HỌC THUYẾT DARWIN, PHẬT GIÁO VÀ THIÊN CHÚA GIÁO
Tiến sĩ Amarasiri Weeraratne
Thích Nữ Liên Hòa dịch
Lời người dịch: Nguyên tác tiếng Anh của bài khảo cứu ngắn này:
Darwinism, Buddhism and Christanity được đăng trong tạp chí
The Maha Bodhi, Sri Lanka, Tập 82, số 11 & 12, Nov - Dec 1974, trang 443 – 446 của Amarasiri Weeraratne, nhà
nghiên cứu Phật học nổi tiếng ở
Tích Lan.
Thật
ra, bài viết này đã được viết và đăng tải trên
văn đàn cách đây khá lâu. Do đó, bài viết cũng không có gì mới mẻ đối với trào lưu
nhận diện lại
bản chất thật của các
tôn giáo trên
thế giới ngày nay.
Tuy nhiên, khi đọc lại bài khảo cứu này, người dịch
nhận ra một vài điểm khá
lý thú. Khoa học càng lúc càng đưa ra nhiều bằng chứng để xác minh những gì được gọi là “mặc khải” của
Chúa trong
Thánh Kinh, một
bộ Kinh mà trước đây một phần
nhân loại bị
đào tạo buộc phải
tin tưởng là “không thể nào
sai lầm.” Dù bị
phản đối,
chống báng, hăm doạ, thậm chí bị
mất mạng, các nhà khoa học vẫn
miệt mài
làm việc và nói
lên tiếng nói đúng với nguyên lý
vận hành của
vũ trụ như thế nào.
Trước
đây gần ba thập niên, Amarasiri Weeraratne đã mạnh dạn
nhận định lại
giá trị của
học thuyết Tiến Hóa, ông phân tích rạch ròi đâu đúng đâu sai.
Chúng ta cũng nên nhớ rằng, khoảng
thời gian đó,
văn hóa Thiên Chúa
giáo của
Tây phương đang tấn công sang hướng Á Châu, thế mà Amarasiri
Weeraratne vẫn không ngại trình bày
quan điểm của mình. Tiếng nói của ông góp thêm
sức mạnh vào dòng thác vạch trần những
sai lầm,
tội lỗi của
một
tôn giáo tự tôn là “thiên khải”, “cao quý”, để rồi đến ngày 12 tháng 3 năm 2000, Giáo Hoàng John Paul II,
đại diện cho "Hội Thánh" Gia Tô đã phải xưng thú những
đại tội của
tôn giáo mình trước
thế giới.
Phật
giáo với
học thuyết “Duyên Khởi” đã
thiết lập nền tảng cho sự
sinh khởi
của
vũ trụ. Các pháp nương nhau mà
tồn tại, nương nhau mà
hoại diệt. Không một đấng “Sáng Tạo” nào tạo dựng nên
thế giới đầy chiến tranh, giết chóc,
hận thù,
bạo động,
khủng bố,
cuồng loạn lan tràn khắp nơi như
lịch sử của
quá khứ và hiện nay đang
tiếp diễn.
Mặc dầu bài viết của
tác giả chưa khai triển
hết
học thuyết “Duyên Khởi” của
Phật giáo để
soi sáng vấn đề vũ trụ, vì
chỉ
dựa vào một Kinh trong nhiều
bài Kinh đề cập đến sự hình thành
thế giới mà khai triển
vấn đề. Nhưng dù sao nó cũng
thể hiện được phần nào đúng với
tinh thần của
Phật giáo, nên người dịch xin
chuyển ngữ sang tiếng Việt và xin gởi đến quý
độc giả.
*********
Chỉ
hơn một trăm năm kể từ khi nhà
bác học Darwin
công bố học thuyết “Sinh vật tiến hóa”,
khám phá mở ra một kỷ nguyên mới này đã làm lung lay nhiều
triết thuyết căn bản của nhiều
tôn giáo và nhiều trào lưu
cách mạng hoá
tư tưởng ở phương Tây. Các
giáo sĩ Thiên Chúa giáo ở Anh Quốc bị đánh động và đã
công kích lại Darwin và
học thuyết Tiến Hóa của ông. Darwin mạnh dạn và
kiên định đối mặt với nhiều trận tấn công
cuồng tín và kém
hiểu biết như vậy. Nhiều
thế lực dùng tiền hòng bắt ông im tiếng đều bị thất bại. Giám mục Wilberforce là mũi nhọn,
dẫn đầu các cuộc
công
kích cuồng tín này. Luận điểm của Giám mục cho rằng nếu thuyết
Tiến Hóa
là đúng
sự thật thì
câu chuyện về
sự tạo dựng trong phần mở đầu của
Thánh Kinh phải sai. Các
giáo sĩ tin rằng Darwin đã
sai lầm, còn
Thánh Kinh là những lời dạy của Chúa không thể sai được.
Tuy
nhiên, nhiều ngành khoa học khác nhau như Địa chất học, Cổ sinh vật học,
Nhân loại học,
Động vật học, Phôi học, Sinh vật học, v. v… đã đưa ra bằng chứng xác minh và
củng cố học thuyết của Darwin.
Học thuyết của ông
giải thích nguồn gốc sự sống trên
thế giới thỏa đáng hơn bất kỳ
học thuyết nào mà
con người đã biết đến. Tất cả các
khám phá khoa học có
giá
trị đã xác minh cho
học thuyết này, và với
thời gian các
khám phá đó đã khẳng
định thêm
giá trị của nó. Sự
đối lập của những người
cuồng tín dần dần bị bào mòn khi họ
đối diện với sự
tiến bộ của khoa học. Hiện nay, phần lớn, nhiều
giáo phái thuộc
Thiên Chúa giáo đã dừng lại cuộc chiến
chống lại sự
tiến hóa, và vài
giáo phái đã
cố gắng thoát khỏi giáo điều của họ
dưới ánh sáng của
tri thức khoa học. Họ nói: “Dù
cho
chấp nhận thuyết Tiến Hoá”, thì “cũng có một
năng lực nào đó
vận động các
năng lực này.” “Một
năng lực nào đó” phải được xem là
Thượng Đế
với những thuộc tính như
toàn năng và toàn bi. Một
công trình nghiên cứu về
học thuyết tiến hóa chỉ ra rằng điều này không phải vậy. Do đó, luận điệu này không những không
thỏa đáng mà còn không tự
biện hộ được và không thể đứng vững được khi khảo sát kỹ lưỡng. Ngày nay,
thế giới khoa học và giới
nghiên cứu đều
đánh giá cao
học thuyết của Darwin. Tất cả sinh viên đang
theo đuổi ở cấp
Đại học và hậu
Đại học trong
lãnh vực khoa học đều
tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
Mặc
dù
học thuyết Tiến Hóa của Darwin đã làm cho nền tảng của nhiều
tôn giáo vùng Xê-mít (Semite) bị sụp đổ, và khiến cho
Thiên Chúa giáo bị
điêu đứng, nó vẫn không gây
tổn thương hay có
ảnh hưởng bất lợi gì cho
Phật giáo.
Đức Phật không dạy
thế
giới này do một đấng
Thượng Đế tạo dựng hay
con người chỉ là sự
sáng tạo đặc biệt của
Thượng Đế. Từ “
satva”
(có nghĩa là
chúng sanh) chỉ chung cho
con người, loài vật,
chư thiên, và tất cả mọi loài có sự sống.
Vì vậy,
đạo Phật không
phân biệt con người với
động vật như
Thiên Chúa giáo. Trong
Kinh Khởi Thế Nhân Bổn (Aggañña Sutta) [1],
đức Phật đề cập đến
đời sống con người có
liên hệ đến quá trình
tiến hóa này. Do đó,
quan điểm này không có gì lạ lẫm hay
hấp dẫn đối với hàng
Phật tử,
và
vì vậy học thuyết Tiến Hóa này được
chấp nhận như là một
khám phá khoa học, không hề
mâu thuẫn với
giáo lý căn bản của
đạo Phật. Trong bài
viết ngắn này, tôi muốn
biện minh vấn đề làm thế nào ba
chân lý nền tảng, đó là
Vô thường (
Anicca), Khổ (
Dukkha), và
Vô ngã (
Anatta) tạo thành
giáo lý trọng tâm của
đức Phật. Ba
chân lý này được xác định,
soi sáng và
ủng hộ bằng những chứng cứ của khoa học. Đây là
vấn đề làm cho
Phật tử cảm thấy hết sức hào hứng và thoả mãn.
Thánh
Kinh dạy rằng
thế giới và sự sống trong đó, loài vật cũng như
con người
được
Thượng Đế tạo ra
trong vòng 7 ngày. Nhiều loài khác như những sinh
vật
dưới nước, các loài chim bay trên không, loài bò sát, và
động vật bốn chân được nói là do
Thượng Đế tạo ra riêng lẻ. Do đó, người phương Tây nghĩ rằng những loài này
hoàn toàn khác, không có mối quan hệ
với nhau. Họ cũng tin rằng
con người cũng được
Thượng Đế sáng tạo bằng
hạt bụi của trái đất mà
Thượng đế đã
thở ra.
Vì vậy, họ
tin tưởng con người là một
sáng tạo riêng lẻ và không có
liên hệ gì với các loài
động vật về
mặt sinh học.
Darwin
đã chỉ ra
đời sống bắt đầu với một cơ thể đơn bào trong
đại dương và phát triển qua nhiều giai đoạn
tiệm tiến như thế nào. Ông
viện dẫn bằng chứng khoa học để
bảo vệ luận điểm của mình. Luận điểm này
chứng minh rằng tất cả loài
động vật có một nguồn gốc chung và phát triển từ hình thái này đến hình thái khác nhờ vào các
biến đổi sinh học.
Nhờ đó, người ta đã khẳng quyết rằng
động vật không phải là
loài
động vật không thay đổi được, mà cũng không phải doThượng Đế tạo ra, mà chúng
tiến hóa dần dần từ dạng thức thấp nhất của sự sống, và ngay bây giờ chúng cũng vẫn đang
tiến hóa liên tục dưới nhiều dạng thức
khác nhau.
Đời sống của
con người quá ngắn ngủi để
theo dõi trọn vẹn quá trình
tiến hóa này. Các loài
động vật và
thực vật sống cách đây hàng
triệu năm, nay không còn nữa. Nhiều loại cây cỏ và
động vật sống hàng triệu năm trong tương lai sẽ khác so với hiện nay.
Trường hợp con người cũng vậy. Do đó,
định luật “Vô thường”
(anicca) không những
ứng dụng cho các đối tượng vô tình mà còn
áp dụng cho các loài
động vật hữu tình. Lời
đức Phật: “
Sabbe sankhàrà aniccà” (Tất cả hành đều
vô thường) lại càng được khẳng định và
soi sáng nhờ các bằng chứng khoa học.
Thánh Kinh dạy rằng
thế giới này và tất cả sự sống trên
thế giới được đấng
Thượng Đế đại từ,
đại lực tạo ra. Nhưng
khi
nghiên cứu quá trình
tiến hóa,
chúng ta thấy mọi loài đều phải chịu
đau khổ. Kẻ mạnh
đàn áp kẻ yếu là chuyện xảy ra
phổ biến trong quá trình sống và
tiến hóa. Sự
tồn tại ở đây có nghĩa là sự kiếm ăn và tránh
bị ăn. Do đó, cả trái đất này ở khắp
mọi nơi, ngay cả trên
đất liền, trên không trung hay trong biển cả đều từng bị đẫm ướt máu của sinh vật
bị giết. Nhiều
động vật thời cổ bị tiệt chủng bởi vì chúng không thể
chống lại nổi các
loài
dã thú ăn thịt. Các loài bò sát lớn đã bị tiệt chủng có thể
xem như những điển hình. Chúng để lại các bộ xương và từ những bộ xương này,
người ta đã tái
hiện hình thù của chúng. Các loài
động vật ăn thịt lẫn nhau là cách tự
điều chỉnh của
thiên nhiên đối với các loài
dã thú.
Nếu không thì trái đất sẽ đầy dẫy những côn trùng và nhiều loại sinh vật khác, không còn ngay cả một inch (2,54 cm) đất dành cho
con người.
Thú
vật luôn sống trong
tình trạng sợ hãi các loài
dã thú có khả năng giết và
ăn thịt chúng. Không có một người
trí thức nào, những người có khả năng
suy luận, những người không bị
niềm tin làm cùn mòn
lý trí của mình
lại
chấp nhận rằng
Thượng Đế đã vạch
ra một
kế hoạch sát hại đẫm máu như vậy lại là một đấng
từ ái !
Niềm tin vào
đấng Sáng Tạo, vào
Thượng Đế và những thuộc tính
nhân ái của
Thượng Đế đã bị sụp đổ.
Tuy nhiên, Phật ngôn: “
Sabbe Sankhàra Dukkhà” (Tất
cả hành đều khổ) lại được
thẩm định như một
chân lý dưới ánh sáng khoa học. Tại sao
Thượng Đế đầy
quyền năng và
nhân từ tạo ra những
chúng sanh
tiến hoá ngang qua tiến trình khổ sở và
chậm chạp đầy
đau thương nhiều thế kỷ như vậy? Tiến trình phát triển này là một cuộc dò dẫm
mù lòa trong bóng tối và mọi loài sống trong
đau khổ.
Quan điểm cho rằng đây là
công trình của
Thượng Đế toàn năng và
nhân từ không còn đứng vững nữa. Quả thực nếu có một
Thượng Đế như thế, Ngài nên tạo dựng
mau chóng, không có những
đau khổ mò mẫm mù lòa tăm tối này. Sự sống của muôn vật nên được
hạnh phúc và không bị khổ đau. Nhưng khi
giáp mặt với sự bất toàn của quá trình
tiến hóa và khổ đau đính kèm đó,
quan niệm cho rằng có một
Thượng Đế nhân ái đứng sau tiến trình này đã bị đánh đổ. Trước thời Darwin, những tín hữu Ky-tô có lẽ đã hỏi “Làm thế
nào
thế giới có mặt mà không có một đấng Sáng Tạo?” Darwin đã chỉ ra
thế giới này
xuất hiện như thế nào.
Học thuyết của Darwin không chỉ
tranh luận mà còn hạ bệ
lời nói “không thể sai lầm” của
Thượng Đế trong
Thánh Kinh. Như vậy, nền tảng của
Thiên Chúa giáo và những
tôn giáo hữu thần khác bị xói mòn và bị sụp đổ khi
công trình nghiên cứu thuyết
Tiến Hóa này được
công bố.
Thánh
Kinh dạy rằng
con người là
một sinh vật
đặc biệt, nó tách biệt khỏi
thế
giới động vật. Nhiều nhà
thần học cho rằng
con người có một
linh hồn mà
động vật không có. Bertrand Russell đã nêu lên
nghi vấn “Trong suốt quá
trình
tiến hóa lâu dài, từ một cơ thể đơn bào
cho đến con người,
linh hồn đã
xuất hiện ở giai đoạn nào?” Không có câu
trả lời nào cho
vấn đề này, và điều này cho thấy rằng
quan điểm về
linh hồn chỉ là một
ảo tưởng. Sinh vật học bảo rằng trong cơ thể
con người có 182
cơ quan dấu tích của loài thú còn sót lại, chúng không còn hoạt dụng nữa, nhưng chúng là vết tích của nhưng giai đoạn
tiến hóa trong
quá khứ.
Không tính
tới các
cơ quan bên trong, các
cơ quan như đuôi ở phần cuối bộ xương, và lông trên cơ thể cũng cho thấy
chúng ta có mối quan hệ
họ hàng với loài vượn không đuôi.
Không
những
con người mà các sinh vật thấp hơn
thế giới động vật đều có các
cơ quan còn sót lại, nhưng những
cơ quan này không còn hoạt dụng nữa. Điều này
chứng minh rằng các loài
động vật được phát triển từ các loài
động vật bậc thấp. Ngành Phôi học
cho biết phôi của
con người và
động vật lặp đi lặp lại nhiều giai đoạn
tiến hóa khác nhau
trong suốt quá trình thai nghén. Do vậy,
chúng ta biết được
con người là
một sinh vật có
liên quan với những
động vật linh trưởng (con tinh tinh) và không phải là
một sinh vật
đặc biệt có
linh hồn bất tử gì cả. Các
công trình nghiên cứu hiện đại đã phát hiện những
động vật linh trưởng như vượn có sức
hiểu biết như đứa bé tuổi lên ba. Sự khác nhau giữa
con người và những loại khỉ không đuôi cấp cao đâu có
liên quan gì đến
linh hồn. Chúng chỉ khác nhau ở chỗ
con người có bộ não phát triển hơn, có khả năng
hiểu biết nhiều hơn. Đây là
sự thật xác chứng lời
đức Phật dạy “
Sabbe dhammà anattà” (mọi pháp đều không có
thực thể).
“Thuyết
Tiến Hóa đối lập với
giáo điều của
Thánh kinh về bốn điểm. Thứ nhất nó xác định lại
quan điểm của các nhà địa chất về tuổi của trái đất. Nhiều nhà
thần học Ky-tô-giáo đã
ước tính tuổi của trái đất là 6000 năm bằng cách tính các
thế hệ từ thời ông Adam đến Chúa Jesus như được trình bày trong Phúc Âm.
Chúng ta thấy điều này không
tương ứng với những
khám phá
của khoa học, và do đó, hiện nay các tín hữu
Thiên Chúa giáo đã
từ bỏ quan điểm này. Thứ hai,
học thuyết Darwin cho
chúng ta biết
con người tiến hóa từ
động vật chứ không phải là từ
hạt bụi do
Thượng Đế thổi ra. Thứ ba,
học thuyết Tiến Hóa loại bỏ quan niệm phụ nữ được hình thành từ một cái xương sườn của người nam. Và thứ tư,
học thuyết tuyên bố cây cỏ,
động vật phát triển cùng một lúc và sự
tiến hóa này bắt đầu
vào khoảng thời gian nào đó sau khi hệ
mặt trời hình thành. Theo phần “Sáng Thế Ký”
của
Kinh Cựu Ước,
Thượng Đế đã tạo ra cỏ,
hạt giống, và cây trái vào ngày thứ ba;
mặt trời,
mặt trăng và các vì sao được tạo ra vào ngày thứ tư; những loại cá như cá voi và các sinh vật
dưới nước khác cũng như các loài chim chóc được tạo vào ngày thứ năm;
thú vật trên
đất liền vào ngày thứ sáu.” Do đó, một
khi lời dạy trong
Thánh kinh bị
bác bỏ và hạ bệ,
chủ nghĩa Darwin đã làm cho các
tôn giáo hữu thần ở phương Tây bị mất
ảnh hưởng.
Chúng ta không thể nói rằng quá trình
tiến hóa được đề cập trong
Kinh Khởi Thế Nhân Bổn
hoàn toàn trùng khớp với
học thuyết Darwin.
Bài Kinh không minh họa các
sinh vật tự
thích nghi với môi trường sống để
tồn tại như thế nào, các sinh vật đã phát triển các khả năng để
sinh tồn, cũng như những sinh vật
khác lại
bị hủy diệt ra sao như
khám
phá của Darwin.
Tuy nhiên, có những điểm tương đồng
nổi bật. Những dạng
thức của sự sống đầu tiên được trình bày trong kinh là
vô tính. Chúng sống như dạng rong rêu trên lớp váng ở
đại dương. Sau một
thời gian dài,
chúng phát triển
thành hình thù và có màu sắc khác nhau. Khi lớp váng
có mùi thơm biến mất, một loại nấm phát sinh và sinh vật phát triển những giới tính khác biệt. Tất cả
chi tiết này
tương hợp với
học thuyết Darwin, nghĩa là
vạn vật tiến hóa và phát triển trong một
thời gian dài,
sinh vật mới
liên tục phát sinh và phát triển, sinh vật
vô tính có mặt trước khi
các loại sinh vật có giới tính
xuất hiện. Lại nữa, sự phát triển của
thực vật trong các lớp váng nối tiếp, đó là nấm, dây leo, và lúa; đó là quá trình
tiến hóa của
thực vật.
Có một vài điểm bất đồng, do đó
chúng ta có thể
kết luận rằng
Kinh Khởi Thế Nhân Bổn chứa
đựng một nội dung khá
lý thú, đó là sự pha trộn giữa “những khái niệm khoa học và
thần thoại huyền bí”.
Chúng ta nên nhớ rằng
Kinh Khởi Thế Nhân Bổn
này được
biên tập vào khoảng 500 năm sau khi
đức Phật nhập
vô dư Niết-bàn. Những
học thuyết thịnh hành lúc bấy giờ có thể
len lỏi vào
bài
Kinh. “Hoặc
chúng ta đặt
giả thiết rằng
đức Phật đã dạy thuyết
Tiến Hóa
hoàn toàn giống với
công bố của Darwin. Các
đệ tử của
đức Phật là những
bậc
hiểu biết trong các
vấn đề liên quan đến tâm linh và
đạo đức, và có
lẽ không biết về khoa học như
chúng ta ngày nay. Cho nên,
chúng ta nên nghĩ rằng
Kinh Khởi Thế Nhân Bổn đức Phật mô
tả thuyết
Tiến Hóa không phải từ
quan điểm khoa học, mà
nhấn mạnh đến
phương diện tiến hoá về
đạo đức và
tâm lý. Và ngược lại, nhiều
vấn đề lớn có
liên quan đến học thuyết Tiến Hóa ngày nay dường
như không có gì quan trọng đối với người
biên tập kinh điển thời kỳ đầu, và do đó chúng được
biên tập như thế hoặc vô tình bị thay đổi.”
[2] Do
đó,
chúng ta thấy rằng tự
thâm tâm của
Phật tử không có gì
ngần ngại khi
chấp nhận học thuyết Tiến Hóa của Darwin. Người
Phật tử đã
tìm ra những nguyên tắc cơ bản của đạo mình. Người
Phật tử rất
sung sướng khi thấy sự
tiến bộ của khoa học càng lúc càng tiến đến những
sự thật được
ủng hộ và
thiết lập nhờ các bằng chứng của các
lãnh vực mới của
tri thức nhân loại mà đã được
đức Phật tuyên thuyết.
[1] Kinh này nằm trong
Trường Bộ, số 27.
Bài Kinh này có nội dung tương đương với
Kinh Tiểu Duyên, số 5 trong
Trường A-hàm (ghi chú của người dịch).
[2] Trích từ
Buddhism, Science, and Antheism by Douglas M. Burns M. D.