thỉnh Guru Rinpoche đến từ
cõi Phật của ngài và
ban phước cho
chúng ta. Tại sao ta
cần phải cầu thỉnh ngài một khi ta
tin tưởng rằng ngài thật sự
hiện diện trên đầu ta? Là những người
sơ học,
chúng ta không
hoàn toàn thoát khỏi ý nghĩ Guru Rinpoche vẫn an trụ ở thật xa nơi
cõi Phật Cực Lạc của ngài là Núi Huy Hoàng Màu-Đồng-Đỏ. Để giải tan
nghi ngờ này,
chúng ta cầu thỉnh ngài đến từ
cõi Phật của ngài. Khi
tin tưởng rằng ngài thưcï sự đến và tan hòa thành Guru Rinpoche mà
chúng ta quán tưởng đang an trụ trên đỉnh đầu ta,
sự quán tưởng của ta được
ban cho thật nhiều
năng lực giống như một bức tượng đựng đầy
xá lợi hay một
thân thể vô tri được
ban cho một
tâm thức. Rồi
chúng ta nên
nghĩ tưởng rằng Guru Rinpoche thực sự
an trú trong ta, trong
hình dáng lẫn trong
bản chất, và qua
đức tin này lòng sùng mộ và nhiệt thành của ta sẽ
tăng trưởng thật lớn lao.
Để phát triển và
duy trì lòng sùng mộ của ta và để
cầu thỉnh Guru Rinpoche,
chúng ta dùng bài
cầu nguyện gồm bảy giòng được biết với tên “Bảy Câu Kệ
Kim Cương.” Có nhiều bài
cầu nguyện với những độ dài khác nhau để khẩn cầu Guru Rinpoche, từ “Bài
Cầu Nguyện Bảy Chương” rộng lớn tới bài
cầu nguyện dài vừa là “Tẩy trừ Mọi
Chướng Ngại Dọc theo
Con Đường,” và bài
cầu nguyện “Sự
Đáp ứng Tự nhiên Mọi
Ước Nguyện.”
Tuy nhiên, bài
cầu nguyện cô đọng và
tinh túy nhất là “Bảy Câu Kệ
Kim Cương,” cũng được gọi là “Bài
Cầu Nguyện Bảy Giòng.”
Đây là một bài
cầu nguyện có
năng lực rộng lớn. Chẳng hạn, Guru Rinpoche, vì lòng
đại bi đã
quyết định hiển lộ trong
thế giới chúng ta,
xuất hiện từ trái tim
Đức Phật A Di Đà trong
hình thức một chữ HRĪH đỏ, nó ở giữa
vô số tia sáng,
đi xuống và đến an trụ trên một
hoa sen đỏ nở giữa Hồ Dhanakosa ở tây bắc xứ Oddiyāna. Sau đó, trong giây lát, chữ HRĪH
biến thành một bé trai tám tuổi – tức Guru Rinpoche, Đức
Liên Hoa Sanh. Ngài làm mọi điều này một cách đặc trưng để
đáp lại sự trì tụng nhiệt thành “Bảy Câu Kệ Kim Cương” nhờ nó các Dāka và Dākinī khẩn nài ngài
xuất hiện trong
thế giới này.
Ở một lúc khác, trong
thời gian Guru Rin-poche đang ở
Ấn Độ, xứ sở của Đấng Cao Quý,(31) một cuộc
tranh luận lớn đã được tổ chức giữa
Phật tử và những
pháp sư tīrthika(32) là những người có trụ xứ ở Dorje Den, (Phạn: Vajrāsara, “Ngai Kim Cương” ở
Ấn Độ, ngày nay là Bodhgayā,
Bồ Đề Đạo Tràng). Khi cuộc
thảo luận được tiến hành, dường như các
Phật tử sắp thua cuộc. Một đêm, nhiều người trong họ có một giấc mơ linh kiến trong đó một Dākinī trong
hình tướng của một bà lão
xuất hiện và tiên đoán họ sắp thất bại. Bà chỉ dạy rằng
hy vọng duy nhất để họ chiến thắng là
chấp nhận sự trợ giúp của người anh bà, là người khi đó đang tiến hành các
thực hành du già ở một trong những nghĩa địa lớn ở
Ấn Độ. Tên ngài là Dorje Thưtrengtsal, “Sức Mạnh
Kim Cương của Vòng Đầu Lâu.” Bà nói rằng nếu họ tha thiết khẩn cầu ngài, thì
chắc chắn ngài sẽ đến và đánh bại các
học giả dị giáo. Các
học giả Phật tử lo sợ ngài Dorje Thưtrengtsal không thể kịp thời
giải cứu cho cuộc
thảo luận vì quãng đường quá xa; họ cho rằng chỉ có
phép lạ mới có thể đưa ngài đến
đúng lúc. Vị Dākinī trấn an họ, giảng rằng đối với Guru Rin-poche
thời gian và
không gian không tạo nên
chướng ngại. Bà thúc dục các
học giả thực hiện một cuộc
cúng dường vĩ đại trên nóc điện thờ của họ và
thỉnh cầu Guru Rinpoche qua sự
cầu khẩn nhiệt thành của “Bảy Câu Kệ
Kim Cương.” Bà
bảo đảm rằng nếu họ tiến hành theo cách đó thì Guru Rinpoche sẽ đến.
Ngày hôm sau,
khám phá rằng nhiều người trong số họ có giấc mơ
tương tự, họ
tuân theo những chỉ dạy của vị Dākinī. Giống như bà đã cam đoan, Guru Rinpoche
xuất hiện trên bầu trời và sau đó ngồi xuống giữa họ như vị
học giả thủ lãnh, sẵn sàng
thảo luận với các vị thầy
dị giáo.
Trong suốt cuộc
thảo luận, ngài phá tan các lý chứng của họ,
sử dụng cả sự
thông suốt Kinh điển lẫn
trí tuệ của ngài. Trong sự
tuyệt vọng, các tīrthika phải dùng tới các yêu thuật của họ để
lăng nhục các
học giả Phật tử. Khi ấy Guru Rinpoche đi tới mộ địa Rừng Lạnh, nơi Dākinī Đầu-Sư Tử Senge Dongma
xuất hiện trước mặt ngài và bảo ngài hãy
thiền định về bà và tụng đọc
thần chú của bà trong bảy ngày, sau đó Guru Rinpoche đánh sấm và chớp xuống các nhà
dị giáo,
hoàn toàn điều phục họ. Sau việc này các nhà
dị giáo đi theo Phật đạo.
“Bài
Cầu Nguyện Bảy Giòng” mang lại các sự
ban phước rất to lớn. Trong tất cả các terma, hay các kho tàng
tâm linh được
khám phá lại, đã được
tìm thấy trong
quá khứ hay
thời gian gần đây mà Guru Rinpoche để lại, không có một terma nào không
tìm thấy “Bài
Cầu Nguyện Bảy Giòng” trong đó. Như Guru Rinpoche đã nói: “Khi một
đệ tử khẩn cầu ta với lòng sùng mộ và bài ca khao khát “Bài
Cầu Nguyện Bảy Giòng”, từ Sangdopalri ta sẽ đến
lập tức, như một bà mẹ không thể
cưỡng lại lời kêu cầu của đứa con của bà.”
Bài
cầu nguyện bắt đầu với chữ HŪNG, là
chủng tự của trí tuệ-cốt lõi của tất cả chư Phật. Nó
tiếp tục rằng “Urgyen yul gyi nup chang tsam,” nghĩa là: “Ở
biên giới tây bắc xứ Oddiyāna.” Trong xứ này có bốn cái hồ, mỗi cái ở một trong
bốn hướng. Chính trong cái hồ nằm ở
hướng tây bắc có tên là Dhanakosa mà Guru Rinpoche đã
hiển lộ trong
thế giới này. Trong
Phạn ngữ, dhana có nghĩa là “sự
giàu có,” và kosa nghĩa là “kho tàng.”
Giòng thứ hai, “Pema gesar dong po la,” có nghĩa là “Trên nhụy của một bông sen nở.” Trong hồ Dhanakosa có
vô số bông sen năm màu. Vì Guru Rinpoche thuộc về ngữ hay
Liên Hoa bộ, là bộ của
Đức Phật A Di Đà,
hoa sen của ngài màu đỏ, ngài
hiển lộ ở giữa hồ trên nhụy của một bông sen đỏ.
Giòng thứ ba, “Yam tsen chok kyi ngo drup nye,” có nghĩa là “Đấng
kỳ diệu đã
đạt được sự
thành tựu tối cao.” Guru Rinpoche
không sinh ra do các
nhân duyên hay từ các mầm mống của một mẹ và cha mà, như
chúng ta đã nói, bỗng nhiên
xuất hiện từ giữa một bông sen đỏ trong
hình thức của
chủng tự HRĪH, như một
biểu lộ của
Giác tánh thuần tịnh từ trái tim
Đức Phật A Di Đà. Sau đó chữ HRĪH tan ra thành ánh sáng,
chuyển hóa thành hình dạng của một đứa bé tám tuổi luôn luôn tươi trẻ với
vẻ mặt rạng ngời và ba mươi hai tướng chính cùng tám mươi tướng phụ của một vị Phật. Như vậy ngài
xuất hiện trong
thế giới chúng ta giữa các cầu vồng, một trận mưa hoa được
thập phương chư Phật rải xuống,
âm nhạc cõi trời và các bài ca
tán tụng du dương được hát lên bởi
vô số Dāka và Dākinī tràn ngập bầu trời.
Giòng thứ tư, “Pema Jungne shey su drak,” có nghĩa là “Lừng danh là Đấng Sinh-từ-Hoa-Sen
Liên Hoa Sanh.” Guru Rinpoche, đối tượng
quy y tối thượng và không
lầm lạc, đã lừng danh khắp vô vàn
cõi Phật là Đấng
Đạo Sư Sinh từ
Hoa Sen.
Giòng thứ năm, “Khor du khandro mang po kor,” có nghĩa là “Được một đoàn
tùy tùng gồm nhiều Dākinī vây quanh.” Bất cứ nơi nào Guru Rinpoche
hiển lộ, ngài mở bày và
giảng giải các
giáo lý Mật thừa hay
Kim Cương thừa. Vì các Dākinī là những người nghe và trì giữ các
giáo lý này, Guru Rinpoche luôn luôn được một tập hội Dākinī vây quanh.
Trong giòng thứ sáu, “Kye kyi jesu da drup kyi,”
chúng ta cầu nguyện: “Noi gương ngài,
bản thân con sẽ trở nên
thành tựu.” Hiện nay, do
vô minh của
chúng ta, ta đang lang thang không
nơi nương tựa trong những
mê lầm và
đau khổ của
sinh tử luân hồi; cách thế
duy nhất để ra khỏi tình huống này là thọ nhận các
giáo huấn sâu xa của Mật thừa và đưa
chúng ta vào sự
thực hành. Vì thế, để
quét sạch vô minh của ta,
chúng ta cầu thỉnh và khẩn nài Guru Rinpoche đến
ban cho ta những sự
ban phước, các
lễ quán đảnh, và các
giáo huấn chúng ta cần khiến ta có thể
đi theo ngài trên
con đường và
thành tựu sự
chứng ngộ tối cao như ngài đã
thực hiện. Bị nghiệp và
thế lực của các
cảm xúc tiêu cực ngăn che và bị
nhận chìm trong
vô minh, giờ đây
chúng ta đang đắm chìm trong
đại dương đau khổ. Nếu
chúng ta không nương tựa vào một hiện thể
phi thường như Guru Rinpoche là đấng
bản thân đã
giải thoát khỏi
đại dương đau khổ này, thì ta không có cách nào
thoát khỏi sự khốn cùng và
vô minh này.
Giòng thứ bảy là “Chin gyi lop chir shek su sol,” hay “Xin đến và
ban phước cho con.” Khi nào, nhờ những khẩn cầu của ta, Guru Rinpoche đến và
ban cho ta những sự
ban phước của thân, ngữ và tâm ngài, thì
chúng ta có khả năng
thành tựu sự
chứng ngộ. Như việc mạ vàng một pho tượng làm cho nó còn
đẹp đẽ và
quý báu hơn,
cũng thế, thân, ngữ và tâm
của riêng ta, khi đã được thân, ngữ, và tâm của Guru Rinpoche
ban phước, sẽ có khả năng
tốt đẹp hơn để
đạt được sự
thành tựu tối cao.
Bài
cầu nguyện kết thúc với
thần chú: “Guru pema siddhi hung.” Guru là một từ
Phạn ngữ có
nghĩa đen là “nặng.” Nó được dịch sang tiếng
Tây Tạng là lama,
nghĩa đen là “không thể vượt hơn được.” “Nặng” chỉ ra rằng Guru thì
nặng trĩu các phẩm tính
tốt đẹp và việc người nào đó
vi phạm các
giáo huấn của ngài sẽ đem lại những
hậu quả nặng nề. Guru Rinpoche là
tinh túy, sự hợp nhất
toàn thiện của tất cả
trí tuệ,
lòng từ ái, và các
năng lực của chư Phật trong ba thời. Vì thế, bởi ngài có đầy đủ
vô số các phẩm
tính giác ngộ nên
chúng ta gọi ngài là “Guru”, nặng. Từ padma trong tiếng Sanskrit (cũng được dùng trong tiếng
Tây Tạng và
phát âm là pema) có nghĩa là “hoa sen.” Nó
ám chỉ danh hiệu của Đức
Liên Hoa Sanh. Là một
Hóa Thân của trái tim
Đức Phật A Di Đà, Guru Rinpoche thuộc
Liên Hoa bộ hay ngữ bộ của chư Phật và chính ngài là một Vidyādhara hay người trì giữ
Giác tánh của
Phật bộ này;
cũng thế, ngài được sinh ra
từ tâm lõi của một bông sen. Tiếng Phạn siddhi hay tiếng
Tây Tạng ngưdrup có thể được hiểu trong tiếng Anh là “sự
thành tựu đích thực.” HŪNG là
chủng tự của tâm tất cả chư Phật, và bởi tất cả chư
Phật hiện thân trong ngài nên một cách
đặc biệt, nó là
chủng tự của Guru Rin-poche. Vì thế, khi
kết thúc bài
cầu nguyện,
chúng ta nói “SIDDHI HŪNG”, ta khẩn cầu ngài
ban cho ta mọi sự
thành tựu, cả thông thường lẫn
siêu việt.
Nếu
chúng ta lập đi lập lại việc trì tụng bài nguyện này với lòng sùng mộ
sâu xa, thì không
nghi ngờ gì, ta sẽ nhận lãnh các sự
ban phước.
Chúng ta cần phát triển
đức tin không thể lay chuyển rằng, để
đáp lại sự khẩn cầu và mời thỉnh của ta, Guru Rinpoche sẽ thực sự đến với ta từ Cõi
Cực Lạc ở Núi Huy Hoàng Màu-Đồng-Đỏ.
Sau khi
quán tưởng bản thân ta là Vajra-yoginī,
chúng ta nên
nghĩ tưởng rằng vị Vajra-yoginī khác, giống như
chúng ta, lại gần
chúng ta từ trên bầu trời. Trên đầu bà, giống như trên đầu
chúng ta là Guru Rinpoche, được vây quanh bởi tám vị Vidyādhara của
Ấn Độ, hai mươi lăm
đệ tử thân thiết của ngài, và một đoàn
tùy tùng đông như mây các Dāka,Dākinī,Lama, Bổn Tôn, các
Hộ Pháp, và v.v… Vajrayoginī, Guru Rinpoche, và những vị khác đáp xuống
chúng ta, và hòa vào
chúng ta: Vajrayoginī hòa tan vào Vajrayoginī,Guru Rinpoche vào Guru Rinpoche, và đoàn
tùy tùng rộng lớn vào đoàn
tùy tùng rộng lớn. Ngước nhìn ngài với lòng sùng mộ
trọn vẹn,
chúng ta nên
tin tưởng không chút
nghi ngờ rằng chính Guru Rinpoche ở trên đầu
chúng ta, và ngài sẽ ban những ân phước của ngài trên
chúng ta.
Vì thế, khi đã
quán tưởng một Đức Guru Rinpoche ở trên đầu
chúng ta, ta
cầu thỉnh Guru Rinpoche khác đến và hòa tan thành vị đầu tiên: Guru Rinpoche đầu tiên này được gọi là samaya-sattva và Guru Rinpoche đến với ta từ
cõi Phật của ngài được gọi là jnānasattva. Khi jnānasattva tan thành samayasattva, như thể sữa được đổ vào nước; cả hai hòa lẫn vào nhau
mật thiết đến độ không thể
phân biệt được chúng, và nước trở nên
tốt lành và còn thơm ngon hơn trước.
Tương tự như thế, khi
chúng ta cầu thỉnh Guru Rinpoche tan lẫn thành Đức Guru Rinpoche ta đã
quán tưởng trên đầu, ta nên
nghĩ tưởng rằng sự
ban phước, lòng bi, và
trí tuệ của ngài còn
hiện diện mãnh liệt và
bao la hơn nữa.