Thi tính phản
ảnh thật rõ nét qua kinh sách cũng như phong cách của những người tu hành đã
ảnh hưởng sâu đậm đến các sinh hoạtvăn hóa của hầu hết các quốc giaPhật Giáo Á
Châu. Thi phú nói chung có khả năng khơi động những xúc cảm sâu kín và thanh
cao nơi con người giúp họ vượt lên trên các bản năngthô thiển và trói buộc của
sự sống. Thi phú Phật Giáo nói riêng còn vượt xa hơn cả khả năng ấy bằng cách
mang lại cho chúng ta một sự bén nhạy nào đó giúp chúng tamở rộng con tim và
tâm hồn mình hướng vào một bầu không gian cao đẹp, thanh thoát và tràn ngập yêu
thương.
Sự mở rộng đó giúp
chúng taloại bỏ được mọi thứ lo âu và sợ hãi trong cuộc sống, hầu giúp chúng
ta quán thấy được bản chất của hiện thực trong những thể dạng tinh khiết nhất
của nó. Thi tính bàng bạc và thấm đượm trong mọi sinh hoạttâm linh của những người
tu hành cũng như trong tâm hồn của những người thế tụcxuyên qualịch sử phát
triển lâu dài của Phật Giáo, và đã để lại cho chúng ta hôm nay một kho tàng thi
phú thật dồi dào.
Trước hết chúng ta hãy đơn cử một
vài thí dụ nói lên khía cạnh thi tính trong kinh sách và sau đó sẽ trích dẫn
một vài vần thơ do những người tu hành trước tác xuyên quakhông gian và thời
gian trên dòng lịch sửPhật Giáo.
Trong Kinh Kim Cương có nêu lên một
câu giảng đầy thi vị của Đức Phật nói lên bản chấtvô thường và lệ thuộc của
mọi hiện tượng trong thế giới, nhằm để cảnh giác tất cả chúng ta:
"Như
những vì sao, những con ruồi đang bay hay ánh lửa của một ngọn đèn dầu,
Như một ảo giácma thuật, một giọt sương mai hay một bọt bong bóng,
Một giấc mơ, một tia chớp hay một áng mây bay,
Đấy là cách phải nhìn vào mọi hiện tượng tạo tác từ những điều kiện
trói buộc"
Câu giảng trên đây mang một nội dung triết học thật sâu sắc, thế nhưng những
hình ảnhsử dụng lại thật hết sức giản dị và đầy thi tính. Sự giản dị và thi
tính giúp cho câu giảng vượt lên trên mọi hình thứclý luậndông dài và mang
lại những xúc cảm có thể đi thẳng vào con tim và cả lý trí của chúng ta. Thật vậy,
những lời giảng huấn của Đức Phật luôn mang lại cho chúng ta một sức mạnh xúc
cảm sâu kín và thiêng liêng. Sự sinh động đó đã góp phần không nhỏ vào việc bảo
tồn và lưu truyềngiáo huấn của Đấng Thế Tôn từ những thời kỳtruyền khẩu, sau
đó là những tờ kinh bằng lá bối, mãi cho đến ngày nay với những phương tiệntruyền thông tân tiến.
Kinh điển bằng tiếng
Pa-li ghi chép lại những lời giảng huấn của Đức Phật thường hàm chứa nhiều thi
tính. Thí dụ như bài kinh ngắn Aditta-sutta sau đây trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya, I, 41). Chữ Pa-li
aditta có nghĩa là
sự bốc cháy, do đó có thể tạm dịch tựa của bài kinh này là Bài Kinh về
trận Hỏa Hoạn. Tuy
đề cập đến một trận hỏa hoạn thế nhưng bài kinh lại là một bài thơ, và bối cảnh
thuyết giảng cũng hết sức thi vị và thiêng liêng. Nơi vườn Kỳ Viên giữa đêm
thanh vắng một tiên nữ từ trên không trung hiện ra, ánh hào quang từ trên cao tỏa
sáng cả khung cảnh mênh mông. Tiên nữ đến đảnh lễĐấng Thế Tôn đang ngồi thiềnmột mình trong đêm rồi lùi lại và ngồi sang một bên. Đấng Thế Tôncảm ứng cho nàng
tiên nữ hát lên một bài hát cho hàng ngàn thí chúng và các đệ tử của Ngài nghe,
họ đang mơ màng và nằm rải rác trong khắp khu vườn rộng lớn. Sau đây là phần chuyển
ngữ của bài kinh này dựa theo bản dịch tiếng Anh của Thanissaro Bhikkhu:
"Tôi từng được nghe như vầy: Có một
lầnĐấng Thế Tôn đang ngụ tại tu viện của ngài Cấp Cô Độc (Anathapindika) trong
khu vườn Kỳ Viên, gần thành Xá-Vệ (Savatthi). Vào lúc nửa đêm, hiện ra một nữ
thiên nhân (devata) tỏa ánh hào quang chiếu sáng cả khu vườn. Vị tiên nữ tiến
đến gầnĐấng Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên. Sau khi ngồi sang một bên bèn
cất tiếng hát lên bài hát sau đây:
"Khi căn nhà bốc cháy, Những gì còn sót lại, Là những vật đã cho. Kìa của cải giữ lại, Đang hóa thành bụi tro.
Cả thế gian bốc cháy! Tuổi già thanh củi mục, Cái chết ngọn lửa hồng. Bảo toàn nhanh của cải: Hiến dâng bằng hai tay.
Vật cho là quả ngọt, Giữ lại, mối lo buồn: Nào vua quan dòm ngó, Nào kẻ trộmrình mò, Hỏa hoạn, một đống tro.
Kìa thân xác bỏ lại, Nằm kia cùng của cải. Hỡi những ai tỉnh ngộ! Nắm lấy hạnh phúc này, Bằng hai tay để ngửa.
Hân hoan đôi bàn tay, Dù chỉ là ít ỏi, Một chút này hiến dâng. Con đường nào rộng mở, Cõi thiên nhân đón chờ".
Rung
động và thi tính thoát ra từ những lời giảng huấn của Đức Phật cũng đã truyền
sang cho cả các đệ tử của Ngài, bởi vì chính họ cũng đã lưu lại cho chúng ta
hôm nay những vần thơ thật tuyệt diệu. Tiểu
Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) gồm tất
cả 15 phẩm, trong đó phẩm 8 mang tên là Trưởng
Lão Tăng Kệ(Thera-gatha), phẩm 9 là Trưởng Lão Ni Kệ (Theri-gatha), cả hai phẩm này đều là những bài thơ rất súc tích. Xin
trích dẫn dưới đây một vài đoạn trong Trưởng
Lão Tăng Kệ,
các đoạn này được xem là do Ma-ha Ca-diếp (Mahakasyapa) một đệ tử rất uyên bác
của Đức Phật trước tác:
Dưới những đám mây xanh biếc, Trong veo, xuôi dòng những con sông nước mát. Hai bờ đầy những côn trùng (1), Trông kìa rặng núi đá tôi mê say. (.....) Tương tự màu biếc hoa cỏ gai, Giữa bầu trời mùa thu mây giăng, Bay đầy những đàn chim đủ loại. Trông kìa rặng núi đá tôi mê say.
Dãy đồi kia người thế tục nào đến đấy làm gì. Chỉ có những đàn hươu thong dong, Giữa trời, bay đầy những đàn chim đủ loại, Trông kìa rặng núi đá tôi mê say.
Nơi này trong những hẻm vực nước tuôn, Chỉ toàn vượn hươu lai vãng, Mát rượi một thảm rêu phủ dầy. Trông kìa rặng núi đá tôi mê say.
(1): nguyên bản tiếng Pa-li là indagopaka, từ điển tiếng Pa-li cho biết đấy là một loài sâu bọ màu đỏ từ dưới đất chui lên, có thể đây là những con giun đất (?). (Dựa theo bản dịch của Nyanapotika Thera và Helmuth Hecker trong quyển Les Grands Disciples du Bouddha, Tập I, tr. 215-216). Cũng xin nhắc thêm là bài thơ này có thể là một trong những bài thơ xưa nhất của nhân loại vì đã được trước tác cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm (?).
Nếu hiện thực chỉ có thể cảm nhận được một cách trực tiếp bằng trực giác thì thi tính cũng chỉ có thể cảm nhận được bằng con tim của mỗi người. Mỗi bức tranh là một bài thơ câm lặng, mỗi bài thơ là một bức tranh không lời. Một vần thơ tự nó luôn câm nín tương tự như một bức tranh lúc nào cũng yên lặng và vô tình. Chúng chỉ có thể bật lên thành tiếng nói trong bầu không gianmở rộng của con tim của chính chúng ta mà thôi. Vậy chúng ta hãy thử lắng nghe tiếng nói đó vang lên trong lòng của thiền sưĐạo Nguyên (Dôgen, 1200-1253):
Mỗi âm thanh lọt vào tai tôi Đều hóa thànhlời nói. Ô kìa, đúng là tiếng nói Của một người bạn chân tình! Thế nhưng lạ thật, Chẳng có một tiếng động nào cất lời với tôi. (Theo bản dịch tiếng Pháp của Alain Grosley, Le grand livres du Bouddhisme, 2007, tr. 493)
Có phải chăng sự yên lặng mênh mông đó chính là Hiện Thực, là người bạn của Đạo Nguyên, một người bạn luôn bên cạnh ông và đang réo gọi ông trong yên lặng? Thi phú rất gần với sự bén nhạy của tất cả những người tu tậpPhật Giáo nói chung, thế nhưng hình như cũng đã đặc biệt thấm sâu vào mạch máu của những người tu thiền nói riêng. Tuy tâm hồn và con tim của họ luôn trong sáng và thanh thản, thế nhưng đồng thời cũng căng thẳng như một sợi dây đàn, sẵn sàng vang lên những âm thanh tỏa rộng trong không gian.
Sau đây là hai trích dẫn trong một tập công án mang tên là « Zen-rin-kushu », góp nhặt một vài vần thơ thuộc thế kỷ XVI của thiền học Zen Nhật Bản:
Một hạt bụi thật nhỏ Cất chứa toàn vũ trụ. Một đóa hoa nở rộ, Toàn thế giới đứng lên.
Vốc nước mát, Trăng rơi vào hai tay. Với cành hoa, Hương thơm vương trên áo.
(Theo bản dịch của Alain Grosley, id, tr. 482) Sau đây là trích dẫn một vài vần thơ tiêu biểu của một vài quốc giaxuyên qualịch sửlâu dài của Phật Giáo.
Thi phú Phật GiáoẤn Độ
Thế Thân (?316-396)
Thế
Thân (Vashubandu) là một vị đại sư thuộc Duy Thức Tông thế nhưng ông đã trước
tác một tập thơ rất nổi tiếng về Tịnh Độ là Abhidharmakosa
(A-tì-đạt-ma Câu Xá Luận) gồm tám
mươi tiết nêu lên ước vọng được tái sinh vào cõi Tịnh Độ. Sau đây là hai tiết trong
số tám mươi tiết của bài thơ này:
Tiết 3
Tôi kính phục những phẩm tính của cõi ấy (tức là cõi Tịnh Độ) Một cõi vượt lên trên tam giới. Thật thế đấy là một cõi tương tựnhư không gian, Mênh mông, vĩ đại và vô tận!
Tiết 10
Hoa, y phục và trang sức từ không trung rơi xuống khắp nơi, Tỏa hương thơm ngát. Trí tuệ của Phật rực sáng như mặt trời, Làm tan biến bóng tối và những mê cuồng của thế gian.
(Theo bản dịch của Jean Eracle, trong quyển: Trois soutras et un traité de la Terre Pure, 2008)
Thi phú Phật Giáo
Tây Tạng
Thi phú phản ảnh thật rõ
rệt trong các bài hát, các bài tụng niệm cũng như các bài kinh tan-tra. Ngay cả
các tập luận giải mang tính cáchtriết học cũng thường được trước tác dưới thể dạng
thơ. Sau đây là một vài trích dẫn:
Tsangyang Gyatso (Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI, 1683-1706)
Nụ hôn của sương giá thổi lên cỏ Những cơn gió buốt, Thở vào hoa những mối tương giao Nhằm réo gọi những đàn ong.
Những ai không hề biết suy tư Về vô thường và cái chết, Là những người khôn ngoan, Hay là những kẻ điên loạn?
Những con thiên nga Lưu luyến những bờ hồ xanh mát. Thế nhưng khi nước đóng băng và giá buốt, Chúng cũng sẽ bay đi và không hề hối tiếc!
Các dấu triện in lên tờ giấy, Nào phản ảnh được tư duy của chính mình! Chỉ nên sử dụng dấu ấn của tâm thức Để in sự thật lên mọi vật thể chung quanh!
(Theo bản dịch của A. Grosley, id, tr. 490) Hiện thực không thể nào diễn đạt được bằng lời nói cho người khác nghe hay bằng chữ viết cho người khác đọc, mà mỗi người chỉ có thể cảm nhận được bằng tâm thức của chính mình. Các tư tưởngtriết học trên đây thật sâu sắc thế nhưng đã được diễn đạt bằng thi phú và bằng những hình ảnh thật cụ thể. _____
Shabkar (1781-1851) Phải thường trú trong bầu không gianbao la, Sinh động và trong sáng. Phải hướng tầm nhìn vào vô tận, Tương tự như ngồi trên đỉnh núi để phóng mắt ra tám phương trời.
Mặt trờiluân lưu trong không gianbao la, Chẳng có nơi nào ở giữa cũng chẳng có chốn nào chung quanh, Bầu không gian đó luôn rạng ngời và chiếu sáng mọi vậtthể khôngphân biệt thứ nào. Đấy cũng chính là cách phải giúp đỡ chúng sinh.
Mục đích lớn nhất trong cuộc sống là phải phát động lòngnhân từ, Nuôi nấng tim mình bằng yêu thương, Phải luôn xót xa, Trước khổ đau của kẻ khác.
Hãy khơi động tình thương, Giúp cho lòng từ bi hiển lộ, Một cách thật tự nhiên và đích thật, Trong bất cứ cảnh huống nào.
Làm tổn thương người khác là làm tổn thương chính mình, Giúp đỡ kẻ khác là giúp đỡ chính mình. Vạch lỗi lầm của kẻ khác là phơi bày lỗi lầm của chính mình. Ngợi khen phẩm tính của người khác là nêu lên phẩm tính của chính mình.
(Theo bản dịch của Alain Grosley, id, tr. 488)
Shabkar, tác giả bài thơ trên đây là một vị đại sưTây Tạng được xem là người đứng hàng thứ hai sau Mật-lặc Nhật-ba (Milarépa).
Thi phú Phật Giáo Trung Quốc
Thi
phú Phật Giáo Trung Quốc
là cả một kho tàng đồ sộ, sau đây chỉ là một vài trích dẫn nhỏ. Các bài thơ
Đường nổi tiếng thường đã được nhiều người dịch, tuy
nhiên cũng mạn phép đề nghị thêm một bản dịch mới. Đối chiếu nhiều bản dịch
khác nhau cũng có thể giúp người đọc tìm hiểu tường tận hơn bản gốc. Dù sao thì
cũng chỉ xin trích dẫn vài bản dịch xưa đã được nhiều người biết đến.
Tăng Xán (? - 606)
Con Đường thật tròn, đầy đặn như không gian, Chẳng thiếu cũng chẳng thừa. Con người dù lấy đi thế nhưng cũng bỏ lại, Nào họ có hiểu được Con Đường là gì đâu! _____
Chớ chạy theohiện tượng, Cũng đừng trụ vào tánh không. Sự đối nghịch đó sẽ chấm dứt, Khi nào tâm thức hòa nhập với an bình. _____
Nếu tâm thứcloại bỏ được sự phân biệt, Thì tất cả chúng sinh sẽ trở thànhnhất thể. Tất cả sẽ chẳng còn lại gì. Khi biến mất, hiện hữu sẽ để lại trống không! Thế nhưng trống không chính lại là hiện hữu. Đức Phật chỉ là con ngườibình dị, Một con ngườibình dị chính là Đấng Thế Tôn.
Các
bài thơ trên đây được dịch nghĩa dựa theo các bản tiếng Pháp do học giả Alain
Grosley dịch (id, tr. 492). Vì không tìm được các bản gốc tiếng Hán nên rất khó
chuyển các bài này thành thơ nôm. Trong quyển sách trên đây của ông, học giả A.
Grosley đã xếp Tăng Xán
vào danh sách các thiền sưNhật Bản. Điều này không được đúng lắm, bởi vì Tăng Xán là một thiền sưnổi
tiếng của Trung Quốc.
Sự nhầm lẫn này sở dĩ đã xảy ra là vì rất có thể A. Grosley đã căn cứ vào các
tư liệu Nhật Bản. Trong các tư liệu này người Nhật gọi Tăng Xán - tiếng Hán là Sêngcàn
- bằng một cái tên rất Nhật Bản là Sôsan.
_____
Vương Duy (701-761)
Bài 1 Quy Tung Sơn tác
Thanh xuyên đái trường bạc Xa mã khứ nhàn nhàn Lưu thủy như hữu ý Mộ cầm tương dữ hoàn Hoang thành lâm cổ độ Lạc nhật mãn thu sơn Điều đệ Tung cao hạ Qui lai thả bế quan
Bài thơ trước tác trên đường về Tung Sơn
Suối trong viền thảm cỏ Thong dong xe ngựa chạy Dòng suối dường hiểu ý Chim chiều cũng bay theo Thành hoang trên bến cũ Chiều thu tỏa núi đồi Nhấp nhô dãy non Tung Cửa am ta khép lại. (Hoang phong dịch)
Nhà thơ lòng thanh thảntrở vềẩn cư nơi chốn hoang vu. Dòng suối hình như cũng hiểu ý và tán đồng quyết tâm ấy của nhà thơ. Chim trời cũng bay theo để chào đón. Đi ngang những thành quách hoang tàn, người thi sĩ lại càng cảm thấyquyết tâm chọn cho mình một cuộc sống mới quả thật là hữu lý. Trong ánh hoàng hôn tỏa rộng giữa núi rừngTung Sơn, tác giả đã khép lại một quãng đời thế tục trước đây của mình.
Vương Duy là một họa sĩ lừng danh đã từng sáng lập ra một trường phái hội họa, và cũng là một thi sĩ và một nhà thư pháp thượng thặng được nhiều người mến mộ, thế nhưng vào cuối đời ông cũng đã quyết địnhtu thiền và không màng đến danh lợi.
Thơ làm khi về Tùng Sơn
Suối trong quanh giữa rừng thưa
Ngựa xe đi đó từ từ thẩn thơ Nước trôi có ý đón chờ Chim hôm chừng muốn đợi ta cùng về Thành hoang cạnh bến đò kia Bóng chiều đã rọi khắp rìa núi thu Non Tung thăm thẳm nhấp nhô Về đây đóng cửa để tu mới mầu. (Trần Trọng Kim dịch)
_____
Bài 2 Trúc Ly Quán
Độc tọa u hoàng lý Đàn cầm phục trường khiếu Thâm lâm nhân bất tri Minh nguyệt lai tương chiếu
Dịch nghĩa:
Một mìnhngồi yên bên khóm trúc vàng Khẩy mãi chiếc đàn cầm Chốn rừng sâu nào ai hay Trăng lên và ta cùng chiếu vào nhau.
Xin tạm dịch dưới dạng một bài thơ:
Quán Trúc Ly
Bóng lẻ ngồi yên bụi trúc vàng, Đàn cầm mấy khúc sao khẩy mãi. Rừng sâu hun hút nào ai biết, Một bóng trăng lên ta với nhau. (Hoang Phong dịch)
Trong khu rừng thanh vắng và trong cảnh cô quạnh chỉ biết lấy bóng trăng làm bạn và bóng trăng thì cũng xem mình như một người bạn.
Quán Trúc Ly
Một mình giữa đám rừng tre, Đánh đàn cao-hứng hát nghe một bài. Rừng sâu nào có ai hay, Bóng trăng đâu đến chiếu ngay vào mình. (Trần Trọng Kim dịch) Quán Trúc Ly Một mình trong khóm trúc Gảy đàn rồi hát chơi Rừng sâu không kẻ biết Trăng sáng chiếu lên người (Trần Trọng San dịch) _____
Sầm Tham (715-770)
Sơn Phòng xuân sự
Lương viên nhật mộ loạn phi nha Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia Định thụ bất tri nhân khứ tận Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa
Dịch nghĩa:
Vườn Lương hoàng hôn quạ bay đầy Nhìn hút mắt chỉ thấy dăm mái nhà tiêu điều Cây trong sân nào hiểu được mọi người đã ra đi biền biệt Xuân về hoa ngày trước lại nở như những thuở xa xưa
Lương Viên là tên ngôi vườn của một nhà hào kiệt là Lương Hiếu Vương, con thứ của vua Lương Vũ Đế thuộc thời Nam Bắc Triều (420-481)
Cảnh xuân nơi gian nhà trong núi
Lương viên chiều xuống quạ bay đầy, Tiêu điều xa tắp nhà dăm mái. Cỏ cây nào biết người đi biệt, Xuân đến hoa xưa lại nở đầy. (Hoang Phong dịch)
Cảnh xuân trong nếp nhà trên núi
Trời tối vườn Lương quạ lượn lờ Nhà đâu vút mắt, nóc lưa thưa Cây xuân chẳng biết người đi hết Xuân đến hoa còn nở giống xưa (Tản Đà dịch)
Các chữ "lượn lờ" và "lưa thưa" không được sát nghĩa, cũng không phù hợp lắm với xúc cảm trong bài thơ gốc. Trong câu thứ tư chữ "còn" có thể khiến cho người đọc hiểu lầm câu này là một nghi vấn (tự hỏi), do đó không diễn tả được hết ý nghĩa sâu sắc của câu kết.
Nét xuân ở nhà trong núi
Trời tối, vườn Lương quạ dập dìu Nhà xa mấy nóc cảnh đìu hiu Cây sân chẳng biết người đi hết Xuân tới hoa xưa vẫn nở đều. (Ngô Tất Tố dịch)
Chữ "dập dìu" không phù hợp với xúc cảm của bài thơ, chữ "cây sân" vì gượng ép nên không được rõ nghĩa lắm.
Thi phú Phật Giáo Tiều Tiên
Ch'wimisuch'o (? - ?)
Ngọn núi không mời mọc ta, Ta cũng quên không mời nó. Khi nào núi và ta đều quên nhau, Thì đấy sẽ là lúc tìm được sự giải thoát!
Mugan (thế kỷ XVIII)
Gió lung lay những lông mày lá liễu, Con tim ta rung động. Trong thung lũng mây khói bốc lên cao, Trong tim dấy lên đám bụi mù. Không quan tâm đến những xao động của thế gian, Con người đích thật mới có thể thức tỉnh và hiểu được vũ trụ là gì.
Kyongho (thế kỷ XIX)
Ảo giác là gì? Sự thật là gì? Cả hai đều sai cả! Sương mù bốc lên, là vàng khô rơi xuống, Thế nhưng mùa thu luôn tinh khiết. Ngắm nhìn ngọn núi cao im lìm, Sự thật bỗng hiện lên trong tôi.
Manhae (1870-1944)
Nếu sự bám víu của tình yêu chỉ là một giấc mơ, Vậy thìsự giải thoát đang ở đâu? Nếu những nụ cười và những giọt nước mắt chỉ là một giấc mơ, Vậy thì sự giác ngộ phi-tâm-thức đang ở đâu? Nếu tất cả các quy luậtchi phối mọi sự sống chỉ là một giấc mơ, Thì tôi cũng xin được trở thànhbất tử trong một giấc mơ của tình yêu.
(Trích trong Manhae's Poems of Love and Longing, Wisdom Publications, 2005, và dựa theo bản dịch sang tiếng Pháp của Alain Grosley, id, tr. 491)
Thi phú Phật Giáo Nhật Bản
Thi phú Phật Giáo Nhật Bản cũng phong phú không kém so với Trung Quốc, mặc dù Phật Giáo đã đặt chân vào quê hương này sau Trung Quốc đến bốn thế kỷ. Sau đây là một vài trích dẫn.
Saigyô (1118-1190)
Thân xác này xin hóa làm muôn mảnh, Để ngắm nhìn muôn hoa. Mỗi mảnh xin hóa thành từng cánh, Để nở rộ trên cành, Trong khắp các vùng núi non. ____
Một gốc cây sừng sững, Bên bờ một thửa ruộng vắng tanh, Cuống quít trên cành, Con chim gáy gọi bạn, Giữa bóng hoàng hôn buông nhanh.
Chim gáy còn gọi là chim cu, là một loài chim sống thành cặp và rất trung thànhvới nhau. _____
Thật sâu trong vùng núi thẳm, Mảnh trăng vàng vằng vặc Tỏa ánh sáng vô biên, Hòa tan nghìn kỷ niệm. Chẳng có gì còn lại. Trống không!
Đạo Nguyên (Dôgen, 1200-1253)
Trên dòng suối tâm tư, Êm ả vầng trăng soi. Một gợn sóng dấy lên, Con trăng chìm xuống đáy, Ánh sáng hoá bùn đen. _____
Thế giới này Biết lấy gì so sánh? Có phải là một giọt nước đang rơi, Từ mỏ con vịt trời, Phản chiếu ánh trăng trong. _____
Lớp tuyết băng Phủ kín thảm cỏ mùa đông. Một con hạc trắng Nấp mình Trong bóng tối trắng tinh. _____
Ngoài
ra trong thi phú Nhật Bản còn có một thể thơ rất đặc thù gọi là Haiku, tiếng
Việt dịch âm là Hài-cú. Một bài thơ Haiku hay Hài-cú chỉ có 3 câu và gồm tất cả
17 âm (hay thanh): câu một 5 âm, câu hai 7 âm và câu ba 5 âm. Thật ra ba câu
thơ cũng chỉ là một câu phát biểuduy nhất. Tiếng Nhật đa âm do đó 5, 7, 5 cũng
có thể đủ để tạo ra được một âm hưởng nào đó cho bài thơ gồm vỏn vẹn chỉ có một
câu phát biểu. Do đó dịch thơ từ một ngôn ngữđa âm sang một ngôn ngữ độc âm sẽ
rất khó, trên nguyên tắc thì cũng chỉ có thể dịch được nghĩa mà thôi. Thông
thường chủ đích của một bài thơ Hài-cú là nêu lên một sự mở rộng nào đó và nếu
có thể thì nên có một chữ gợi lên một trong bốn mùa. Sau đây là phần trích dẫn
một vài câu thơ Hài-cú:
Con đường mòn trong núi ánh dương hồng lên cao trong hương thơm hoa mận.
_____
Ueshima Onitsura (1661-1738)
Cổng vườn nở rộ trắng toát cánh hoa trà _____
Gió mát tiếng thông reo ngập tràn cả khung trời trống rỗng _____
Ryokan (Lương Khoan, 1758-1831)
Tên trộm bỏ quên khuôn trăng bên thềm cửa sổ
Ryokan dịch sang tiếng Hán là Lương Khoan là một thiền sư sống cô đơn và ẩn dật nơi một chiếc am cỏ trong một khu rừng hoang vắng. Một hôm sau khi đi tản bộ về ông nhận thấy chiếc am bị trộm và tên trộm đã đánh cắp các vật dụngnghèo nàn của ông, ông bèn lấy một tờ giấy viết lên câu thơ trên đây. _____
Vô tư tôi gối đầu lên cỏ và quên cả chính tôi _____
Cả thế giới bỗng hóa thành cội anh đào nở hoa _____
Trên mặt nước lăn tăn gợn sóng bạc một cơn mưa mùa thu
(Nếu thích thơ của Ryokan, độc giả có thể đọc quyển "Ryokan, gã thiền sưĐại Ngucô đơn trên con đường trống không" của Hoang Phong, nxb Văn Hóa Saigon, 2009, hoặc trên một vài trang web) _____
Kobayashi Issa (1763-1827)
Thế giới này rên siết trong chiếc áo bằng hoa _____
Mùa thu về con chó nào có hay chỉ vì nó là Phật
Con chó chẳng diễn đạt gì cả. Tất cả chỉ là như thế. _____
Trong giọt sương trắng tinh tôi luyện tập [thiền định] như giữa cõi thiên đường _____
Quay tròn trong chiếc lá sen hạt sươngthế giới này
Cái nhìn thật thi vị về thế giớiluân hồi của một vị thiền sư. _____
Yosa Buson (1715-1783)
Mùa xuân ra đi rón rén trong vườn đào nở muộn _____
Giữa cỏ non một gốc liễu quên bẵng cả cội nguồn _____
Một người đang cày ruộng những đám mây yên lặng cũng ra đi
Bài thơ nói lên sự tương liên sâu kín giữa mọi hiện tượng. Chỉ cần một sự xao động thật nhỏ, vô tình và tự nhiên cũng có thể lôi kéo theo những chuyển động khác,. _____
Hoa mận rơi như mưa trên mặt bàn óng ả _____
Sargû ( ? - ?)
Cành liễu vẽ bóng hình của gió chẳng cần đến ngọn bút lông _____
Làn gió sớm làm nghiêng xuống những sợi lông trên lưng con sâu róm
Thơ Phật Giáo Việt Nam
Vạn Hạnh(? - 1018)
Thị đệ tử
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô. Nhậm vậnthịnh suy vô bố uý, Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch nghĩa:
Lời khuyên các đệ tử
Đời người như bóng chớp, có rồi không, Vạn thứ cây mùa xuân tốt tươi, mùa thu sẽ khô héo. Nghiệm được sự thịnh suy thì sẽ không còn sợ hãi nữa, Thịnh suy chẳng qua như giọt sương treo đầu ngọn cỏ.
Lời khuyên các đệ tử
Kiếp người tia chớp chừng ngắn ngủi, Cỏ cây xuân mướt, thu trơ trụi. Ngẫm nghĩthịnh suy là thế đấy, Mong manh ngọn cỏ hạt sương rơi. (Hoang Phong dịch)
Dặn Học Trò
Thân như bóng chớp, có rồi không, Cây cối xuân tươi, thu não nùng. Mặc cuộc thịnh suyđừng sợ hãi, Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông. (Ngô Tất Tố dịch) _____
Mãn Giác(1052 – 1096):
Cáo tật thị chúng
Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai. Sự trục nhãn tiền quá, Lão tòng đầu thượng lai. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Cáo bệnh
Xuân rồi trăm hoa rụng, Xuân nay trăm hoa nở. Trước mặtviệc đời trôi, Trên đầu già mất rồi. Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua sân trước một cành mai. (Hoang Phong dịch)
Câu thứ năm do cụ Hoàng Xuân Hãn dịch, câu thứ sáu cũng đã được cụ Ngô Tất Tố dịch dịch từ trước. Hai câu thơ dịch này thật tuyệt vời và đã đi vàolịch sửvăn họcViệt Nam, quả không thể nào có thể dịch hay hơn hoặc khác hơn được.
Có bệnh bảo với mọi người
Xuân ruỗi, trăm hoa rụng, Xuân tới, trăm hoa cười. Trước mắt, việc đi mãi, Trên đầu, già đến rồi. Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua, sân trước, một cành mai. (Ngô Tất Tố dịch)
Xuân qua trăm hoa rụng, Xuân lại nở trăm hoa. Trước mắt sự đời thoảng, Trên đầu hiện tuổi già. Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết; Ngoài sân đêm trước một cành mơ. (Hoàng Xuân Hãn dịch) (Trích trong bài viết "Đạo Phật đời Lý" của Hoàng Xuân Hãn. Không thấy vị này dịch tựa của bài thơ)
Cụ Hoàng Xuân Hãn dịch chữ "chi mai" là "cành mơ" cũng có cái lý của cụ. Miền Bắc không có cây mai vàng như ở miền Nam mà chỉ có cây mơ (prunier / plum tree) hay cây mận. Cây mơ cho quả mơ còn gọi là quả ô mai, mùa xuân nở hoa trắng rất đẹp. Có thể liên tưỏng đến câu thơ "Xuân đến hoa mơ hoa mận nở" trong bài "Gái Xuân" của Nguyễn Bính.
_____
Trần Nhân Tông(1258-1308)
Bài 1 Xuân mãn
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không Nhất xuân tâm sự bách hoa trung Như kim khám phá Đông Hoàng diện Thiền bảnbồ đoàn khán truỵ hồng.
Xuận muộn
"Sắc không" thuở bé nào có hiểu, Mỗi độ xuân về lòng rộn rã. Đông Hoàng chợt tỉnh xuân đối mặt, Tọa thiền chiếu cỏ cánh hồng rơi. (Hoang Phong dịch)
Hai chữ "sắc"và "không" trích từ câu nổi tiếng nhất trong Tâm Kinh là "Sắc tức thị không, không tức thị sắc", có nghĩa là "Hình tướng là trống không, trống không là hình tướng". Ý nghĩa của câu này không thể nào giải thích bằng vài dòng được. Một đứa bé làm thế nào có thể hiểu được bản chất của các hiện tượng trong vũ trụ là gì, chỉ thấy rằng mỗi lần sắp đến Tết thì trong lòng náo nức.
Chữ "như kim" trong câu thơ thứ ba có nghĩa là "lúc này", và toàn câu thì có nghĩa là "Lúc này (hay ngày nay) nơi chốn Đông Hoàng này mới chợt tỉnh và đã hiểu được xuân là gì". Câu thơ này có hai túc từ: "lúc này" chỉ thời gian và "Đông Hoàng" chỉ nơi chốn, thế nhưng câu thơ dịch không "đủ chỗ" để ghép chung cả hai túc từ. Đông Hoàng không biết là ở đâu thế nhưng "nơi chốn" thường buộc xúc cảm vào một bối cảnh nhất định nào đó của hiện thực, do đó đã giữ một vị thế quan trọng hơn so với yếu tốthời gian. Thật vậy trong hầu hết tất cả các bài kinh bằng tiếng Pa-li đều nêu lên địa danh và bối cảnh mà bài kinh đã được thuyết giảng.
Trong câu bốn, chữ "thiền bản" là một cái phản gỗ thật thấp để ngồi thiền, chữ "bồ" có nghĩa là một thứ cỏ thơm, chữ "đoàn" có nghĩa là đan kết, "bồ đoàn" là một chiếc thảm hay nệm cỏ (tiếng Nhật là tatami) kết bằng cỏ bồ để ngồi thiền cho đỡ đau chân. Câu bốn có nghĩa là khi đã hiểu xuân là gì tức là hiểu được "hình tướng chỉ là trống không và trống không thật ra cũng chính là hình tướng" thì bèn ngồi xuống để thiền định. Chính vào lúc đó khi nhìn ra sân liền trông thấy một cánh hoa hồng héo rơi xuống đất. Sự bén nhạy của một người hành thiền chính là ở chỗ ấy.
Xuân cảnh
Tuổi trẻ chưa từng lẻ sắc không Xuân về hoa nở rộn trong lòng Chúa Xuân nay đã thành quen mặt Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng (Ngô Tất Tố dịch)
_____
Bài 2 Xuân cảnh Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi Khách lai, bất vấn nhân gian sự Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
Dịch nghĩa:
Cảnh xuân
Sâu trong khóm dương liễu đầy hoa chim hót khe khẽ Thềm sân in bóng mái nhà và những áng mây chiều bay Khách đến chơi không hỏi việc thế sự Chỉ cùng nhau đứng tựa lan can để ngắm màu xanh [của khói mây]. Cảnh xuân
Khóm liễu đầy hoa chim hót khẽ, Thềm sân mái chếch bóng mây chiều. Khách viếng chẳng một lời thế sự, Lan can cùng ngắm khói lam xa. (Hoang Phong dịch)
_____
Hương Hải(1627-1715)
Nhạn quá trường không Ảnh trầm hàn thủy Nhạn vô di tích chi ý Thủy vô lưu ảnh chi tâm
(Không tìm được tựa của bài thơ này)
Dịch nghĩa:
Nhạn bay ngang trời Bóng chìm trong đáy nước giá buốt Nhạn không cố ý để lại dấu tích Nước không lưu giữ bóng hình
Tạm dịch:
Cánh nhạn ngang trời dang cánh bay, Bóng chìm nước buốt đôi cánh mỏi. Nước sâu đâu níu bóng chim trời, Cánh chim nào nhớ một đường bay. (Hoang Phong dịch)
Lời kết
Kinh sách Phật Giáo rất gần với những xúc cảm của con người, khác hơn với kinh sách mang tính cách răn đe của các tôn giáo thần khải. Thi tính trong kinh sách Phật giáo là một phương tiện giúp con ngườikhám phá ra hiện thực, hòa nhập với hiện thực và để trở thànhhiện thực. Do đó khái niệm về tận thế cũng không hề có trong Phật Giáo, mà trái lạiPhật Giáo chỉ chủ trương mở rộng con tim để hướng vào thực tạitrước mặt, với những gì thật thanh thoát, lạc quan và cao đẹp:
Xuân rồi trăm hoa rụng, Xuân nay trăm hoa nở. Trước mặtviệc đời trôi, Trên đầu già mất rồi. [Thế nhưng] Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, [Trông kìa] Đêm qua sân trước một cành mai! (Thiền sưMãn Giác)
Cành mai nở rộ trong đêm không phải là một cành hoa nở muộn mà đúng hơn là một cành hoa báo hiệu một mùa xuân mới.
Bài này là cuộc phỏng vấn qua email trong tháng 1/2023 với nhà sư Kunchok Woser (Don Phạm), người xuất gia theo truyền thừa Phật Giáo Tây Tạng, sau nhiều năm tu học ở Ấn Độ đã tốt nghiệp văn bằng Lharampa, học vị cao nhất của dòng mũ vàng Gelug, và bây giờ chuẩn bị học trình Mật tông.
Nhân dịp Tết cổ truyền dân tộc - Xuân Quý Mão, thay mặt Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi có lời chúc mừng năm mới, lời thăm hỏi ân cần tới tất cả các cấp Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tới chư tôn đức Hòa thượng, Thượng tọa, Ni trưởng, Ni sư, Đại đức Tăng Ni, cư sĩ Phật tử Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài; kính chúc quý vị một năm mới nhiều an lạc, thành tựu mọi Phật sự trên bước đường phụng sự Đạo pháp và Dân tộc!
Trong ngày hội truyền thống dân tộc, toàn thể đại khối dân tộc đang đón chào một
mùa Xuân Quý mão sắp đến, trước nguồn hy vọng mới trong vận hội mới của đất nước,
vừa trải qua những ngày tháng điêu linh thống khổ bị vây khốn trong bóng tối hãi hùng
của một trận đại dịch toàn cầu chưa từng có trong lịch sử nhân loại, cùng lúc gánh chịu
những bất công áp bức từ những huynh đệ cùng chung huyết thống Tổ Tiên; trong nỗi
kinh hoàng của toàn dân bị đẩy đến bên bờ vực thẳm họa phúc tồn vong,
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.