SÙNG MỘ VÀ CẦU NGUYỆN
Guru yoga là một
phương pháp hay
phương tiện thiện xảo để phát sinh trong
chúng ta lòng sùng mộ mãnh liệt khiến ta
nhận ra Đạo sư chính là vị Phật mà không cần
cố gắng.
Lúc đầu lòng sùng mộ này có
thể không tự nhiên hay tự phát, vì thế
chúng ta phải
sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để trợ giúp ta
thành tựu nó. Điều
chính yếu là
chúng ta phải luôn luôn nhớ tới các phẩm tính
tuyệt hảo của vị Thầy,
đặc biệt là
lòng tốt của ngài đối với ta. Bằng cách
liên tục phát khởi sự
tín tâm,
nhận thức sâu sắc
Đạo sư và lòng sùng mộ đối với ngài, sẽ tới lúc chỉ cần nhắc tới
danh hiệu của ngài hay chỉ cần tưởng nhớ tới ngài là đủ để
chấm dứt mọi
nhận thức phàm tình của
chúng ta, và ta sẽ thấy ngài chính là một vị Phật.
Bài kệ mà ta dùng để dâng lời
cầu nguyện sùng mộ lên Guru Rinpoche nói :
Đức Guru Rinpoche
quý báu, xin hãy nghe con. Ngài là
hiện thân quý báu nhất,
vinh quang nhất của lòng
đại bi và ân phước trong tất cả chư Phật. Ngài là người
bảo hộ duy nhất và là chúa tể của tất cả
chúng sinh. Không chút
do dự hay dè dặt, con dâng lên ngài
tài sản,
thân thể, tim phổi, lồng ngực của con, và chính
con người con. Con
cúng dường ngài
trọn vẹn bản thân con. Cho tới khi con
đạt được giác ngộ, dù con có thể gặp bất kỳ
hạnh phúc hay
đau khổ nào, hỡi đấng tôn quý vĩ đại,
Đạo Sư Liên Hoa Sanh, ngài biết rõ mọi sự về con. Ngoài ngài ra, con không có
hy vọng nào khác; con nằm
trong vòng tay ngài.
[Bây giờ
chúng ta trì tụng ba trăm lần
thần chú Vajra Guru]
Tại sao
chúng ta cầu nguyện Guru Rin-poche? Tại sao ngài là đấng
chúng ta hướng về? Những người
bình thường có khuynh hướng nương tựa vào người có
ảnh hưởng và
quyền lực lớn nhất.
Cũng thế, ở đây
chúng ta nương cậy vào Guru Rinpoche, ngài là sự hợp nhất của tất cả chư Phật và
Bồ Tát an trụ trong
vô lượng cõi Phật khắp
mười phương. Ngài là sự tập hợp mọi phẩm tính,
năng lực và
sức mạnh xuất sắc của chư Phật và
Bồ Tát để làm
lợi lạc chúng sinh. Trong
vũ trụ này, ngài đã
hiển lộ một sự
thấu triệt tuyệt đối và
vô song về tất cả kỹ thuật và những
thành tựu của Mật thừa. Nơi nguồn ánh sáng chói lọi đó, ngài là đấng
chúng ta hướng tới trong
thời đại này khi những
cảm xúc tiêu cực và
độc hại của
chúng sinh cực kỳ to lớn. Nạn đói kém, các bệnh dịch và những trận chiến tranh
chiếm ưu thế, và ngay cả một ít người khi hướng tâm họ về Pháp gặp phải những trở ngại ghê gớm chặn đứng sự
tiến bộ của họ và
ngăn cản việc
thành tựu mục đích tối hậu.
Đức Guru Rinpoche, trong sự
toàn giác của ngài đã tiên đoán tất cả những điều này, và bởi lòng
đại bi vô hạn, ngài đã
cung cấp những
phương pháp hữu hiệu cho
chúng sinh trong
thời đại này. Vì chỉ mình ngài có khả năng giúp đỡ ta,
chúng ta có thể nương cậy vào ngài với một
lòng tin không lay chuyển. Như ngài đã nói: “Bất kỳ ai
thiền định về ta là
thiền định về tất cả chư Phật. Bất kỳ ai nhìn thấy ta là thấy tất cả chư Phật. Ta là sự hợp nhất của tất cả chư Phật. Ta là sự hợp nhất của tất cả các sugata (Đấng
Thiện Thệ), ‘những đấng đã
đạt được đại lạc.’”
Ở bình diện bên ngoài, thân ngài là Tăng, ngữ ngài là Pháp, và tâm ngài là Phật. Ở bình diện bên trong, thân ngài là
Đạo sư, ngữ ngài là Bổn Tôn, và tâm ngài là Dākinī. Ở bình diện
bí mật, bình diện của
ba thân (kāya), thân
hiển lộ của ngài là
Hóa Thân, trong
sắc tướng của Đức Padmasambhava,
Đạo Sư Liên Hoa Sanh. Ngữ của ngài là
Báo Thân, trong sự
hiển lộ của Đức
Quán Thế Âm, vị Phật của lòng
đại bi vô hạn. Tâm ngài là
Pháp Thân, trong
hiển lộ của
Đức Phật A Di Đà, vị Phật của Ánh sáng
vô lượng (
Đức Phật Vô Lượng Quang). Từ
quan điểm này
chúng ta có thể
nhận thấy rằng
thực ra, Đức Guru Rinpoche chính là
tinh túy của tất cả chư Phật.
Phật sự bao la của ngài được
biểu lộ rõ ràng nhất cho
chúng ta qua
sự kiện là đối với những
chúng sinh như
chúng ta bị
đau khổ bởi
vô minh, ngài đã bày lộ những
giáo huấn quý báu về những gì phải
tuân theo và những gì nên né tránh trên
con đường. Các
giáo huấn này sẽ
cho phép chúng ta đi trên
con đường Giác ngộ cho
tới cùng đích.
Đức Guru Rinpoche không ngừng
chuyển Pháp luân. Ở
phương diện ngữ, Guru Rin-poche là suối nguồn của tất cả Pháp, không một
lãnh vực nào trong sự
mênh mông vô hạn của các tantra và
giáo lý bí mật trong
thế giới mà ngài không
hiểu biết và thấu suốt. Hiện nay,
chúng ta là những người
cư ngụ ở cõi
Diêm phù đề này, hay trái đất, không đủ
may mắn để
diện kiến ngài. Mặc dù hiện nay ngài không còn
hiển lộ như một
thân tướng khiến người
bình thường có thể thấy, nhưng ngài vẫn đang
hiện diện trong tất cả những
giáo lý của ngài. Để
giữ gìn chúng cho sự
lợi ích của những
thế hệ tương lai và
duy trì được
hiệu lực và
tính chất tươi mới của chúng, ngài đã truyền dạy chúng cho các
đệ tử thân cận của ngài và sau đó cất giấu chúng trong
hình thức các terma, hay “các kho tàng
tâm linh.” Khi những
đệ tử này
tiếp tục tái sinh, các ngài đã
khám phá lại những kho tàng khác nhau được Đức Guru Rinpoche cất giấu trong các tảng đá, trong các hồ nước, trên bầu trời, và trong tâm các ngài. Bằng cách
khám phá lại các terma vào đúng
thời gian mà chúng có
lợi lạc nhất, sẽ
đảm bảo được rằng
trải qua quá trình dài của sự truyền dạy từ
thế hệ này sang
thế hệ khác các kho tàng sẽ không bị
sai lạc. Vì
lý do đó,
truyền thống terma được gọi là
dòng truyền thừa ngắn.
Nếu
chúng ta thực hành những
giáo lý này một cách
đúng đắn, với lòng sùng mộ và
thành tâm thiết yếu, thì không còn
nghi ngờ gì nữa chúng ta sẽ có
thể đạt được các
thành tựu thông thường và
siêu việt. Các
giáo huấn này và cơ hội để
thực hành chúng được
ban tặng cho ta giống như những mạng ăng ten đầy
năng lực trong một thành phố lớn.
Vấn đề là
chúng ta có chịu
sử dụng chúng hay không.
Những sự
cầu nguyện mãnh liệt với Guru Rinpoche sẽ đóng lại cánh cửa dẫn tới việc
tái sinh trong các
cảnh giới thấp, và
an lập chúng ta một cách
chắc chắn trên
con đường giải thoát khỏi
sinh tử luân hồi, và
cuối cùng, sẽ
đưa tới sự
thành tựu giác ngộ. Vì thế bậc
Đạo Sư, Đức Vajradhara (
Kim Cương Trì)
vinh quang, là gốc rễ của mọi sự
ban phước, qua đó mọi sự có thể được
thành tựu.
Từ vị Phật
nguyên thủy là
Đức Phật Phổ Hiền xuống tới
chúng ta, các
giáo lý sâu xa đã được truyền dạy qua một
dòng truyền thừa không đứt đoạn của các bậc
Giác ngộ. Có ba loại truyền dạy,
tương ứng với các cấp độ hiện thể khác nhau. Cấp độ cao nhất là
tâm truyền tâm, được
Đức Phật Phổ Hiền trao cho
Ngũ Bộ Phật (
Ngũ Trí Như Lai). Sự truyền dạy thuộc cấp độ trung bình của các Vidyādhara (
Trì Minh Vương) hay những bậc Trì giữ
Giác tánh, được
ban cho bằng
cử chỉ hay sự bày tỏ có
tính chất tượng trưng. Cấp độ
cuối cùng, sự
khẩu truyền thì thầm-bên tai, là
để dành cho những người như
chúng ta.
Bản thân Guru Rinpoche đã thọ nhận và có thể truyền lại tất cả ba cấp độ truyền dạy. Vì ngài có đầy đủ
trí tuệ,
lòng từ bi, và
năng lực của tất cả chư Phật nên ngài thấu suốt dòng tâm-trí tuệ.
Hiển lộ trong
vũ trụ này trong
hình tướng một bậc trì giữ
trí tuệ kim cương, Đức Guru Rinpoche đã
du hành qua khắp các
thánh địa để thọ nhận
giáo lý từ tất cả các bậc Thầy vĩ đại
bao gồm tám Vidyādhara của
Ấn Độ.
Đặc biệt ngài đã nhận lãnh từ Srī Simha
lễ quán đảnh “sự bừng nở của
Giác tánh.” Ngài có khả năng thọ nhận và
chứng ngộ mọi
giáo lý này qua
cử chỉ và
lời nói, và vì thế ngài nắm giữ dòng truyền dạy
tượng trưng.
Không bao giờ
cần phải tu tập hay
nghiên cứu, ngài đã
thọ lãnh và có thể
lập tức thông suốt tất cả các
giáo huấn và mọi mức độ
ý nghĩa của các cấp tantra khác nhau trong Mật thừa. Vì thế ngài nắm giữ dòng truyền dạy toàn hảo thì thầm-bên tai. Khi đã
du hành tới mọi
cõi Phật, ngài thọ nhận các
giáo lý của chư Phật.
Hơn nữa, trong Guru Rinpoche có đầy đủ ba cội gốc. Là
Đạo Sư, hay cội gốc của các sự
ban phước, ngài nắm giữ ba
dòng truyền thừa như
chúng ta đã vừa thấy. Ngài còn là Bổn Tôn, hay cội gốc của sự
thành tựu, và là Dākinī, hay cội gốc của sự
hoạt động.
Thêm vào đó, các
mạn đà la của thân, ngữ, tâm, các phẩm tính, và các
hoạt động của tất cả chư Phật đều
hoàn toàn có trong ngài. Ở
phương diện thân ngài là Yamāntaka; ở
phương diện ngữ, ngài là Hayagrīva; ở
phương diện tâm ngài là Yangdak Heruka; và ở
phương diện hoạt động, ngài là Vajrakīlaya. Theo
ước nguyện của ngài, Guru Rinpoche có thể phóng ra một trăm lẻ tám Bổn Tôn hòa bình và
phẫn nộ,
hiển lộ toàn thể mạn đà la, hay ngài có thể tập hợp
vô lượng Bổn Tôn và nuốt các vị này vào
bản thân ngài. Ngài là
Đức Phật A Di Đà, ngài là Phật
Vô Lượng Quang (Amitāyus), ngài là
Quán Thế Âm Bồ Tát, ngài là Thánh nữ Tārā, ngài là Vajrasattva (
Kim Cương Tát Đỏa), ngài là hàng ngàn vị Phật, ngài là tám
Hóa thân, ngài là hai mươi lăm
đệ tử, ngài là tám mươi
bốn đại thành tựu giả, ngài là các
Đạo sư của tám dòng
giáo lý, ngài là bổn sư của chính
chúng ta.
Phạm vi các
hoạt động và
năng lực của ngài rộng lớn đến nỗi chỉ cần
thiền định về ngài là
chúng ta có
thể đạt được
Phật Quả viên mãn.
Guru Rinpoche cũng là vua của tất cả Dākinī và các
Hộ Pháp,
bản thân các vị là cội gốc của mọi
hoạt động. Khắp trong ba nơi chốn(36) và chỉ
đơn thuần âm thanh của
danh hiệu ngài là đủ
đánh thức các Dāka và Dākinī để họ
nhận thức được ngài là chúa tể của họ và
cúng dường ngài
toàn thể lãnh vực rộng lớn như
đại dương các tantra của Mật thừa. Theo mệnh lệnh của ngài, các Dāka và Dākinī sẽ
quét sạch các
chướng ngại trên
con đường, khiến cho
chúng ta có được
tiến bộ nhanh chóng.
Ngài không
che dấu trong mình kho tàng các phẩm tính
kỳ diệu của ngài; lòng
đại bi luôn luôn tràn đầy của ngài là lòng
đại bi của tất cả chư Phật, và
năng lực để giúp đỡ
chúng sinh của ngài thì tương đương với
năng lực của chư Phật. Trong
thời đại suy thoái này, khi không gì còn
tồn tại ngoại trừ các dấu vết
suy đồi của những sự
toàn thiện nguyên thủy, khi những
ban phước của các Bổn Tôn, các bậc linh thánh, và tất cả các
Giáo Pháp dường như đang biến mất, thì những sự
ban phước đó của Guru Rinpoche thật ra đang còn
chói sáng hơn bao giờ hết.
Hoạt động bi mẫn không ngơi nghỉ của ngài, thay vì
suy giảm trong
thời đại tăm tối này, đã trở nên còn nhanh chóng và
chắc chắn hơn nữa.
Chúng ta nói rằng Guru Rinpoche là
Pháp Vương hay đấng
bảo hộ của mọi
chúng sinh bởi tất cả đều hướng về ngài để nương tựa. Các
chúng sinh bị
phiền não bởi các
cảm xúc độc hại và
nghiệp lực đã tích tập, khi họ hướng tâm về ngài, họ sẽ nhận được lòng
đại bi và các sự
ban phước của ngài.
Nhận thức được điều này,
chúng ta có thể
cúng dường ngài một cách toàn tâm bất kỳ thứ gì
chúng ta coi là
thân thiết nhất –
thân thể ta, những người
thân yêu,
tài sản của ta, và tận sâu thẳm của
con người chúng ta – mà không có chút
do dự nào.
Chúng ta thực hiện một sự
cúng dường như thế,
hoàn toàn thoát khỏi bất kỳ sự
nhị tâm nào, dâng cho ngài tất cả với sự
dứt khoát tuyệt đối, giống như một hòn đá rơi tòm xuống nước. Cho dù
chúng ta có thể
cúng dường tất cả số vàng chứa trong
toàn thể vũ trụ, ta phải
cảm thấy là chưa đủ. Không có sự
cúng dường nào, dù
bao la đến đâu, có thể được coi là đủ để đền đáp
thiện tâm của Guru Rinpoche.
Từ thời điểm này trong
cuộc đời chúng ta cho tới khi ta
đạt được cấp độ
thành tựu của ngài, qua sự
thực hành của ta trên
con đường, mọi sự việc
tích cực xảy đến cho ta, mọi dấu hiệu và những
chứng ngộ, mọi sự tịnh hóa các
lỗi lầm của ta, mọi
lợi lạc của
sức khỏe dồi dào,
đời sống trường thọ, và sự
thành đạt, đều là nhờ
lòng tốt của Guru Rinpoche. Bất kỳ điều
tốt lành nào
chúng ta có thể
kinh nghiệm cần được
hoàn toàn cúng dường cho
Đạo Sư mà không có chút bám níu nào. Bất kỳ
hoàn cảnh bất lợi nào xảy đến cho ta, dù là bệnh tật, mất mát
vật chất, sự
phê bình ác ý, hay sự tù đày bất công,
chúng ta cũng nên nghĩ rằng đó là do bậc
Đạo Sư, vì qua những
bất hạnh của ta,
chúng ta sẽ có thể tự tẩy sạch nghiệp xấu đã được tích tập.
Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng: “Tôi đã
cầu nguyện Guru Rinpoche rất nhiều, tôi đã
thực hành rất mãnh liệt, làm thế nào những điều này lại có thể xảy ra cho tôi ?”
Đúng đắn hơn,
chúng ta có thể
sử dụng đau khổ của ta trên
con đường, bằng cách nhận vào mình mọi
đau khổ của
chúng sinh khác.
Chúng ta phải
nhận thức rằng từ bây giờ trở đi, dù
chúng ta kinh nghiệm điều gì, cả tốt lẫn xấu, đều nằm trong lòng tay của Guru Rinpoche. Dù
chúng ta du hành qua các
cõi Phật để
tiếp thu các
giáo lý của chư Phật và
Bồ Tát hay lang thang qua những
đau khổ không dứt của
sinh tử luân hồi,
chúng ta nên nghĩ: “Guru Rinpoche, ngài biết rõ mọi sự xảy ra cho con. Con ở trong tay ngài.”
Nếu
chúng ta có thể phát triển mức độ
tin cậy này ở ngài, thì đối với ta Guru Rinpoche sẽ như mặt đất ta đi lại trên đó, luôn luôn
nâng đỡ chúng ta. Từ
toàn bộ lòng tin này, tất cả các phẩm tính và
lợi lạc sẽ
phát khởi tự nhiên. Không bị các trở ngại che chướng,
chúng ta sẽ
giải thoát khỏi bệnh tật và
đau khổ, ta sẽ
vui hưởng một
cuộc đời trường thọ, và mọi
ước nguyện của
chúng ta sẽ được
hoàn tất.
Tuy thế, đây chỉ là những sự
ban phước thứ yếu. Quan trọng hơn,
lòng tin này sẽ làm khởi dậy các
kinh nghiệm và sự
chứng ngộ, nó sẽ cho
chúng ta thành tựu cấp độ của những Vidyādhara vĩ đại của
Ấn Độ và của hai mươi lăm
đệ tử chính của Guru Rinpoche ở
Tây Tạng. Đây là những sự
ban phước chính yếu.
Với tất cả những điều này trong tâm,
chúng ta nên
cầu nguyện một cách mãnh liệt rằng :
Trừ ngài ra con không có đối tượng nào khác để
hy vọng. Trong
thời đại suy thoái này, khi tất cả
chúng sinh đang
chìm đắm trong đầm lầy
đau khổ không thể
chịu đựng nổi, xin hãy
che chở cho họ khỏi mọi điều này, ôi đấng
Đạo Sư vĩ đại. Ôi Ngài, đấng sẵn đủ
trí tuệ,
ân sủng và sự
ban phước như hải triều, xin
ban cho con bốn
nhập môn, Đấng được phú bẩm lòng
đại bi, xin hãy
nâng cao sự
chứng ngộ của con. Đấng được phú bẩm
năng lực, xin tịnh hóa hai che chướng. Ngài là đấng con đặt những
hy vọng, xin
an lập con trên
con đường đi tới
Giác ngộ. Qua ngài, cầu mong mọi sự
ban phước của chư Phật
đi vào giòng
tâm thức của con. Giờ đây con
cầu nguyện ngài với
toàn bộ con người con. Trong sự
Toàn Giác, Ngài có thể thấy rằng con sinh ra trong
thời đại suy thoái đầy rẫy bệnh tật và
xung đột này, khi
chúng sinh thì hung dữ, tự phụ và
kiêu ngạo, thiếu
tinh tấn trong việc
thực hành Pháp, và luôn luôn
tìm kiếm những điều không lành tốt. Trong một
thời đại như thế, tham, sân, si, bệnh tật, nạn đói kém, và chiến tranh đang luôn luôn phát triển; ở nơi đây chúng con đang
kinh nghiệm những trái quả do nghiệp của chúng con. Giống như một người điên thích
đi vào một đống lửa, chúng con
vui sướng tích tập những
hạt giống đau khổ trong tương lai của chúng con. Giống như một người mù không có người
dẫn đường hay một người điên không người chăm sóc, chúng con
hoàn toàn bị
chìm đắm trong vũng bùn của
đau khổ mà không có ngay cả sự
nhận thức về nó. Ngài, Guru Rinpoche, có thể
che chở để con không phải lang thang không
mục đích trong chốn
hoang tàn,
thấp kém,
tồi tệ này. Xin
ban cho con
trí tuệ kim cương của thân, ngữ và tâm ngài, và xin
ban cho con bốn
nhập môn để con có thể
chứng ngộ ý nghĩa sâu xa của Đại
Viên Mãn. Nhờ lòng
đại bi của ngài, cầu mong sự
nhận thức của con
tăng trưởng, và cầu mong ngài khơi dậy trong con
trí tuệ của
trạng thái tự nhiên.(37)
[Bây giờ,
chúng ta trì tụng ba trăm lần
thần chú Đạo sư Kim Cương (Vajra Guru)]
Khi sự
chứng ngộ phát khởi trong
chúng ta, hai sự ngăn che – ngăn che làm tăm tối
tâm thức chúng ta do các
cảm xúc tiêu cực và ngăn che làm
chướng ngại sự
hiểu biết về cái
tương đối và
tuyệt đối (
phiền não chướng và
sở tri chướng) – sẽ bị nhổ bật lên và biến mất.
Chúng ta nên
cầu nguyện với sự
tin tưởng tuyệt đối rằng Guru Rinpoche sẽ nhanh chóng ban những ân phước và ngài sẽ
hiển lộ cho ta
ý nghĩa của Đại
Viên Mãn.
Con
cầu nguyện ngài từ
đáy lòng con, không chỉ bằng môi miệng, xin
ban cho những ân phước của ngài khiến mọi
ước nguyện của con có thể được
thực hiện.
Khi
thực hiện sự
cầu nguyện này,
chúng ta nên nghĩ: “Guru Rinpoche, con không chỉ
kêu rêu các
ngôn từ. Con không
van xin ngài sự
che chở trong đời này và trong bardo để xu nịnh ngài, nhưng con
cầu nguyện ngài từ
thâm tâm con, từ tận xương tủy con. Con không
nghĩ tưởng điều gì khác ngoài ngài. Con không nhớ tới điều gì ngoài ngài. Con muốn tan biến vào ngài như một hòn đá bị ném xuống nước. Con không thể
chịu đựng nổi việc
xa lìa ngài.”
Theo cách này, tâm
chúng ta hoàn toàn bị tràn ngập bởi sự
hiện diện của
Đạo Sư. Mọi
tư tưởng tiêu cực, dù to lớn hay
độc hại thế nào, trở nên
hoàn toàn lắng dịu và
tiêu tan ngay khi ta
nghĩ tưởng về
Đạo Sư.
Chúng ta nên
cầu nguyện với tất cả
năng lực và sự mãnh liệt mà ta có cho tới khi ta được
ban cho loại
kinh nghiệm này. Nếu
chúng ta thực sự phát triển lòng sùng mộ
chân thật như thế, khi ấy Guru Rinpoche sẽ như một bà mẹ luôn luôn có
tình thương dạt dào nhất đối với đứa con của bà. Bất cứ khi nào một bà mẹ như thế muốn cho con bà một thứ gì, bà không bao giờ nghĩ: “Ồ, đối với nó cái này là quá tốt.” Đúng hơn, bà luôn luôn cho con những món gì tốt nhất bà có thể tìm được.
Chúng ta nên
cầu nguyện với Guru Rinpoche rằng: “Xin
ban cho con lòng
đại bi của ngài và
giải thoát con khỏi nỗi
đau khổ trong đời này và những
đời sau. Xin đưa dắt con tới những
cảnh giới cao và
gia hộ cho con
đạt được sự
Giác ngộ tối thượng.”
[Với
tâm thức tràn đầy sự sùng mộ
tuyệt đối như thế, ở đây,
một lần nữa
chúng ta trì tụng
thần chú Đạo sư Kim Cương càng nhiều càng tốt –
ít nhất bốn trăm lần.]
THẦN CHÚ ĐẠO SƯ KIM CƯƠNG
Tại sao rất
cần phải trì tụng các
thần chú, và chúng là gì ? Giống như
chúng ta tự quán tưởng mình là một Bổn Tôn và môi trường chung quanh là một
cõi Phật để tịnh hóa
tri giác bất tịnh của
chúng ta về
sắc tướng,
chúng ta trì tụng các
thần chú để tịnh hóa
tri giác bất tịnh của ta về
âm thanh. Mantra là một từ
Phạn ngữ có nghĩa là “che chở tâm,” bởi lẽ trong khi trì tụng các
thần chú, tâm được
che chở khỏi
ảnh hưởng của các
tư tưởng mê lầm phàm tình.
Thần chú kết hợp mật thiết nhất với Guru Rinpoche được gọi là
thần chú Đạo Sư Kim Cương: OM ĀH HŪNG VAJRA-GURU-PADMA-SIDDHI HŪNG.
Thần chú này là
đời sống và trái tim,
tinh túy của Guru Rinpoche; trong
thực tế, nó là Guru Rinpoche trong
hình thức âm thanh.
OM
Âm thứ nhất, OM,
tương ứng với
phương diện thân của tất cả chư Phật. Mặc dù Guru Rin-poche là
Pháp Vương bao trùm của Năm Bộ Phật,(38) OM trong
trường hợp cá biệt này
đặc biệt tương ứng với
Đức Phật A Di Đà, là
phương diện Pháp Thân của
Liên Hoa bộ.
ĀH
Âm thứ hai, ĀH,
tương ứng với
phương diện ngữ của tất cả chư Phật. Trong
trường hợp này, nó
đặc biệt ám chỉ Bồ Tát Quán Thế Âm, Đấng Bi Mẫn Vĩ đại, là
phương diện Báo Thân của
Liên Hoa bộ. Từ âm ĀH
hóa hiện tám mươi bốn ngàn
Pháp môn.
HŪNG
Âm thứ ba, HŪNG,
tương ứng với
phương diện tâm hay
bản chất trí tuệ của tất cả chư Phật, ở đây các ngài
hiển lộ là Guru
Liên Hoa Sanh và
tương ứng với
phương diện Hóa Thân của
Liên Hoa bộ.
Thực ra Guru Rinpoche là sự
hoàn toàn hợp nhất của
ba thân (kāya), và ba âm đầu tiên của
thần chú của ngài
biểu thị điều này.
VAJRA GURU
Kế đến VAJRA GURU. Vajra,một từ
Phạn ngữ,
phát âm là benzar trong tiếng
Tây Tạng,
ám chỉ chất
kim cương (Tiếng
Tây Tạng là rdo-rje, “chúa tể của
các loại đá”), cao tột trong các chất thể
tự nhiên.
Kim cương cứng đến nỗi không thứ gì có thể cắt đứt được nó, và phẩm tính này
cho phép nó cắt đứt mọi sự.
Tương tự như vậy,
bản chất trí tuệ bất biến của thân, ngữ và tâm Guru Rinpoche không thể bị
tác hại bởi các
mê lầm và những
cảm xúc độc hại, trong khi thân, ngữ tâm và
trí tuệ của ngài hủy diệt mà không cần
cố gắng các che chướng và
mê lầm là
nghiệp quả của các
cảm xúc tiêu cực và các
ác hạnh. Vì thế
chúng ta có thể hiểu rằng bằng từ vajra guru (hay dorje lama trong tiếng
Tây Tạng)
chúng ta muốn nói tới một bậc vĩ đại và
thành tựu đã đạt
tới cùng đích
tối hậu của
con đường Kim Cương thừa.
Tóm lại, vajra
biểu thị sự
thông suốt và
chứng ngộ tuyệt đối của tính bất khả phân của
ba thân (kāya).
Như
chúng ta đã đề cập tới ở trên, được dịch
sát nghĩa từ
Phạn ngữ thì guru có nghĩa là “nặng” và bao hàm ý rằng
Đạo sư (Guru)
trĩu nặng những phẩm tính
tốt đẹp. Vì thân, ngữ và tâm Guru Rinpoche có vô hạn phẩm tính đồng nhất với các phẩm tính của tất cả chư Phật,
chúng ta có thể coi thân, ngữ và tâm của ngài như những vật quý giá đầy tràn trong một tủ
châu báu khổng lồ – một tủ két như thế hẳn sẽ rất nặng, và đây là
lý do vì sao nó được
giảng nghĩa là “trĩu nặng những phẩm tính
tốt đẹp.” Giống như vàng vừa nặng vừa quý giá,
Đạo sư là bậc nặng nhất và
quý báu nhất trong tất cả
chúng sinh do bởi các phẩm
tính không thể nghĩ bàn và không
lỗi lầm của ngài. Từ
Tây Tạng của Guru là Lama, có nghĩa là vật cao quý
tuyệt hảo trên tất cả mọi sự. Ví dụ, trong sự kính ngưỡng
Tam Bảo, ba gốc (Guru, Yidam và Dākinī), hay
ba thân (kāya), hoặc trong sự trì tụng
danh hiệu chư Phật,
chúng ta luôn luôn bắt đầu với từ Lama để
biểu lộ rằng cái gì tiếp sau đó không trội vượt được và không thể sánh được.
Ta
ám chỉ vị Thầy của
chúng ta là Lama bởi vì, khi đã
may mắn gặp được ngài
trong đời này và lắng nghe
giáo huấn của ngài thì về sau
chúng ta nhớ tưởng tới ngài trong mọi lúc với lòng sùng mộ lớn lao. Rồi
chúng ta sẽ luôn luôn ở ngoài
ảnh hưởng của các
cảm xúc tiêu cực, không bao giờ làm mồi cho
các loại nghiệp và che chướng khác nhau của
luân hồi sanh tử.
Từ khi
xuất hiện ở
biên giới tây bắc xứ Oddi-yāna cho tới lúc
khởi hành tới
đại lục phía đông nam của các rāksasa (
la sát), Guru Rinpoche đã
hiển lộ và giảng dạy mọi
phương diện của các
Kinh điển và tantra. Nhưng
chính yếu là bởi ngài khai mở những
giáo lý bí mật của
Kim Cương thừa, qua đó, ta có
thể đạt được sự
thành tựu thông thường lẫn
thành tựu siêu việt trong
một đời duy nhất, nên
chúng ta ám chỉ ngài là
Đạo Sư Kim Cương (dorje lama), hay vajra guru. Chính vì giảng dạy
Kim Cương thừa mà Guru Rinpoche đã
hiển lộ ở
thế giới chúng ta. Khi
Đức Phật chuyển Pháp luân ở
Ấn Độ phù hợp với các nhu cầu và
năng lực của
chúng sinh ở đó, ngài đã không giảng dạy
Kim Cương thừa thật
rộng rãi.
Khi
Đức Phật Thích Ca sắp
thị tịch vào cõi
Niết bàn (parinirvãna), Riksum Gưnpo, hay ba đấng
bảo hộ –
Bồ Tát Văn Thù,
Bồ Tát Quán Thế Âm, và
Bồ Tát Vajrapāni (
Kim Cương Thủ) –
xuất hiện trước Ngài và nói: “Xin Ngài
chuyển Pháp luân Kim Cương thừa và theo cách đó xin làm
lợi lạc cho
chúng sinh trong xứ Tuyết.” Rồi các vị
Bồ Tát nài xin
Đức Phật ở lại trái đất này để
đáp ứng sự
cầu thỉnh của các ngài.
Đáp lại,
Đức Phật bảo các ngài rằng sau khi Phật
nhập Niết Bàn, một
Hóa thân khác vĩ đại hơn sẽ
xuất hiện, sinh ra trong một cách thế
tinh khiết, để
truyền bá các
Giáo Pháp sâu xa; và chính các ngài –
đặc biệt là
Bồ Tát Quán Thế Âm – sẽ được
giao phó việc
bảo vệ sự
truyền Pháp ở
Tây Tạng. Theo cách này,
Đức Phật đã loan báo sự ra đời của
Đạo Sư Liên Hoa Sanh.
Phù hợp với
lịch sử thông thường,
Đức Phật đã không khai mở và giảng dạy các
giáo lý Kim Cương thừa bí mật.
Tuy nhiên, vào lúc
Đức Phật nhập Niết Bàn, nhờ những
năng lực thấu thị, năm vị trong số những
đệ tử vĩ đại của Ngài cùng tụ hội trên Núi Sắt Nóng đã
nhận thức được sự
nhập diệt của Ngài. Đây là năm hiện thể
phi thường, là các Vidyādhara của các
cõi Trời, các cõi rāksasa (
La sát), yaksa (
Dạ xoa), nāga (Rồng), và
loài người.
“Giờ đây bậc Thầy không còn ở
thế gian này nữa,” họ than khóc. “Ai sẽ tẩy trừ bóng tối của vô minh? Ai sẽ chỉ cho
chúng ta điều gì cần
thực hành và điều gì nên tránh?”
Đáp lại nỗi đau buồn
sâu xa và sự khẩn cầu mãnh liệt của các ngài, Đức Vajrasattva đã
hóa hiện từ trái tim của tất cả chư Phật trong
thân tướng của Đức Vajrapāni. Ngài
khám phá và giảng Mật thừa cho họ. Không lâu sau đó, các
giáo lý Mahāyoga, trong
hình thức của mười tám cấp tantra của Mạng Lưới
Huyền diệu của
Hiện thân, từ
trên trời rơi xuống mái cung điện của vua Indrabodhi, và các
giáo lý Anuyoga tự
hiển lộ trong xứ Simhala. Sau đó ngài Garab Dorje, người đầu tiên trong
nhân loại ở trong dòng Đại
Viên Mãn, bắt đầu giảng dạy và làm
sáng tỏ các
thực hành Atiyoga. Đây là ba dòng sông lớn của
trí tuệ chảy vào
đại dương mênh mông những
giáo lý của Guru Rinpoche. Mặc dù
bao gồm toàn bộ tri thức và sự
sâu xa của
Kinh điển, các
giáo lý của ngài chủ yếu
nhấn mạnh vào
con đường Kim Cương thừa bí mật.
PADMA
Padma,
thuật ngữ Sanskrit có nghĩa là
hoa sen,
phát âm theo tiếng
Tây Tạng là pema. Có tất cả năm bộ Phật –
Phật bộ,
Kim Cương bộ,
Bảo Sanh bộ,
Liên Hoa bộ, và
Nghiệp bộ – và năm bộ này được
tượng trưng bởi năm vị Phật:
Tỳ Lô Giá Na Như Lai,
Bất Động Như Lai,
Bảo Sanh Như Lai,
A Di Đà Như Lai, và
Bất Không Thành Tựu Như Lai,
tương ứng theo các bộ. Vì
Đạo Sư Liên Hoa Sanh là nhập thể
Hóa Thân của
Đức Phật A Di Đà, thuộc
Liên Hoa bộ nên phần đầu của
danh hiệu ngài là Padma (
Liên Hoa). Vì thế, trong
thần chú của ngài, dưới ánh sáng của những gì
chúng ta vừa
giảng giải,
chúng ta gọi ngài là
Đạo Sư Liên Hoa Kim Cương (Vajra Guru Padma).
SIDDHI HŪNG
Ở phần cuối của
thần chú chúng ta nói “SID-DHI HŪNG.” SIDDHI
ám chỉ cả hai loại
thành tựu – thông thường và
siêu việt – trong khi HŪNG là một âm để khẩn cầu,
cầu xin Guru Rinpoche
ban cho chúng ta hai
thành tựu này.
Sự giải thoát khỏi bệnh tật và có được mọi
đặc ân như sự
thành công và
đời sống trường thọ thì nằm trong các
thành tựu thông
thường hay thế tục.
Thành tựu siêu việt là đạt tới cấp độ
chứng ngộ của chính Guru Rinpoche. Như thế,
tóm lại,
toàn bộ thần chú có thể được
diễn đạt là: “Ngài,
Đạo Sư Kim Cương, đấng
xuất hiện từ một bông sen, xin
ban cho con các
thành tựu thông thường và
siêu việt.”
Thần chú Đạo Sư Kim Cương có mười hai âm. Đối với
thân phận hiện tại của
chúng ta trong sự
mê lầm và
bất tịnh, các âm này
tương ứng với mười hai mắt xích căn nguyên tương thuộc (
thập nhị nhân duyên), chúng bắt nguồn từ sự
vô minh và lên tới
cực điểm ở sự
tái sinh, và qua quá trình
hoạt động của chúng mà
chúng ta lang thang trong
sinh tử luân hồi. Khi các mắt xích hay
yếu tố này được tịnh hóa, chúng
tương ứng với mười hai nhánh
giáo lý(39) của
Đức Phật. Hơn nữa, trong mười hai âm này của
thần chú Guru Rinpoche cô đọng các
thần chú của tất cả các
Đạo sư, tất cả các Bổn Tôn, và tất cả các Dākinī.
Đức Guru
Liên Hoa Sanh và
thần chú của ngài thì bất khả phân. Khi
chúng ta trì tụng
thần chú này, nó
bao gồm danh hiệu của đấng
Đạo Sư, thì điều đó giống như ta
liên tục kêu gọi một người mà sự
đáp ứng của họ thì không vơi cạn. Nếu
chúng ta cầu nguyện và
nhất tâm trì tụng
thần chú của ngài, thì không còn
nghi ngờ gì là dù thế nào chăng nữa, Guru Rinpoche sẽ hướng lòng
đại bi của ngài về
chúng ta và
ban cho ta những ân phước.
Chúng ta cần trì tụng
thần chú này với
toàn bộ con người chúng ta, không
đạo đức giả, không
xao lãng, hay không có sự lập đi lập lại máy móc nào.
Chúng ta đừng nên có
cảm tưởng rằng mình đã
thành tựu một
đại sự nào cho dù
chúng ta đã trì tụng được vài trăm hay vài ngàn lần
thần chú Đạo Sư Kim Cương.
Tóm lại, việc trì tụng
thần chú này của
chúng ta không được đứt quãng, như sự
trôi chảy liên tục của một con sông, và phải
trở thành một với
hơi thở của ta. Khi trì tụng
thần chú,
chúng ta nên
đồng thời quán tưởng ta đang nhận bốn lễ
nhập môn từ Guru Rinpoche.
Không có sự trì tụng nào trội vượt hơn sự trì tụng
Đạo Sư Kim Cương, là
thần chú của Guru Rinpoche.
Chúng ta nên
thực hiện những
nỗ lực mạnh mẽ trong
thực hành trì tụng này và nhớ tưởng Guru Rinpoche với lòng sùng mộ không lay chuyển. Cuối mỗi thời khóa,
chúng ta nên
nghĩ tưởng rằng tất cả
chúng sinh, được
chuyển hóa thành ánh sáng, nhanh chóng
xuất hiện tan hòa vào tim Guru Rinpoche. Trong khi trì tụng lời
cầu nguyện Sangdopalri,
chúng ta nên
ước nguyện một cách mạnh mẽ rằng tất cả
chúng sinh được
tái sinh nơi cõi
Cực Lạc Sangdopalri, Núi Huy Hoàng Màu-Đồng-Đỏ.
THỌ NHẬN BỐN QUÁN ĐẢNH
Giờ đây,
chúng ta đã học cách làm thế nào
quán tưởng chính mình là Vajrayoginī với Guru Rinpoche ở trên đầu, làm thế nào
cầu thỉnh các Bổn Tôn
trí tuệ đến từ
cõi Phật, và làm thế nào các Bổn Tôn hòa nhập vào
chúng ta.
Chúng ta đã học về
sự tích tập
công đức nhờ việc
cúng dường Lời
Cầu nguyện Bảy-Nhánh và nhờ các
phương tiện khác nhau để
phát khởi đức tin và lòng sùng mộ trong việc trì tụng
thần chú Đạo Sư Kim Cương. Bây giờ, để
kết thúc,
chúng ta phải học cách thọ nhận bốn
quán đảnh từ Guru Rinpoche và đoàn
tùy tùng của ngài gồm tập hội các hiện thể vĩ đại.
Từ
Phạn ngữ abhiseka mà
chúng ta dịch từ “empowerment” của Anh ngữ có
hai nghĩa là xé rách và làm đầy. Abhiseka xé rách hay giật tung các tấm màn
vô minh và làm
chúng ta tràn ngập những sự
ban phước thuộc thân, ngữ và tâm của
Đạo Sư.
Chúng ta gọi việc này là một
quán đảnh vì nhờ nó ta được
cho phép trau dồi các
thực hành tâm linh đặc biệt mà
cuối cùng sẽ nở rộ
thành sự chứng ngộ. Vì thế,
quán đảnh vừa là một sự
cho phép vừa là một sự
ban phước.
Thực hành mà không thọ nhận một
lễ quán đảnh thì giống như
cố gắng vắt cát để lấy dầu.
Trước tiên,
chúng ta phải thọ nhận
sự quán đảnh từ một vị Thầy có phẩm chất, và sau đó ta có thể làm mới nó lại nhiều lần qua sự
thực hành Guru yoga.
Để nhận lãnh bốn
quán đảnh,
chúng ta phải hướng tâm mình về Guru Rinpoche với một lòng sùng mộ mãnh liệt và khát khao.
Đáp ứng lại, Guru Rinpoche sẽ hướng
tâm trí tuệ của ngài về
chúng ta với
lòng bi mẫn và
từ ái vĩ đại. Vào lúc này
chúng ta có thể
bao gồm lời
cầu nguyện tới tất cả chư Phật và các
Đạo sư của dòng Long-chen Nyingthig, nó bắt đầu bằng các từ “Emaho ! Trong
cõi Phật vô hạn và trùm khắp…” và
chúng ta có thể
tìm thấy lời
cầu nguyện đó trong bản dịch
mở rộng hơn về pháp Guru yoga này ngay trong chính ngưndro của dòng Longchen Nying-thig. Vào lúc cuối của sự
cầu nguyện này, tất cả các Yidam, Dāka, Dākinī, các hiện thể vĩ đại, và các đấng
bảo hộ tạo thành đoàn
tùy tùng của ngài, tất cả các ngài tan thành ánh sáng và tan lẫn vào Guru Rinpoche. Bây giờ, còn rạng ngời và
rực rỡ hơn trước, sáng chói với những sự
ban phước, Guru Rinpoche
tồn tại như một sự hợp nhất
tối cao của tất cả chư Phật. Chính từ ngài mà giờ đây
chúng ta thọ nhận các
lễ quán đảnh.
Giữa cặp lông mày của Guru Rinpoche, ở chính giữa trán ngài,
chúng ta quán tưởng một chữ OM trắng, giống như một thứ
pha lê chiếu ra những
tia sáng trắng
hết sức mạnh mẽ,
sáng ngời. Khi
quán tưởng chính
chúng ta là Vajrayoginī, các
tia sáng này được hấp thu vào một chữ OM trắng
tương ứng trên trán của chính
chúng ta, và những ánh sáng này lan tràn khắp
thân thể ta, chảy qua mọi mạch máu hay kinh mạch
vi tế, tịnh hóa mọi
ác hạnh của thân.
Có ba kinh mạch chính: uma, hay kinh mạch trung ương; roma, hay kinh mạch phải; và kyang-ma, hay kinh mạch trái. Những kinh mạch này chạy từ dưới rốn tới đỉnh đầu, qua năm cakra, hay “bánh xe” (luân xa). Ở trán là luân xa
đại lạc; ở cổ họng là luân xa
hoan hỉ; ở tim là luân xa các Pháp hay các
hiện tượng; ở rốn là luân xa của sự hình thành; và ở
trung tâm bí mật là luân xa giữ gìn-sự hỉ lạc. Từ các luân xa này nhiều kinh mạch nhỏ hơn
tỏa ra chung quanh như các cây căm của một bánh xe. Trong
tình trạng che chướng và
mê lầm hiện hành của
chúng ta, các
năng lực nghiệp (Tiếng
Tây Tạng là lung, “các gió”) – là những gì trói chặt
chúng ta vào
vòng sinh tử – chạy khắp các kinh mạch khác nhau. Để
chúng ta thoát khỏi sự
mê lầm, các
năng lực này phải được tịnh hóa và
chuyển hóa thành
năng lực trí tuệ.
Khi
chúng ta nhận lãnh các sự
ban phước tuôn trào như các
tia sáng từ giữa trán của Guru Rinpoche tới riêng ta, mọi
bất tịnh trong các kinh mạch này được tẩy sạch.
Đồng thời,
chúng ta nhận lãnh các sự
ban phước từ thân
kim cương của Guru Rinpoche.
Cái đầu tiên trong bốn
quán đảnh hay
nhập môn là
nhập môn bình chứa, là loại
nhập môn chúng ta thường nhận lãnh từ vị Thầy khi
quán tưởng Bổn Tôn
chính yếu và
toàn thể mạn đà la như đang
hiện diện trong bình chứa được dùng trong
lễ quán đảnh. Rồi
mạn đà la tan ra thành chất
cam lồ, nó làm đầy tràn bình chứa, và
chúng ta nhận lãnh các sự
ban phước từ bình chứa này. Ở đây, nhờ sự hấp thu các
tia sáng vào trán
chúng ta, ta làm mới lại
nhập môn đầu tiên này. Nhờ nó,
chúng ta được
cho phép thực hiện các
thiền định, các sādhana, và các
sự quán tưởng khác nhau của
giai đoạn phát triển, ví dụ những
thực hành về các Bổn Tôn hòa bình và
phẫn nộ. Qua sự
ban phước này,
hạt giống để
trở thành một Vidyādhara
hoàn toàn trưởng thành được gieo trồng trong ta. Với từ Vidyādhara,
chúng ta muốn nói tới bậc mà tâm đã
thuần thục thành
trí tuệ. Mặc dù thân các ngài
tồn tại như một vỏ bao được tạo bởi
ngũ uẩn, nhưng nó sẵn sàng tan
biến thành thân
trí tuệ vào lúc chết. Từ
viễn cảnh của năm
con đường,
nhập môn này
tương ứng với các
con đường của
sự tích tập và hợp nhất. Sự nối kết
tốt lành tất yếu để
thành tựu Hóa Thân, là thân
hiển lộ của Phật, được
thiết lập trong
chúng ta với
nhập môn đầu tiên này.
Kế tiếp, từ giữa cổ họng của Guru Rinpoche,
chúng ta quán tưởng một chữ ĀH màu đỏ. Các
tia sáng chói lọi tuôn ra từ đây, như thể từ một viên rubi (hồng ngọc) sáng rực. Các
tia sáng này được hấp thu vào giữa cổ họng
của riêng ta, ở đó
chúng ta quán tưởng một chữ ĀH
tương ứng. Ánh sáng đỏ này đổ vào
thân thể chúng ta, lan
tỏa ra và tẩy sạch tất cả kinh mạch của ta, như thế tịnh hóa tất cả các
ác hạnh đã mắc phạm qua ngữ, như
nói dối,
phỉ báng, nói tầm phào, và nói ác. Nó cũng tịnh hóa các
năng lực nghiệp mà các
ác hạnh về ngữ cưỡi lên đó.
Đồng thời chúng ta thọ nhận sự
ban phước từ ngữ kim cương của Guru Rinpoche, cũng như
nhập môn thứ hai hay
nhập môn bí mật, thường được vị Thầy
ban cho từ chiếc ly bằng sọ người đựng đầy amrita, chất
cam lồ bất tử. Với
nghi lễ này
chúng ta được
cho phép thực hiện các sự trì tụng khác nhau, và
chúng ta nhận lãnh
hạt giống để đạt tới cấp độ của bậc Vidyādhara có
quyền lực đối với
đời sống. Đây là cấp độ ở đó cả tâm lẫn thân được
chuyển hóa thành
trí tuệ và mối nối kết
tốt đẹp khiến cho
chúng ta thành tựu cấp độ
Báo Thân được
thiết lập trong
con người chúng ta.
Sau đó, giữa trái tim Guru Rinpoche,
chúng ta quán tưởng một chữ HŪNG xanh dương như màu xanh da trời
trong trẻo của bầu trời thu, nó phát ra ánh sáng chói lọi và ánh sáng này được hấp thu vào chữ HŪNG ở giữa trái tim
của riêng ta.
Một lần nữa, ánh sáng này lan tỏa khắp thân ta và chảy qua mọi kinh mạch, tịnh hóa ba
ác hạnh của tâm –
tham muốn,
hiểm ác, và
tà kiến. Nó cũng tịnh hóa các
tinh chất trắng và đỏ, hay thigle, là những thứ tạo nên sự
nâng đỡ của tâm. Vào lúc này
chúng ta thọ nhận những sự
ban phước từ tâm kim cương của Guru Rinpoche, cũng như
nhập môn thứ ba hay
nhập môn trí tuệ.
Chúng ta thường nhận sự
nhập môn trí tuệ này trong khi
quán tưởng vô số các
tia sáng, phát ra từ
thân tướng của tất cả các Bổn Tôn của
mạn đà la, được hấp thu vào chúng. Điều này khiến cho
chúng ta chứng ngộ trí tuệ đại lạc,
thành tựu cấp độ
Pháp Thân, và
trở thành một Vidyādhara mahāmudra (Vidyādhara Đại Ấn). Khi Guru Rinpoche ban
lễ quán đảnh Vajrakīlaya cho các
đệ tử của ngài, ngài mang
hình tướng của Vajrakīlaya ở
trung tâm mạn đà la của ngài.
Năng lực như
thế cho sự phô diễn vô hạn các
hình thức trí tuệ là quả hay
đặc tính của cấp độ Vidyādhara này, được gọi là Mahāmudra vì mahā nghĩa là “lớn” và mudrā nghĩa là “phô diễn.”
Bây giờ một chữ HŪNG màu xanh thứ hai
xuất hiện từ chữ HŪNG ở giữa tim Guru Rin-poche và giống như một ngôi
sao băng xuyên vào giữa trái tim ta để hòa lẫn không thể chia cắt với tâm
chúng ta, làm tràn ngập
toàn thân chúng ta bằng ánh sáng. Điều này
hoàn toàn tịnh hóa các
ô nhiễm vi tế của thân, ngữ, và tâm ngăn che sự
nhận thức và nền tảng
mê lầm của chính các
ô nhiễm, là kunshi. Được gọi là ālayavijnāna (
a lại da thức) trong
Phạn ngữ, trong
thực tế đây là kho chứa mọi khuynh hướng thông thường, cũng như nghiệp tốt và xấu. Đối với hai che chướng, sự
nhập môn này xé toang loại che chướng ngăn trở sự
giác ngộ hay sự thấu suốt
tối thượng.
Màn che này là kết quả của việc
quan niệm một chủ thể, hành động, và đối tượng, tiếng
Tây Tạng gọi là ba khái niệm bao vây. Qua
nhập môn này
chúng ta cũng thọ nhận sự
ban phước của thân, ngữ và tâm của Guru Rinpoche được làm thành một sự hợp nhất.
Nhập môn thứ tư này hay
nhập môn ngôn từ là sự
dẫn nhập vào
trạng thái tự nhiên của mọi
hiện tượng; qua đó
chúng ta trở thành một
pháp khí đích thực đối với
thực hành Dzogchen, Đại
Viên Mãn.
Hạt giống cũng được gieo trồng trong
chúng ta để đạt tới cấp độ của vidyādhara
thành tựu tự nhiên, nó khiến ta
thành tựu tự nhiên năm kāya,(40) là cấp độ của chính Guru Rinpoche. Đây là
Phật Quả tối thượng, sự không thể
phân chia của
ba thân (kāya), hay svabhāvikakāya, Thân
Chân Tánh. Vào lúc này thân, ngữ và tâm
chúng ta trở nên không thể phân cách và đồng một vị với thân, ngữ, và tâm của Guru Rin-poche. Sau đó, an trụ trong sự xả bỏ, trong
trạng thái nhất vị này,
chúng ta tiếp tục trì tụng
thần chú.
Trạng thái này được gọi là “cái thấy khuôn mặt đích thực của
Đạo Sư tuyệt đối.” Như vậy, nếu
chúng ta chứng ngộ được tâm ta chính là
Pháp Thân thì điều đó đồng với việc được nhận lãnh
quán đảnh của tất cả chư Phật trong
quá khứ,
hiện tại, và tương lai.
Có năm cấp độ có thể được
thừa nhận trong sự
thực hành Guru yoga. Cấp độ bên ngoài, để tích tập
công đức,
bao gồm sự quán tưởng
Đạo Sư và đoàn
tùy tùng của ngài trong
không gian trước mặt ta, sự
quy y,
phát khởi Bồ đề tâm,
cúng dường bảy nhánh, và v.v…, trong khi ghi nhớ rằng các Bổn
Tôn chỉ là sự
hiển lộ của
tâm trí tuệ của
Đạo Sư. Cấp độ bên trong, để tịnh hóa những
tri giác của ta, bao hàm
sự quán tưởng
Đạo Sư ở trên đầu mình và thọ nhận các sự
ban phước của ngài. Cấp độ
bí mật, để cho
trí tuệ đột nhiên xuất hiện trong ta, bao hàm
sự quán tưởng
Đạo Sư trong tim ta. Cấp độ
bí mật nhất, trong đó ta
nhận biết Bổn Tôn là chính mình, bao hàm
sự quán tưởng chính mình như một Bổn Tôn,
chứng ngộ rằng thân, ngữ, và tâm mình không hề phân cách với thân, ngữ và tâm của
Đạo Sư, và
xuất hiện trong
hình tướng của Bổn Tôn. Ở cấp độ
tuyệt đối, khi đã hòa
nhập tâm mình với
tâm Đạo Sư, ta
chứng ngộ bản tánh tối hậu của
Đạo Sư, sự mở trống
tuyệt đối không có các khái niệm và
điều kiện, và an trụ không chút
nỗ lực trong
trí tuệ chói sáng không thể nghĩ bàn này.
SỰ CHUYỂN DI VÀO LÚC CHẾT
Sau bốn
nhập môn, và trước khi
kết thúc sự
thực hành,
chúng ta cầu nguyện với
bài kệ này :
Khi
cuộc đời con tới lúc
chấm dứt,
Thân tướng nguyên thủy của con, Vajrayoginī,
Chuyển hóa thành một khối cầu ánh sáng chói ngời
Và hòa lẫn bất khả phân với Đấng
Quý Báu Liên Hoa Sanh,
Cầu mong con
đạt được Phật Quả,
trạng thái hợp nhất vĩ đại,
Trong núi Huy Hoàng Ngayab tự
xuất hiện,
Cõi Phật hóa hiện không hai.
Điều này
ám chỉ lúc chết. Mọi
hiện tượng và
tri giác của
cuộc đời này tan biến, trong khi các
hiện tượng và
tri giác của
đời sau bắt đầu ló dạng. Bị Thần Chết tóm bắt mà không hay biết,
chúng ta không thể
quả quyết rằng mình sẽ được
miễn trừ khỏi nỗi
đau khổ to lớn trong các
đời sau của ta.
Vì vậy, chúng
ta
cần khẩn cầu Guru Rinpoche một cách nhiệt thành :
Guru Rinpoche, vào giây phút này khi cái chết đến, xin thương tưởng tới con với lòng
đại bi của ngài. Không có
thiện tâm bền bỉ của ngài thì việc
giải thoát khỏi sự lang thang trong
vô minh của
luân hồi sinh tử sẽ không bao giờ tới!
Vẫn
tự quán tưởng mình là Vajrayoginī, khi
chúng ta khẩn cầu với lòng sùng mộ mãnh liệt, Guru Rinpoche nhìn xuống
chúng ta với
lòng từ bi vĩ đại và ngài
mỉm cười. Từ
trung tâm tim ngài phát ra những tia ánh sáng đỏ,
chói sáng như
mặt trời mọc, nồng ấm những sự
ban phước, và tràn đầy
lòng bi mẫn và
phúc lạc. Những thứ này tan lẫn vào tim ta. Ánh sáng này giống như một
sứ giả tới mời thỉnh và đưa
chúng ta tới Núi Huy Hoàng Màu-Đồng-Đỏ. Rồi
chúng ta tan ra thành ánh sáng và từ từ hòa tan từ đỉnh đầu và gót chân đến giữa trái tim ta,
biến thành một trái cầu nhỏ có ánh sáng đỏ chói lọi rồi vụt lên bầu trời. Trái cầu ánh sáng đỏ này giống
như tinh túy của lòng sùng mộ của
chúng ta, tung lên, bay vút lên bầu trời để hòa tan vào trái tim
Đạo Sư. Sau đó chính Guru Rinpoche, như một cầu vồng tan biến trong bầu trời, hòa tan thành ánh sáng và tan lẫn với
pháp giới tuyệt đối. Rồi
chúng ta ở trong một
trạng thái bất nhị, không
phân biệt giữa
tâm Đạo Sư và tâm của
chúng ta.
Nếu có thể,
chúng ta nên
an trú trong sự
đơn giản tự nhiên này, trong một
trạng thái nơi
chúng ta không
đi theo các
tư tưởng sinh khởi cũng không
cố gắng ngăn chặn sự
xuất hiện của chúng. Đây là cách tốt nhất trong mọi cách thức để
kết thúc thực hành Guru yoga. Đây cũng là
phương pháp sâu xa và thiết yếu để
thực hiện phowa, sự
chuyển di tâm thức vào lúc chết: nếu bất ngờ hay không
trông đợi,
chúng ta bị
đối diện với cái chết của chính mình,
chúng ta nên
quán tưởng thật
rõ ràng chính mình hòa tan vào trái tim bậc
Đạo Sư và tâm ta hợp nhất với tâm ngài.
Đây là
phương diện giai đoạn
thành tựu của pháp Guru yoga này. Sau đó
chúng ta lập lại câu kệ cuối của bài nguyện ta đã nói ở trước đó:
Con
cầu nguyện ngài từ
đáy lòng con chứ không từ môi miệng, xin
ban cho con những sự
ban phước từ
phạm vi bao la của trái tim ngài khiến mọi
ước nguyện của con có thể được
đáp ứng.
Tâm Guru Rinpoche và tâm
chúng ta trở thành một, và
chúng ta an trụ một lúc trong
trạng thái Không-lạc không bị
ô nhiễm bởi những tạo tác của
tâm thức – là sự
đơn giản tự nhiên của
tâm Đạo Sư.
Khi
chúng ta tỉnh thức từ
trạng thái này,
chúng ta nên
nhận thức rằng mọi
hình tướng là sự
hiển lộ của
Đạo Sư, mọi
âm thanh là
thần chú, và mọi
tư tưởng là sự phô diễn của
trí tuệ. Sau đó, với
lòng từ và bi rộng lớn,
chúng ta nên
hồi hướng công đức sự
thực hành của ta cho tất cả
chúng sinh không ngoại trừ ai và đem lại cho mọi
hoạt động của
chúng ta sự thấu suốt mà ta đã
đạt được trong
thực hành này. Để
hồi hướng,
chúng ta có thể dùng các lời
cầu nguyện được
tìm thấy trong ngưndro hay các
thực hành chuẩn bị
mở rộng của dòng Longchen Nyingthig.
Nói chung,
chúng ta cần
liên tục thực hiện những lời
cầu nguyện rộng lớn cho sự
lợi lạc của tất cả
chúng sinh rằng: “Cầu mong các bậc Thầy được
trường thọ; cầu mong các
giáo lý trường tồn và lan truyền khắp
thế giới; cầu mong con trở nên
lợi lạc vô hạn cho
chúng sinh và cho các
giáo lý.” Khi rơi vào giấc ngủ
chúng ta nên nghĩ: “Cầu mong tất cả
chúng sinh thành tựu trạng thái tuyệt đối”; khi
thức dậy: “Cầu mong tất cả
chúng sinh tỉnh thức trạng thái giác ngộ”; khi
đứng dậy: “Cầu mong tất cả
chúng sinh thành tựu thân tướng của một vị Phật”; khi mặc quần áo: “Cầu mong tất cả
chúng sinh có đức khiêm tốn và cảm thức hổ thẹn”; khi nhóm lửa: “Cầu mong tất cả
chúng sinh thiêu rụi củi
cảm xúc rối loạn”; khi ăn: “Cầu mong tất cả
chúng sinh được dùng
thực phẩm thiền định”; khi mở cửa: “Cầu mong tất cả
chúng sinh mở toang cánh cửa vào thành phố giải thoát”; khi
đóng cửa: “Cầu mong tất cả
chúng sinh đóng lại cánh cửa
đi vào cõi thấp”; khi đi ra ngoài: “Cầu mong con
khởi hành trên
con đường để
giải thoát tất cả chúng sinh”; khi
đi lên dốc: “Cầu mong con đưa tất cả
chúng sinh lên các
cõi giới cao”; khi xuống dốc: “Cầu mong con ra đi để
giải thoát chúng sinh khỏi các cõi thấp”; khi thấy điều
hạnh phúc: “Cầu mong tất cả
chúng sinh thành tựu hạnh phúc của Phật Quả”; khi nhìn thấy nỗi
đau khổ: “Cầu mong nỗi khổ của tất cả
chúng sinh được lắng dịu.” Ta được biết rằng cách thức mà
cuối cùng chúng ta sẽ có thể làm
lợi lạc chúng sinh thì
tùy thuộc vào tầm mức rộng lớn của những lời
cầu nguyện mà ta
thực hiện khi ở trên
con đường. Một trong những lời
cầu nguyện này được Đức Gyalwa Longchenpa
sáng tác là :
Trong mọi
cuộc đời, bất kỳ con sinh ra ở đâu,
Cầu mong con có được bảy phẩm tính cao quý của các
cõi giới cao.
Khi sinh ra, mong cho con được gặp Pháp
Và được
tự do thực hành Pháp trong một cách thế
đúng đắn.
Rồi, làm
vui lòng bậc
Đạo sư linh thánh,
Cầu mong cho con
thực hành Pháp ngày lẫn đêm.
Khi đã
chứng ngộ Pháp và
thành tựu mục đích cốt yếu,
Trong đời đó, mong cho con
vượt qua đại dương sinh tử luân hồi.
Khi dạy
Thánh Pháp cho
thế giới,
Cầu mong con không bao giờ mỏi mệt trong việc
hoàn thành ích lợi của
chúng sinh.
Nhờ con sóng lớn
lợi lạc vô phân biệt cho những người khác,
Cầu mong tất cả
chúng sinh đồng
thành tựu Phật Quả.
Như vậy, điều cốt yếu là phải niêm phong sự
thực hành của
chúng ta bằng cách
hồi hướng công đức cùng với những nguyện ước rộng lớn.