CHÚ THÍCH
1. Samsāra :
Vòng sinh tử vô tận,
bao gồm cuộc đời hiện tại này, nó tràn ngập nỗi
đau khổ.
2. Một tertưn (gter-ston) hay “người
khám phá kho tàng” là một
hiện thân của Guru Padma-sambhava hay của một vị trong các
đệ tử mà ngài đã
ban cho các
lễ quán đảnh và các
giáo huấn ở
Tây Tạng hay các
nơi khác. Khi ấy trong từng thời điểm, ngài
giao phó cho một trong các
đệ tử của ngài để làm người trì giữ một
giáo lý đặc biệt và
tiên tri liên quan tới sự
tái sinh trong tương lai của
đệ tử và các
điều kiện (duyên) nhờ đó người ấy (nam hay nữ) sẽ
khám phá các
giáo lý này. Như thế Guru Rinpoche đã cất dấu
giáo lý, trong
hình thức của một loại chữ Dākinī
tượng trưng, trong các tảng đá, hồ nước v.v…, và giao cho một
Hộ Pháp bảo vệ nó. Sau này, khi tới lúc các
giáo lý này mang lại
lợi lạc cho
chúng sinh, vị tertưn sẽ có các linh kiến hay dấu hiệu chỉ rõ cách
khám phá giáo lý. Trong
trường hợp của “Kho Tàng Tâm,” các
giáo lý không được phát hiện một cách
vật lý nhưng
xuất hiện trong tâm của vị tertưn nhờ sự
ban phước của Guru Rinpoche. Vị tertưn đầu tiên là Sangye Lama (1000?-1080?), và năm vị tertưn “như vua” là Nyangral Nyima Ưser (1124-1192), Guru Chưwang (1212-1270), Dorje Lingpa (1346-1405), Pema Lingpa (1450-?), và Pema Ưsel Do-nga Lingpa (Jamyang Khyentse Wangpo, 1820-1892).
3. Rigdzin Jigme Lingpa (1729-1798) là một
hiện thân của
Đại học giả Vimalamitra, vua Trisong Detsen, Gyalse Lharje, và Ngari Panchen Pema Wangyal (xem chú thích 9), cũng như tái
hiện thân trực tiếp của Rigdzin Chưje Lingpa, cũng được gọi là Dakpo Rogje Lingpa (1682-1725). Sự
hiển lộ của ngài trong
thế giới này đã được
tiên tri bởi các đại tertưn Guru Chưwang (1212-1270), Sangye Lingpa (1340-1396), Chưling, và những vị khác.
Trong thời
thơ ấu ngài đã có nhiều linh kiến về các vị thánh trong
quá khứ. Năm lên sáu tuổi ngài vào
tu viện Palgi Riwo, “Núi Huy Hoàng” và thọ nhận
danh hiệu Pema Khyentse Ưser. Năm mười ba tuổi ngài gặp vị Guru gốc của ngài là Rigdzin Thekchog Dorje, người
ban cho ngài các
giáo huấn thuần thục tinh túy.
Trong đời sau này Jigme Lingpa có nhiều linh kiến về vị Thầy của mình. Ngài cũng nhận lãnh các
giáo huấn về các
truyền thống Kama và Terma từ nhiều vị Thầy khác. Không phải
nghiên cứu miệt mài, nhờ sự
chứng ngộ nội tâm, ngài có thể thấu suốt và
diễn đạt toàn bộ giáo lý Phật giáo. Vào năm hai mươi tám tuổi, ngài làm một cuộc nhập thất-ba năm trong ẩn thất Thigle Nyakchik, “Tinh Túy
Duy Nhất,” gần
Tu viện Palri, lấy Drolthik Shitro của Drodul Lingpa làm
thực hành chính, và ngài có nhiều dấu hiệu
thành tựu. Khi ngài đang
thiền định về Hayagrīva, con ngựa trên đầu Hayagrīva hí lên, và Guru Rinpoche
hiện ra với ngài và
ban cho ngài
danh hiệu Pema Wangchen. Rồi ngài có các linh kiến trong đó kho tàng
tâm linh Longchen Nyingthig được
tiết lộ cho ngài. Như được
mô tả phần
Dẫn nhập, ngài
thực hiện cuộc nhập thất-ba năm khác tại Động Hoa ở Chimphu, phía trên Samye. Sau
thời gian này, theo một linh kiến và
tiên tri của Tsele Natsok Rangdrol (1608-?), ngài đi tới Tsering Jong, không xa lăng mộ của Vua Songtsen Gampo ở Chongye, và tại đó
thành lập ẩn thất Pema Ưsel Thekchog Chưling, nơi
vô số đệ tử đến từ khắp nơi ở
Tây Tạng và các xứ
lân cận. Các
đệ tử chính của ngài, Jigme Trinle Ưser, Jigme Gyalwe Nyugu, Jigme Kundrol, Jigme Gocha, và những vị khác, đã
truyền bá các
giáo lý của ngài đến các
biên giới Trung Hoa, Bhutan, và
Ấn Độ.
Nhờ
năng lực của
lòng bi mẫn và các
lời nguyện của ngài, Longchen Nyingthig của Jigme Lingpa đã
trở thành một trong những
giáo lý thực hành rộng lớn nhất, và vẫn còn
tồn tại trong
thời đại của
chúng ta. Giáo khóa terma được
khám phá lại cùng các
tác phẩm khác của ngài đã được tuyển tập trong chín quyển sách. Trong số này có Yưnten Rinpoche Dzư, trong đó là
tinh túy cô đọng của
Phật đạo. Ở tuổi bảy mươi, khi đã
hoàn thành tất cả các
ước nguyện làm
lợi lạc chúng sinh và
giáo lý, ngài rời bỏ
thế giới này về
cõi Phật Liên Hoa Quang giữa các dấu hiệu
kỳ diệu. Các tái
hiện thân trực tiếp của ngài là Jamyang Khyentse Wang-po (1820-1892), hiện thể về thân của ngài; Patrul Rinpoche Orgyen Jigme Chưkyi Wangpo (1808-1887), hiện thể về ngữ; và Do Khyentse Yeshe Dorje (1800-?), hiện thể về tâm của ngài. Có năm hiện thể chính của Jamyang Khyentse Wangpo và Do Khyentse được
phối hợp, trong những vị đó Jamyang Khyentse Chưkyi Lordư (1893-1959) và H. H. Dilgo Khyentse Rinpoche (1910-1991) đã
hiển lộ hoạt động trùm khắp và không ngừng nghỉ vì
lợi lạc của
chúng sinh và
giáo lý.
4. Urgyen (TT. O-rgyan):
Đức Phật thứ hai, Guru Pemajungne (TT. Padma ‘Byung-gnas; Phạn. Padmākara hay Padmasambhava), vị “Đạo Sư Sinh từ Hoa Sen” là đấng
phù hợp với điều
tiên tri của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đã
hóa hiện từ
trung tâm tim của
Đức Phật A Di Đà và
xuất hiện một cách
huyền diệu trên một
hoa sen trong
thân tướng của một em bé tám tuổi. Ngài dạy tất cả chín thừa,
bao gồm các loại tantra khác nhau, là
giáo lý Đức Phật chỉ giảng dạy
hết sức hy hữu và ở mức độ thông thường.
5. Yeshe Tsogyal (TT. Ye-shes mtsho-rgyal):
Công chúa xứ Karchen, hiện thể của Jetsun Drolma, người
trở thành đệ tử và người phối ngẫu
lỗi lạc nhất của Guru Rinpoche. Bà ghi chép hầu hết các
giáo lý của Guru Rinpoche được cất dấu như các terma.
6. Palri Thekchogling (TT. dPal-ri theg-mchog-gling): Một
tu viện được Tertưn Trengpo Sherap Ưser (1517-?)
sáng lập ở Chongye, trong thung lũng Yarlung (ở phía đông nam Samye miền trung
Tây Tạng).
7. Một trăm Bổn Tôn hòa bình và
phẫn nộ (TT. Zhi-khro dam-pa rigs-rgya)
tượng trưng cho các
phương diện thuần tịnh của các
hiện tượng và
tri giác thông thường bên trong và bên ngoài. Ví dụ như,
năm uẩn (sắc, thọ v.v…) là các vị Phật nam của
Ngũ bộ Phật, và năm
nguyên tố (đất, nước v.v…) là các vị Phật nữ của
Ngũ bộ Phật.
8. Jampal She-nyen (Phạn. Manjusrīmitra):
Dòng truyền thừa Đại
Viên Mãn, hay Ati Yoga, bắt đầu với Phật
nguyên thủy Samantabhadra (
Phổ Hiền), và sau đó
tiếp tục với Vajrasattva, Garab Dorje – vị Guru đầu tiên trong
loài người – và Jampal She-nyen. Theo một
tiên tri được
ban cho trong một linh kiến của Đức
Văn Thù, Jampal She-nyen đi tới gặp Guru của mình là Garab Dorje, và theo hầu ngài trong bảy mươi lăm năm. Khi Garab Dorje
thành tựu thân ánh sáng và biến mất vào bầu trời, và khi Jampal She-nyen than khóc trong sự
hoàn toàn tuyệt vọng thì bàn tay của Garab Dorje lại
xuất hiện trong bầu trời và thả xuống cho Jampal She-nyen một cái hộp đựng các
giáo huấn cốt tủy của “Ba Lời đánh vào điểm trọng yếu” (TT. Tshigs gsum gnad rdegs). Jampal She-nyen là
Đạo Sư của Srī Simha, là người
trở thành Đạo Sư của Guru Padmasambhava và Vimalamitra.
9. Ngari Panchen Pema Wangyal (1487-1542) (TT. mNgá-ris panchen pad-ma dbang-rgyal): Một trong năm vị hiện thể tertưn của Vua Trisong Detsen. Ngài cũng là
tác giả của
tác phẩm nổi tiếng Domsum Namnge (TT. sDom gsum rnam nges), nó
giảng giải ba giới nguyện prāti-moksa (
giải thoát cá nhân),
Bồ Tát, và Mật thừa, và cách chúng tương quan
với nhau.
10. Dorje Drolư (TT. rDo-rje gro-lod): Trong nhiều dịp, Guru Padmasambhava
hiển lộ trong tám
phương diện khác nhau, được gọi là Guru Tsen Gye (Gu-ru mtshan brgyad). Trong những
phương diện này, Guru Dorje Drolư, thường cưỡi trên một con hổ cái, là một
thân tướng phẫn nộ mà Guru Rinpoche đã
hiển lộ khi
điều phục các
thế lực tiêu cực và khi cất dấu
vô số kho tàng
tâm linh ở Paro Tak-tsang và các
nơi khác.
11. Damchen Dorje Lekpa (TT. Dam-can rdo-rje legs-pa): Cùng với Mamo Ekajatī và Rāhula, Damchen Dorje Lekpa là một trong ba
Hộ Pháp chính của
truyền thống Nyingma.
12. Yidam (TT. yi-dam): Trong ba cội gốc – Lama, Yidam, và Khandro – Yidam hay Bổn Tôn
bảo hộ, là cội gốc của
thành tựu tâm linh. Đó có thể là một Bổn Tôn hòa bình hay
phẫn nộ được (hoặc không được) vây quanh bởi một
mạn đà la và một đoàn
tùy tùng, mà người ta
thiền định.
Tính chất tượng trưng của nó được
giải thích trong các
thực hành liên quan.
Bài kệ được Damchen Dorje Lekpa nói ra là một
bài kệ cầu nguyện “Sampa Lhundrup”, bài nguyện “Sự
Hoàn thành Tự nhiên Mọi Ước nguyện”, được
tìm thấy trong terma của Rigdzin Gưdem.
13. Núi Huy Hoàng Màu-Đồng-Đỏ (TT. Sangdo-palri [Zang mdog dpal ri]): Cõi
Cực Lạc của Guru Padmasambhava, trên tiểu lục địa Ngayab, ở
hướng tây nam.
14. Jarungkashor (TT. Bya-rung bka’-shor): Tháp (stupa)
nổi tiếng được một người đàn bà nuôi gà vịt và bốn con trai của bà
xây dựng ở Nepal để
bảo vệ một vài
xá lợi của
Đức Phật Ca Diếp (xem Huyền thoại của
Đại Bảo Tháp). Bốn người con trai này, do
năng lực của sự
cầu nguyện họ đã
thực hiện sau khi
hoàn thành công trình, đã được
tái sinh là Guru Padmasambhava,
Tu viện trưởng Sāntaraksita, Vua Trisong Detsen, và Ba Mi Trisher (một thượng thư
Phật tử).
15. Dākinī (TT. khandro [mkha-’gro]) là
phương diện nữ,
tượng trưng cho
trí tuệ của
tánh Không. Theo
nghĩa đen, khandro có nghĩa là “người
du hành trong
pháp giới,” và
biểu thị việc chuyển động trong
phạm vi trí tuệ.
16. Vua Trisong Detsen (790-844) (TT. Khri-srong ldeu-btsan):
Pháp Vương vĩ đại, người đã
thỉnh cầu Tu viện trưởng Sāntaraksita (TT. Shi-watso) – cũng được gọi là Khanchen Bodhisatto – và Guru Padmasambhava từ
Ấn Độ để
xây dựng tu viện Samye và
thiết lập Phật giáo Tây Tạng. Sau đó, ngài
cầu thỉnh một trăm lẻ tám
đại học giả Ấn Độ dưới sự dẫn dắt của Vimalamitra để dịch thuật tất cả các
Kinh điển Phật giáo sang tiếng
Tây Tạng,
đồng thời với số
học giả Tây Tạng tương tự do ngài Vairocana hướng dẫn. Cùng với hai mươi lăm
đệ tử chính yếu khác của Guru Rinpoche, ngài nhận lãnh
lễ quán đảnh đầu tiên do Guru Rinpoche
ban cho ở
Tây Tạng, tại
tu viện Samye Chimphu. Về sau, ngài
liên tiếp tái sinh làm nhiều vị thánh và tertưn vĩ đại, trong đó có Rigdzin Jigme Lingpa và Jamyang Khyentse Wangpo.
17. Samantabhadra (TT. Kun-tu bzang-po):
Đức Phật Phổ Hiền, Phật
nguyên thủy, là đấng khi
hiển lộ từ nền tảng
nguyên thủy, đã
trở thành một vị Phật nhờ
nhận ra sự
sanh khởi này không là gì khác hơn là sự phô diễn của
tự tánh ngài. Vì thế ngài không
trở thành một vị Phật nhờ
sự tích tập
công đức và
trí tuệ – nghĩa là, nhờ
nguyên nhân và
hoàn cảnh (nhân và duyên).
18. Rāhula (TT. gZa’): xem chú thích 11.
19. Đấng Bi Mẫn Vĩ Đại (TT. Thugs-rje chen-po): Một
danh hiệu phổ biến của Đức
Quán Thế Âm (TT. sPyan ras gzigs; Phạn. Avaloki-tesùvara), vị Phật của
lòng bi mẫn.
20. Samye (TT. bSam-yas):
Tu viện đầu tiên ở
Tây Tạng do Guru Padmasambhava
xây dựng, nơi những
Kinh điển Phật giáo được dịch ra tiếng
Tây Tạng và là nơi Guru Rinpoche ban nhiều
giáo lý và những lễ
nhập môn sâu xa.
21. Kunkhyen Longchen Rabjam (1308-1363) (TT. Kunmkhyen klong-chen rab-’byams): Bậc xuất sắc nhất trong tất cả các
học giả và các vị thánh Nyingmapa, người đầu tiên
biên soạn các
ý nghĩa của mười bảy tantra của Ati Yoga (rDzogs-chen rgyud bcu-bdun), trong
tác phẩm nổi tiếng Bảy Kho Tàng (mDzod-bdun) của ngài, nó cũng chứa đựng một trình bày
hoàn hảo về chín thừa. Trong các linh kiến, ngài gặp Guru Rinpoche và Khandro Yeshe Tsogyal, và
bản thân ngài đã đạt tới cấp độ của
Đức Phật nguyên thủy Samantabhadra (
Phổ Hiền).
22. Vimalamitra (TT. Dri-me she-nyen [Dri-med bshes-bsnyen]):
Học giả vĩ đại người
Ấn Độ,
hiện thân của Đức
Văn Thù, vị Phật của
trí tuệ, và là
đệ tử của Srī Simha và Jnānasūtra. Ngài tới
Tây Tạng, phô diễn
vô số điều
huyền diệu, và hướng dẫn các
học giả Ấn Độ tham dự vào việc dịch thuật
Kinh điển Phật giáo. Sự truyền dạy các
giáo lý Dzogchen của ngài, Vima Nyingthig, được phó thác cho Nyang Wen Tingdzin Zangpo (Nyang-wen ting-’dzin bzang-po).
23. Drati Rikpe Dorje, vị “yogi khùng điên ở Kongpo” (TT. bKra-ti rig-pa’i rdo-rje): Một hiện thể của Gelong Namkhe Nyingpo (Nam-mkha’i snying-po), một trong những người
lỗi lạc nhất trong hai mươi lăm
đệ tử của Guru Rinpoche. Ngài là
đệ tử thân cận của Jigme Lingpa. Ngài cũng
thỉnh cầu Jigme Lingpa
sáng tác bài
cầu nguyện nổi tiếng về “Nền tảng,
Con Đường và Quả” của Đại
Viên Mãn.
24. Đại
Viên Mãn hay
Đại Toàn Thiện (TT. rDzogs-pa chen-po): Thừa thứ chín và
tối hậu. Nó
ám chỉ sự thuần
tịnh nguyên thủy của tất cả các
hiện tượng và sự
hiện hữu tự nhiên các phẩm tính của Phật trong tất cả
chúng sinh. Nó được gọi là Đại
Viên Mãn bởi mọi
hiện tượng được
bao gồm trong sự
viên mãn nguyên thủy này. Đại
Viên Mãn có ba
dòng truyền thừa chính: dòng Khandro Nying-thig (mKha-’gro snying-thig), đến từ Guru Rinpoche; dòng Vima Nyingthig (Bi-ma snying-thig), đến nhờ Vimalamitra; và Vairo Nying-thig (Bai-ro snying-thig), đến nhờ Vairocana.
25. Kinh mạch: Các mạch
vi tế (TT. rtsa), trong đó
luân chuyển các
năng lực khác nhau (rlung) của
thân thể, các
năng lực chuyên chở dọc theo những mạch này các
tinh chất trắng và đỏ (thig-le). Trong
trạng thái mê lầm, ba thứ này được
liên kết với ba độc là tham, sân và si; trong
trạng thái trí tuệ chúng được
liên kết với ba kāya (
ba thân) (xem chú thích 29).
26. Tư thế bảy điểm của Vairocana (TT. rNam-snang chos bdun):
(1) Chân xếp chéo trong tư thế
kim cương, chân phải ở trên chân trái.
(2) Hai bàn tay nắm lại thành nắm đấm, với ngón tay cái ép vào gốc ngón thứ tư, được đặt trên bắp đùi nơi khớp nối với xương chậu và khuỷu tay khi ấy được khóa chặt lại. (Hai
biến thể của tư thế này là đặt lòng bàn tay ngửa lên, tay phải trên tay trái nơi chỗ trũng, với khuỷu tay hướng về phía sườn, hoặc đặt cả
hai lòng bàn tay úp xuống, thư giãn, trên đầu gối.)
(3) Hai vai giương ra và hơi ngả về phía trước.
(4) Xương sống cần giữ thẳng, “giống như một cọc tiền vàng.”
(5) Cằm hơi gập xuống hướng về cổ họng.
(6) Đầu lưỡi nên uốn cong lên chạm vào vòm miệng.
(7) Mắt nên giữ
bất động tập trung vào một khoảng cách bằng bề rộng mười hai ngón tay ở phía trước đầu mũi, không nháy mắt.
27. Nước có tám phẩm tính (TT. chu yan-lag brgyad ldan): Nước mát, ngọt, thanh, dịu, trong,
tinh khiết, và làm dạ dày khó chịu cũng không làm đau cổ họng.
28. Tám thức:
(1)
Thức căn bản không có tính
quyết định và
vô định hình, đã bị
vô minh che chướng, nhưng không có tính
quyết định đối với
thiện hạnh và
ác hạnh.
(2-6) Thức
liên kết với mỗi một trong năm
giác quan.
(7)
Ý thức hay
nhận thức về các thức.
(8)
Mạt na thức là thức bị
ô nhiễm chủ yếu là bởi các
phiền não (Phạn. klesùas).
Sáu thức đầu không tích
tập nghiệp, trong khi hai thức sau thì có.
29. Các kāya: Các
phương diện khác nhau của
Phật Quả. Ta
nhận ra hai, ba, bốn, hay năm kāya.
Hai kāya: Dharmakāya (
Pháp Thân), thân
tuyệt đối; và Rūpakāya (
Sắc thân),
thân sắc tướng.
Ba kāya: Dharmakāya hay thân
tuyệt đối ; Sambhogakāya (
Báo Thân), hay thân hỉ lạc
thiêng liêng; và Nirmānakāya (
Hóa Thân), hay thân
hiển lộ. Các thân này
tương ứng với tâm ngữ, và thân của một vị Phật
Giác ngộ và được
biểu lộ như
năm trí tuệ.
Bốn kāya: Svabhāvikakāya, hay thân cốt tủy, được thêm vào cho ba kāya và
tượng trưng cho tính bất khả phân của chúng.
Năm thân: đối với ba kāya, người ta thêm vào Avikāravajrakāya, “Thân
Kim cương bất biến,” và Abhisambodhikāya, “Thân
Toàn Giác.”
30. Các trường phái và
dòng truyền thừa: Tám trường phái đầu được gọi là “tám thừa của dòng
thành tựu,” trong khi trường phái thứ chín là Geluk cũng được gọi là Kadam Sarpa, Tân Kadam. Các
chi tiết về tám thừa này có thể được
tìm thấy trong tuyển tập Damnga Dzư (TT. gDams-ngag mdzod), trong đó các
giáo huấn chính yếu của tám dòng này đã được ngài Jamgưn Kong-trul Lodrư Thaye (’Jam-mgon kong-sprul blo-gros mtha-yas) thâu thập lại thành mười tám quyển.
31. “Xứ sở của Đấng Cao Quý” (Phạn. Āryāvarta)
ám chỉ xứ
Ấn Độ, được gọi như thế vì ở nơi đó
Đức Phật đã sống và
thành tựu sự
Giác ngộ.
32. Tīrthika
nghĩa đen là “những người
cư ngụ trên bờ sông,” như nhiều nhà
khổ hạnh người
Ấn Độ hoặc sống gần các bờ những con sông
linh thiêng hoặc thường đi
hành hương tới đó. Nói rộng ra,
thuật ngữ này
ám chỉ một người
trung thành với bất kỳ
lý thuyết nào khác hơn là
Phật Pháp.
33. Ba
lời nguyện (TT. sdom gsum) :
(1) Các
lời nguyện prātimoksa
liên quan tới tất cả các
giới luật cư sĩ và
tu sĩ về hạnh kiểm
đạo đức được
Đức Phật giảng dạy trong Luật.
(2) Các giới nguyện bodhisattva (
Bồ Tát) trong
thực chất là
ước nguyện phát triển,
nuôi dưỡng, và
giữ gìn giới nguyện để
hồi hướng mọi
tư tưởng,
lời nói, và hành động của ta độc nhất vì
lợi lạc của những người khác. Một cách
tương đối, các giới nguyện này có nghĩa là sự
thực hiện lòng từ ái,
lòng bi mẫn, và
sáu ba la mật,
cuối cùng dẫn dắt tất cả
chúng sinh tới sự
Toàn Giác.
(3) Các giới nguyện samaya là các mối
liên hệ có
tính chất nghi lễ được tạo nên khi một
đệ tử phụng sự một
Đạo Sư tâm linh và nhận từ ngài một lễ
nhập môn. Mặc dù có nói rằng có một trăm ngàn samaya trong Mật thừa, chúng có thể được cô đọng lại thành các samaya
liên quan với thân, ngữ, và tâm của Guru.
34. Bardo hay “trạng thái trung gian” thường
ám chỉ trạng thái và khoảng
thời gian xảy ra giữa cái chết và sự
tái sinh kế tiếp.
Chính xác hơn, người ta có thể
nhận thức sáu bardo: bardo ï sinh ra và
đời sống, bardo
thiền định, bardo
giấc mộng, bardo vào lúc chết, bardo
bản tánh tuyệt đối, và bardo khi
tìm kiếm một
hiện hữu mới.
35.
Thanh Văn và Phật
Độc Giác, “những bậc nghe” và “những đấng tự mình
thành Phật,” tạo thành
Tăng đoàn hay
cộng đồng của
Tiểu thừa.
36. Ba nơi chốn hay các mặt phẳng trong không trung, trên mặt đất, và dưới lòng đất.
37. Ở đây cũng như ở chỗ khác, các
bài kệ cốt lõi được bàn rộng nhờ
luận giải do Đức Dilgo Khyentse Rinpoche
ban cho.
38. Năm bộ Phật:
Pháp Thân,
trạng thái tuyệt đối, tự
biểu lộ thành
năm trí tuệ và năm bộ Phật –
Phật bộ,
Kim Cương bộ,
Bảo Sanh bộ,
Liên Hoa bộ, và
Nghiệp bộ – của
Báo Thân, thân
vi tế của sự hỉ lạc
thiêng liêng. Chỉ có chư Phật
giác ngộ mới
hoàn toàn nhận thức được
Báo Thân này. Chư vị
Bồ Tát an trụ trong một trong mười cấp bậc hay bhūmi (địa)
nhận thức được một phần.
39. Mười hai nhánh
giáo lý :
(1) mdo-sde: Các
kinh điển trong đó
ý nghĩa cô đọng (mdor-bsdus) được sắp xếp thành các tiết đoạn (sde).
(2) dbyangs-bsnyad: trong đó các
giáo lý trước đây được trình bày trong một cách thức rất
chi tiết và bằng
văn xuôi, thì nay được
tuyên thuyết (bsnyad) thành các bài thi kệ (dbyangs).
(3) lung-bstan: trong đó các
tiên tri được
ban cho liên quan tới các
thời đại tương lai.
(4) tshigs-bcad: là loại được viết thành kệ từ
lúc đầu.
(5) chad-du brjod-pa: các
giáo lý được trình bày (brjod-pa) có
chủ đích (chad-du) để
giữ gìn giáo thuyết, mà không có bất kỳ ai
đặc biệt thỉnh cầu chúng.
(6) gleng-gzh: trong đó các
giáo lý phức tạp được
ban cho trên nền tảng (gzhi) của một
thuyết giảng (gleng) đã được
ban cho như một
giới luật theo sau một vài hành động không
đúng đắn do người nào đó mắc phạm.
(7) rtogs-brjod: trong đó các
câu chuyện được
Đức Phật kể lại về những
hành vi đương thời do những người khác làm.
(8) de lta-bu byung-ba:
ý nghĩa đã xảy ra như vậy, trong đó thuật lại các
câu chuyện trong
quá khứ.
(9) skye-rabs: trong đó thuật lại những chuỗi (rabs) những sự sinh ra đời (skye) trong
quá khứ của
Đức Phật khi Ngài là những vị
Bồ Tát.
(10) shin-tu rgyas-pa: trong đó các
giáo lý rộng lớn và
sâu xa được trình bày cực kỳ
chi tiết.
(11) rmad-byung: trong đó trình bày các
giáo lý kỳ diệu và
phi thường chưa bao giờ được
tiết lộ trước đó.
(12) gtan la dbab-pa: trong đó
ý nghĩa của Luật và Kinh được
thiết lập với sự
chính xác nhờ các phân loại (rab-dbye) về các uẩn, các
nguyên tố (đại),
các chủ thể và đối tượng của sự
nhận thức, và các Pháp khác về
luân hồi sinh tử; sự
mô tả (rnam-bzhag) các giai đoạn,
con đường, các
sự thiền định, và các Pháp khác của
con đường; sự
liệt kê (rnam-grangs) về các kāya (thân), các
trí tuệ, và các Pháp khác về quả.
40. Năm kāya: Xem chú thích 29.
41. Kama (TT. bKa’-ma): Sự
khẩu truyền dài, được truyền lại không đứt đoạn từ thời Đức Guru Rinpoche. Nó
bao gồm các sự
thực hành chính, các
nhập môn,
giáo huấn, và các luận giảng của
truyền thống Nyingma.
Trước tiên nó được tập hợp thành một tuyển tập các
giáo lý bởi Minling Terchen Gyurme Dorje (cũng được gọi là Rigdzin Terdak Lingpa; TT. Rig-’dzin gter-bdag gling-pa [1646-1714]), vị tertưn và
sáng lập vĩ đại của Mindroling (TT. smin grol gling) và đã được trao truyền như thế mãi cho tới
thời đại của chính
chúng ta. Được kể đến là
dòng truyền thừa dài, so với dòng ngắn hay trực tiếp của Terma.
42. Xem chú thích 30.
43. Trekchư và thưgal (TT. khregs-chod và thod-rgal): Những
thực hành về việc cắt đứt tính
vững chắc của sự bám chấp và về cái thấy trực tiếp, hai
thực hành này
liên quan tương ứng với sự thuần
tịnh nguyên thủy (ka-dag) và sự
thành tựu tự nhiên (lhun-drup).
44. Yeshe Lama (TT. Yeshes bla-ma): Các
giáo lý từ Longchen Nyingthig trình bày các
thực hành trekchư và thưgal.
45. Bốn
hoạt động (TT. las-bzhi): Làm
an định (
tức tai), làm
tăng trưởng (
tăng ích), làm chủ (
kính ái), và làm
hàng phục với sự
phẫn nộ (
hàng phục).