Tập Truyện Ngắn I Của Tâm Không Vĩnh Hũu

06/01/201112:00 SA(Xem: 10281)
Tập Truyện Ngắn I Của Tâm Không Vĩnh Hũu

BỒ TÁT HIỆN THÂN
 Tâm Không Vĩnh Hữu

S
ắp Tết đến nơi rồi. Ngồi bên vỉa hè ngập nắng trước ngôi chùa suốt ngày đóng cổng tam quan im ỉm tịch lặng, dì Thanh rơm rớm nước mắt nhìn dòng người ngược xuôi tấp nập trên đường, ai nấy cũng lăng xăng sắm sửa chuẩn bị tống tiễn năm cũ, còn dì thì cứ như bất động, muốn động đậy cũng không còn sinh lực để nhấc cử tay chân. Bây giờ có muốn lo toan đèo bòng cùng thiên hạ, sắm thứ này thứ nọ, thì dì cũng chẳng có tiền để mà đứng dậy đi ra chỗ chợ búa xôn xao trăm hàng khoe sắc. Dì cúi xuống nhìn bé Trang đang nằm ngủ thật vô tư trên manh chiếu rách nát. Tội nghiệp cho bé, mới năm tuổi đầu mà phải chịu đời gió sương nắng bụi, không hưởng được tình thương yêu của cha của mẹ. Dì Thanh chỉ là dì ruột, vì tình huyết thống mà đưa tấm thân mang tật nguyền ra để cưu mang hai đứa cháu nhỏ dại bị cha mẹ bỏ rơi. Dì đã ôm lấy bé Trang, và thằng cu Hoài anh nó, vào vòng tay đầy hơi ấm của mình vào một đêm đông rét buốt, khi cha chúng đã bỏ xứ đi biền biệt mang theo tất cả vốn liếng để xây tổ uyên ương mới với một người phụ nữ lẳng lơ xinh đẹp. Mẹ của chúng, chính là em ruột duy nhất của dì, cũng là loại người vô tâm, lẳng lặng bán đi căn nhà, đem hai con của mình gửi vào nhà trẻ của xã, rồi ôm vàng chạy đi theo duyên mới với một anh tài xế quê tận xa xa, không màng quay lại đón con. Dì Thanh choáng váng, khóc đến mất cả giọng, khi căn nhà nhỏ tuềnh toàng đơn sơ của cha mẹ để lại cho hai chị em dì đã thuộc về quyền sở hữu hợp pháp của người khác. Một ông kinh doanh địa ốc đã mua đứt cả nhà và đất, lạnh lùng dẫn người lại tống khứ dì ra khỏi nơi bao năm nương náu. Đã vậy, hai đứa bé côi cút bơ vơ còn khóc ré lên, ôm níu lấy đôi chân teo tóp khẳng khiu của người dì ruột mà cầu cứu... Dì cháu ôm nhau khóc ròng, gom góp được ít đồ đạc, lết vào sân đình tạm trú một thời gian. Bà con trong thôn xóm cũng đã hết lòng giúp đỡ, động viên dì Thanh trong những tháng ngày sống vất vơ chẳng nhìn thấy được ngày mai. Nhưng vì là quê nghèo cằn cỗi, sự giúp đỡ lúc ngặt nghèo của mọi người chỉ như đem muối bỏ bể, dì Thanh buộc lòng phải mạo hiểm, cùng hai cháu còn nhỏ dại trôi dạt về thị trấn kiếm ăn, sống nhờ vào lòng hảo tâm của người qua kẻ lại mấy tháng trời. Rồi, dì lại đưa hai cháu cùng với mình về thành phố, với hy vọng sẽ tìm đươc người mẹ vô tâm của hai đứa bé trong thời gian ngửa tay đưa nón ăn mày thiên hạ. Cuộc sống trôi sông lạc chợ của dì cháu cứ mãi tiếp diễn tưởng chừng như bất tận, chút hi vọng trong dì chỉ còn là đốm lửa nhỏ leo lét đang dần dần nguội lạnh, sắp sửa thành tro bụi bay đi. Gần cả tháng nay, hai chân dì đau nhức đến độ phải cắn môi đến tươm máu để chịu đựng, bé Trang thì cứ sốt từng cơn vào mỗi chiều xuống, dì phải luôn túc trực bên đứa cháu tội nghiệp mà lúc này dì đã xem như là đứa con đứt ruột đẻ đau của mình, không thể lê lết ra chợ để bán vé số như mọi ngày. Chỉ còn thằng cu Hoài là được trời thương, trời ban cho khỏe mạnh nhanh nhảu, nó đã một mình đi khắp các ngõ ngách trong thành phố để bán vé số, nếu gặp khách cần thì đánh giầy, kiếm được bao nhiêu đều mang về đưa hết cho dì. Dì Thanh chọn vỉa hè trước ngôi chùa để nghỉ ngơi cho yên tịnh, dì cảm thấy yên tâm phần nào khi nhìn thấy được hình bóng của đức Quán Thế Âm Bồ Tát bên trong sân chùa im ắng. Không nhang đèn, không hoa quả cúng dường, dì chỉ có một cái Tâm chân thành và lòng tin mãnh liệt để khấn cầu đấng từ bi gia hộ cho dì và hai đứa cháu ngây thơ bé bỏng được tai qua nạn khỏi, có được chút niềm vui vào những ngày cuối năm đang đua nở trăm hoa. Lời khẩn cầu tha thiết bi ai của dì chừng như bay vào khoảng không rồi tan biến vào hư vô, không được nghe một lời hồi âm từ bên trong chốn già lam tịch lặng... Trưa rồi, nắng lên trên đỉnh đầu rồi mà dì chưa thấy bóng dáng của thằng cu Hoài trở về cùng với thức ăn trưa mà khi sáng dì đã dặn dò nó mua. Tội nghiệp cho thằng nhỏ, chiều hôm qua nó đi bán vé số về, hí hửng đưa cho dì cả trăm nghìn đồng, một tờ giấy bạc mệnh giá một trăm nghìn đồng còn mới tinh thơm phức, nói rằng được một bác xe ôm tặng cho, nhờ nó đã bán cho bác hai tờ vé số trúng giải nhất. Dì cháu chưa kịp mừng, thì tối hôm ấy bị cả băng đầu trâu mặt ngựa của xóm chợ kéo đến trấn lột sạch. Dì cháu chỉ còn biết ôm nhau mà khóc tức tưởi. Thằng cu Hoài nói: “Thôi, để mai con đi tìm bác xe ôm, mét cho bác nghe, thế nào cũng cho con lại số tiền đó!”. Nó đi cả buổi sáng, không thấy quay về, vậy là dì đủ hiểu nó đã không gặp được lại người mà nó cần tìm. Thôi thì không cầu tờ giấy bạc một trăm nghìn nữa, dì chỉ mong cho thằng cháu trở về lành lặn, đừng gặp phải chuyện gì đau buồn trong khi đi bán mấy chục tờ vé số – vốn liếng còn sót lại nhờ dì giấu trong chiếc gối nhỏ của bé Trang nằm – và mang thức ăn về để dì cháu ăn qua loa xong bữa. Bé Trang đã thức giấc, dụi mắt, lồm cồm ngồi dậy, cặp mắt to có đôi tròng đen lay láy đảo nhìn bốn bên, hỏi dì: “Anh Hoài của con đâu rồi dì Hai?”. Dì xoa đầu cháu, nghẹn giọng: “Sắp về rồi con. Ráng chờ chút xíu nữa...”. Dì ngóng về phía đầu đường, lòng sôi bỏng đến quên cả đôi chân đang nhức nhối. Bé Trang ngồi dựa hẳn vào người dì, nói lí nhí: “Con đói bụng quá...”. Tim dì như vừa bị một bàn tay thô lỗ vô hình bóp cấu. “Ừ, ráng chờ một chút nữa thôi, anh con sắp mang bánh mì thịt về rồi. Dì cho con ăn cả một ổ luôn nhé!”, dì dỗ dành cháu với lệ lưng tròng, rồi bần thần nhìn lên trên trời cao. Nắng chói chang. Bóng mát của cây hoa sứ sát tường phía bên trong chùa đã chạy đi mất rồi. Dì lấy chiếc nón lá tả tơi che lên đầu cho đứa cháu gái. Bé Trang chợt hỏi: “Cái cô Bồ Tát gì đó đến thăm dì chưa vậy?”. Dì nhíu mày: “Cô Bồ Tát nào?”. Bé Trang dụi mắt, nhìn quanh, nói: “Cô Bồ Tát hiện thân mà hôm qua anh Hoài của con kể đó!”. Dì giật mình, chợt nhớ ra câu chuyện "vu vơ vớ vẩn" do thằng cu Hoài huyên thuyên kể cho dì và bé Trang nghe hồi chiều hôm qua, sau khi nó khoe xong chuyện được bác xe ôm thưởng tiền. Chuyện về một cô gái được mang tên hiệu “Bồ Tát hiện thân”.

Thằng cu Hoài nghe người ta, những người bần cùng vô gia cư sống rày đây mai đó trên các vỉa hè ở khu vực trung tâm thành phố, kể cho nghe về sự xuất hiện của một cô gái giàu có trong thời gian gần đây. Cô gái đi trên một chiếc xe con đã cũ kỹ, có tài xế riêng, đến với những người sống lang thang vất vưởng, nhất là trẻ em tàn tật, mồ côi, bằng một tình thương đặc biệt và sự giúp đỡ thiết thực hiếm thấy. Nghe rằng, đã có hằng trăm người tàn tật được cô gái tặng cho xe lăn, có hằng trăm trẻ em được tặng quần áo và sách vở, có hằng trăm người già neo đơn được lo cơm ăn áo mặc và thuốc men chữa bệnh ... Cô gái hiện ra như một vị thần tiên, rồi biến đi như một thiên vương, người ta không biết rõ vị ân nhân của mình đã đến từ đâu và tên thật là gì, nên gọi là “Bồ Tát hiện thân”. Có người đoán rằng cô gái là con của một vị quan to ở cấp Trung Ương; có người cho rằng đó là một Việt Kiều yêu nước hồi hương làm việc từ thiện; có người lại bảo rằng có lẽ đó là một hiệp khách kiểu như những anh hùng Lương Sơn Bạc, đã cướp của nhà giàu, của bọn quan tham nhũng để đem chia cho nhà nghèo... Nhưng tất cả chỉ là lời đồn đại, không có căn cứ và bằng chứng nào đủ sức thuyết phục. Cô gái đã giúp đỡ rất nhiều người, đã đến với cả những ai mang bệnh phong cùi bị người đời xa lánh ruồng rẫy để chăm sóc hỏi han, và lũ trẻ bụi đời - nhất là những đứa tật nguyền – đều biết mặt của “Bồ Tát hiện thân”, chúng xem cô gái lạ kỳ huyền bí ấy như một nàng tiên bước ra từ trong cổ tích đến với cuộc sống hiện đại của thế kỷ mới. Vậy rồi, cách đây khoảng một tuần, bác tài xế của “Bồ Tát hiện thân” đã vui miệng kể cho bà con nghe sự thật về thân thế lai lịch của người con gái giàu có, đang là Giám đốc một Công ty Trách nhiệm Hữu hạn chuyên môi giới mua bán bất động sản. “Bồ Tát hiện thân” tên thật là Quyên, hoàn toàn là người bằng xương bằng thịt, không phải là các bậc Bồ Tát thánh chúng đến với đời thường từ bồng lai thượng giới. Thuở ấu thơ, Quyên đã chịu cảnh côi cút bơ vơ không cha không mẹ, được ông bà nội nuôi nấng trong một gia cảnh túng bấn nghèo hèn. Ông bà nội già yếu, đem cháu qua gửi cho người chú ruột của Quyên cưu mang dạy dỗ. Người chú ngược đãi, hành hạ Quyên như con ở, đánh đập mắng nhiếc cháu mình thường xuyên. Chịu không nổi những kiểu dạy bảo bạo tàn và nuôi nấng bạc bẽo của chú thiếm, Quyên đã trốn nhà bỏ quê ra đi về phương trời vô định ... Sau nhiều năm dài cô thân độc thế lăn lộn với đời đầy chông gai cạm bẫy, bằng nghị lực phi thường Quyên đã vượt qua những vất vả khổ đau, từ đôi bàn tay trắng của phận gái yếu mềm cùng với chữ Tín đi đầu, cô gái ngày nào bơ vơ lạc lõng đã dần dần làm nên sự nghiệp, trở thành chủ nhân của một công ty bề thế. Công thành danh toại rồi, Quyên vẫn nhất quyết không lập gia đình, để dành hết thời giờ và tâm huyết cho công việc khuếch trương phát triển Công ty và... làm việc thiện. “Bồ Tát hiện thân” đã bỏ tiền túi của mình kiếm được bằng mồ hôi, nước mắt và cả máu ra xây dựng hằng trăm căn nhà tình nghĩa khắp đất nước, dự định xây một “tổ ấm khổng lồ” cho những người sống bụi đời lang thang ... Thằng cu Hoài nghe sao kể vậy cho dì Thanh hay, và hi vọng dì cháu sẽ gặp được “Bồ Tát hiện thân” trong lúc này. Dì nghe thì nghe vậy, bụng lại không chút tin tưởng, cứ xem như một giấc mơ hão huyền để tạm quên đi cuộc đời đầy buồn khổ và ác mộng. Nghe rồi lại quên, suốt từ sáng đến trưa dì không hề nhớ nghĩ gì đến chuyện về “Bồ Tát hiện thân” mà thiên hạ đang truyền miệng ngợi ca. Không ngờ bé Trang lại nhắc hỏi, dì cảm thấy khó ăn khó nói với đứa cháu thơ dại, nhưng nhìn thấy đôi mắt đen láy tràn đầy hi vọng của nó, dì cầm lòng không đậu phải nói: “À, cô Bồ Tát ấy chỉ hiện ra vào ban đêm, vào khuya vắng vẻ, và những chỗ có đông người. Còn dì cháu mình đang ở trước cổng chùa vắng lặng, chỉ có đức Quán Thế Âm Bồ Tát thôi!”. Bé Trang nũng nịu: “Vậy thì con chờ đến tối, đến khuya, thế nào cô Bồ Tát cũng đến tặng quà cho dì, cho anh Hoài và cho con nữa!”. Dì Thanh mỉm cười đau xót, để quên đi giây phút chờ ngóng thằng cu Hoài trở về, dì cố nghĩ chuyện nói với bé Trang: “Vậy, nếu cô Bồ Tát hiện ra, con sẽ xin quà gì?”. Bé Trang cười hồn nhiên: “Con sẽ xin cho dì một chiếc xe lăn. Con xin cho anh Hòai một chiếc xe đạp để đi bán dạo. Rồi con xin cho con một chiếc áo đầm mới, nón mới, giầy mới, với một phong bì lì xì có nhiều tiền để con lì xì lại cho dì!”. 

Dì Thanh xúc động ôm cháu gái vào lòng. Bé Trang ngạc nhiên: “Sao dì khóc?”. Dì chùi nước mắt, hôn lên trán cháu, nấc nghẹn: “Dì cảm ơn cháu!”.

Vừa lúc ấy, một chiếc xe con màu xám tro đậu xịch sát bên lề. Hai dì cháu giật mình, nhướng mắt lên ngó, thấy bác tài xế mở cửa bước xuống, bước ra phía sau mở tiếp cánh cửa sau của xe. Từ bên trong, một thằng nhỏ nhảy phóc xuống, mặt tươi cười hí ha hí hửng reo lên: “Dì Hai ơi... Bé Trang ơi... Cô Bồ Tát hiện thân đến thăm nè!”. Dì Thanh nhổm người lên, trừng mắt nhìn kỹ, đúng là thằng cu Hoài rồi, nhưng ... nó vừa nói gì mà Bồ Tát với Bồ Đoàn vậy? Dì chưa kịp hiểu chuyện gì đang đến, thằng cu Hoài đã nhào tới, sà vào lòng dì mà lay lay: “Dì Hai, có cô Bồ Tát đến kìa!”. Nhìn theo ngón tay nó chỉ, dì Thanh thấy một cô gái bước ra từ trong chiếc xe con. Một gương mặt phúc hậu hiền từ, và một nụ cười thân thiện cởi mở đang chào dì. Cô gái thoăn thoắt bước lại gần bên dì Thanh, giọng rót ra thật ngọt ngào: “Chào chị, em là Quyên. Bà con gọi trêu em là Bồ Tát hiện thân, thiệt ra em chỉ là một con người bình thường thôi chị ạ!”. Dì Thanh bàng hoàng, lúng túng: “Thật vậy sao? Cô... cô chính là nhà hảo tâmbà con đang ca tụng hết lời đó sao?”. Cô gái cười nhẹ nhàng: “Em tình cờ gặp cháu Hoài nằm ngủ trên ghế đá bên bãi biển, ghé vào thăm hỏi, được cháu kể cho biết mọi chuyện về cha mẹ, về người dì... Em rất muốn được giúp đỡ chị và hai cháu trong lúc này!”. Dì Thanh nghe ù cả hai tai, rơm rớm nước mắt, giọng run run: “Trời cao có mắt, đã đưa đường dẫn lối cho cô tìm đến với dì cháu tôi...”. Dì Thanh không nói tiếp được nữa vì quá xúc động, khóc òa lên trước vòng tay vỗ về của “Bồ Tát hiện thân”. Bé Trang lên tiếng sau mấy tiếng vỗ tay: “Hoan hô cô Bồ Tát, con biết thế nào cô cũng tìm gặp con mà!”. Nở nụ cười tươi như hoa, “Bồ Tát hiện thân” xoa đầu bé Trang, nói: “Ừ, cô tìm đến với cháu đây. Cháu ước muốn thứ gì nào?”. Bé Trang không chút ngần ngại: “Con muốn có một chiếc xe lăn cho dì Hai ngồi. Có một chiếc xe đạp nhỏ cho anh Hoài đạp đi bán dạo đỡ mỏi giò mỏi cẳng. Còn con thì... cô cho con thứ gì con cũng lấy hết á!”. Bật cười giòn tan, “Bồ Tát hiện thân” nói từng tiếng chắc nịch: “Được rồi, có hết. Bây giờ trước tiên, cô mời hai cháu và dì Hai cùng lên xe, về nhà cô, rồi việc sẽ được giải quyết từng bước một!”. Dì Thanh được bác tài xế và “Bồ Tát hiện thân” dìu lên ngồi trên xe, hai đứa nhỏ cũng phóc lên theo, ngồi hai bên dì. Xe nổ máy, lăn bánh. Lần đầu tiên trong đời, dì Thanh mới được ngồi trên một chiếc xe hơi, thật là như trong mơ. Trước khi xe lăn bánh, dì đã kịp nhìn vào bên trong sân chùa, nơi ấy có tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát dường như vừa mới mỉm cười, nheo mắt với dì. Dì tự hỏi phải chăng đó là nụ cười hồi âm, cái nheo mắt trả lời cho những lời khẩn cầu của mình? Dì ngó tới trước, bất chợt nhìn thấy gương mặt của “Bồ Tát hiện thân” trong chiếc gương chiếu hậu. Bồ Tát bằng xương bằng thịt kia đang nhìn dì đăm đăm, rồi cười hiền hòa, và nheo con mắt bên phải một cái... Xe lao nhanh trên đường phố nhộn nhịp đón xuân sang…

ĐỘNG CỬA THIỀN
 Tâm Không Vĩnh Hữu

Đầu xuân, chùa làng nghi ngút hương trầm, thiện nam tín nữ chen chúc nhau vào chánh điện dâng hương bái Phật. Người ra kẻ vào ngược xuôi như bất tận, mặt ai nấy đều vui tươi phấn chấn, y rằng cuộc đời này không hề có đau khổ lo toan. Nhưng rồi, mọi người phải cau mày nhíu mặt khi trông thấy một cô gái lạ lùng đang lảng vảng ngoài sân chùa, hệt như người từ hành tinh xa lạ mới xuống thăm trái đất.

Cô gái lạ lùng vì nổi bật giữa đám đông do có một sắc đẹp mê hồn, phải công nhận là tuyệt thế giai nhân. Dáng cao hơn một thước bảy. Tóc đen óng ả phủ dài xuống lưng. Những vòng đo lý tưởng. Đầy đặn và trắng trẻo. Gương mặt khả ái, sáng sủa. Nếu khônghoa hậu hoa khôi, thì cũng là người mẫu tầm cỡ ngôi sao. Không ai có thể nhăn mặt bực mình trước cái Đẹp bao giờ. Có điều, chỉ vì cô gái đã tự chọn cho mình bộ trang phục quá độc đáo, quá quái gở. Chiếc váy ngắn cũn cỡn, tưởng như không còn kiểu nào ngắn hơn, khoe cặp giò dài khêu gợi. Chiếc áo thun bó sát ôm lấy thân trên bốc lửa, thân áo trước và thân áo sau được liền lạc với nhau chỉ bằng hai sợi dây mỏng mảnh vắt qua hai bên bờ vai tròn trịa và đầy đặn. Đẹp không chê vào đâu được, nhưng nếu cô ta đang đứng trên sàn diễn, hoặc đi trên phố cờ hoa rực rỡ ngoài kia. Đằng này, cô ta lại xuất hiện ngay chốn già lam tôn nghiêm thanh tịnh mới gây nên những nỗi bất bình từ những người chung quanh. Sự phẩn nộ, ghê sợ hiện rõ trên gương mặt những ai nhìn thấy cô gái, nhưng chưa ai lên tiếng thẳng thắn góp ý với con người lạ lùng, chỉ mới nghe những lời chê trách đàm tiếu nho nhỏ phía sau lưng người đẹp.

Một anh huynh trưởng gia đình Phật tử bước lại bên cô gái bằng sự nổ lực phi thường, can đảm tột bực, đưa cho cô ta một chiếc áo tràng màu lam, giọng nhã nhặn:

- Chào chị, chị vui lòng mặc chiếc áo này vào, nếu cần thì chị có thể mặc luôn về nhà, tôi rất lấy làm hân hạnh khi được tặng chị nhân ngày đầu năm mới!

Cô gái tròn xoe đôi mắt, nhìn anh huynh trưởng, rồi nhìn chiếc áo tràng với vẻ kinh ngạc, thản nhiên lắc đầu. Anh huynh trưởng bực bội, giứ chiếc áo tràng tới, nói:

- Chị làm ơn mặc vào giùm cho. Đừng để mọi người khó chịu, và đừng để chư tăng nhìn thấy được mà tổn đức đó!

Cô gái nhíu cặp chân mày lá liễu, hỏi cộc lốc:

- Vì sao?

Anh huynh trưởng không còn tự chủ được, cáu gắt:

- Chị còn chưa hiểu vì sao ư? Nơi đây là chốn tôn nghiêm, không phải chỗ chợ búa hay sân khấu kịch trường, cho nên trang phục trên người chị không phù hợp chút nào, rất chướng mắt mọi người. Chị thật tình không biết, hay giả bộ không biết?

Cô gái phì cười, một nụ cười tươi tắn tuyệt đẹp, lắc đầu:

- Biết làm gì để vướng? Ai thấy chướng thì đừng nhìn. Mấy người đi chùa lễ Phật bái tăng, hay là đến đây để nhìn ngắm nhau? Ai tu nấy chứng, hãy để cho tôi yên!

Anh huynh trưởng cứng họng, không biết phải xử sao, trong lúc nhất thời đành đứng đực ra đó với chiếc áo tràng trên tay. Thời may, có một vị sư trẻ bước lại đứng trước cô gái, xá dài một cái, cất giọng từ tốn:

-A Di Đà Phật! Cửa Từ Bi luôn rộng mở để phổ độ chúng sanh, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, trẻ già nữ nam… Nhưng, đừng vì vậyxem thường chốn thanh tịnh, tạo nên phiền toái. Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, chị ăn mặc như vậy mà vào chùa, có khác nào báng bổ đạo giáo, xúc phạm Tam Bảo? Mong chị hoan hỷ mặc áo tràng vào cho…

Cô gái cười duyên dáng, hỏi:

- Thầy thấy tôi ăn mặc thế nào?

 Vị tăng trẻ lúng túng:

- Ờ… thì… rất hở hang … không nghiêm túc kín đáo…và…

Cô gái đưa tay vuốt mái tóc, ưỡn bộ ngực đầy sức sống, thản nhiên nói:

- Thầy tu hành mà còn chấp quá! Tâm của thầy còn động lắm. Lục căn của thầy chưa được tinh tấn, vẫn còn vướng điều phàm tục. Tốt hơn hết, thầy nên đóng cửa nhập thất để khỏi nhìn thấy những điều bất thanh bất tịnhphụ nữ đàn bà!

Vị tăng trẻ xanh mặt, cúi đầu, mắt nhìn chăm chăm xuống đất, bước đi lẫn vào đám đông Phật tử ngược xuôi ngoài sân… Cô gái cười nửa miệng, quay sang hỏi anh huynh trưởng:

- Anh có vui lòng chỉ cho tôi tịnh thất của sư trụ trì không? Tôi đang rất muốn được vào vấn an ngài, và thỉnh giáo đôi điều…

Anh huynh trưởng nhíu mày nghĩ ngợi, tặt lưỡi:

- Dẫn chị vào tịnh thất của thầy trụ trì thì thật là không nên chút nào. Nhưng, có lẽ phải làm điều dại dột này, vì chắc tình huống oái oăm khó xử như bây giờ, chỉ có thầy mới đủ đạo lực khai tâm điểm đạo cho chị thấy được phải trái!

Nói rồi, anh ta mời cô gái đi theo mình, băng qua đám đông, vào phía dãy nhà sau chánh điện. Anh ta dừng lại trước cửa một căn phòng, quay sang nói với cô gái:

- Chị vui lòng đứng chờ ở đây một lát, để tôi vào cáo bạch với thầy trước, khi nào thầy đồng ý tiếp khách, tôi sẽ ra mời chị vào. Được chứ?

- Ô-kê!

Anh huynh trưởng nhún vai ngán ngẫm, đưa tay gõ cửa ba cái. Bên trong có tiếng vọng ra: “Ai? Cần gì?”. Anh huynh trưởng cao giọng:

- Bạch thầy, con là Tâm Tịnh, huynh trưởng gia đình Phật tử, có việc rất hệ trọng cần cáo bạch với thầy ạ!

Bên trong phòng vang lên giọng sang sảng:

- Tâm Tịnh đó ư? Vào đi, cửa không khoá!

Anh huynh trưởng mở cửa, bước nhanh vào trong và đóng lẹ cánh cửa lại. Cô gái đứng tủm tỉm cười, chờ đợi với vẻ háo hức. Chừng mười phút sau, cửa mở, anh huynh trưởng bước ra, nói:

- Chị được phép vào. Nhớ giữ ý giữ tứ một chút nhé!

Cô gái cười khẩy, bước vào phòng. Một vị tăng tuổi độ lục tuần đang ngồi trên chiếc phản mun đen bóng trong tư thế kiết già, ánh mắt sáng rực rọi chiếu thẳng vào mặt vị khách mới vào. Cô gái chấp tay xá ba cái, thưa:

- Bạch thầy, con có thắc mắc xin thầy điểm giáo…

- Cứ hỏi. Đây nghe.

- Bạch thầy, con ăn mặc như thế này, vào chùa lễ Phật bái tăng, lại bị mọi người chê trách chỉ trích, bị tăng phê bình bắt lỗi, xin hỏi thầy ai đúng ai sai?

- Ai cũng đúng. Ai cũng sai.

- Bạch thầy, người phàm cố chấp đã đành, nhưng người đã xuất gia tu hànhvướng mắc những chuyện lễ nghi giáo điều để đi bắt bẻ con, xin hỏi thầy là đúng hay sai?

- Vừa sai, vừa đúng!

- Sao là sai? Sao là đúng?

- Sai, vì tu hành mà chấp nhặt những điều nhỏ nhặt. Đúng, vì giữ gìn thanh tịnh cho chốn già lam tôn nghiêm, đó là bổn phận, là nhiệm vụ phụng sự Tam Bảo, hoằng dương Chánh Pháp!

- Con từng nghe rằng, ngọn cờ phấp phới bay, thậït ra cờ không bay mà gió bay, nhưng thật ra gió chẳng động mà do Tâm của con người đang động. Phải vậy chăng?

- Thật hay! Thật hay!

- Vậy, theo thầy thì con ăn mặc ra sao?

Bình thường.

Đáng trách hay đáng khen ạ?

- Hợp thời trang. Hiện đại. Gọn gàng. Tiết kiệm. Nếu người mặc không hề thấy ngượng nghịu, không chút gượng gạo, không phải âu lo, thong dong khứ đáo xuất nhập như rồng đạp mây, thì thật là đáng khen ngợi. Nếu mặc vào mà luôn thấy bị gò bó, thấy như bị mang của nợ, mang xích xiềng, không thoải mái đi đứng nằm ngồi thì thật là đáng thương, tội nghiệp, chứ không đáng trách!

Cô gái cười khanh khách ra điều thích thú. Sư trụ trì bật cười ha hả, tiếng cười tự tại vang động như đã rung chuyển cả giàn ngói rong rêu của tịnh thất. Rồi im lặng như tờ. Cô gái cất tiếng:

- Thầy thật cao thâm, vững như bàn thạch!

- Có phải đó là mục đích chính của cô khi ghé thăm bổn tự?

- …
Im lặng, tức đã thú nhận.

- …
- Cô mang một chút am hiểu giáo lý nhà Phật, một chút kiến thức cơ bản về sự Tĩnh Động, cố tâm cố ý vào chùa để thử thách cái Tâm Đạo của tăng ni giáo đồ. Sự cố ý làm cho người khác chao đảo tâm ý chính là ác tâm, chính là động rồi đó!

- Bạch thầy, quả đúng là con động. Nhưng đâu phải thấy người động mà mình phải động theo, phải vậy không thầy?

- Phải nhớ quanh cô đều là những chúng sanh đang tu, còn tu, chứ chưa có ai đắc đạo, chưa ai giải thoát được mình!

- Chỉ có thầy là tĩnh thôi sao?

- Vì đây là tịnh thất. Tâm người phải tĩnh, phải tịnh.

- Thầy không trách con về chuyện ăn mặc này thật sao?

- Không trách, mà còn khen. Áo quần chỉ là ngoại vật. Chúng vô tri vô giác, không tội tình gì. Chúng là vật ngoại thân, không là một bộ phận của thân thể con người…

- Và thân thể con người cũng chỉ là giả tạm…

- Chỉ là đất, nước, gió, lửa hội tụ tạo nên. Thân xác này còn là thứ bên ngoài, huống chi là quần với áo, xiêm với y?

- Chỉ cái Tâm bên trong mới là quan trọng?

- Tính động đều từ nơi ấy. Cho nên, nếu cô đã có gan ăn mặc hở hang thiếu thốn vải vóc để vào cửa thiền, thì hãy phát huy thêm bản lĩnh mà trút bỏ hết xiêm y giả tạm ra khỏi tấm thân giả tạm ngay nơi đây đi!
- …

- Trút bỏ hết đi!

trụ trì quát lên. Cô gái giật bắn mình, vội quỳ mọp xuống, đầu dập đất mấy cái. Sư lại quát:

- Trút hết. Rồi đi ra ngoài, dạo một vòng vãn cảnh mau đi!

- Bạch thầy… con không dám. Con không dám .Con xin dập đầu tạ tội. Đội ơn thầy đã khai tâm điểm đạo! 

… Anh huynh trưởng đứng chờ ngoài hành lang với ruột nóng gan sôi, cứ như đang đứng trên tổ kiến bồ nhọt. Và rồi, cánh cửa tịnh thất đã mở toang. Cô gái lạ lùng đã bước ra ngoài với vẻ mặt rạng rỡ tươi vui. Lạ lùng hơn, trên người cô ta đang mặc một chiếc áo nhật bình của tăng chúng. Cô gái cười chào anh huynh trưởng, bước thoăn thoắt hướng về phía chánh điện. Anh huynh trưởng lè lưỡi, bước nhón chân lại khép cánh cửa tịnh thất thật nhẹ nhàng. Rồi anh chấp tay xa ba cái về phía bên trong cánh cửa vô tri, nói:

- Quả đúng là chỉ có thầy mới trị được quỷ sứ ma vương!

 Anh ta thở phào nhẹ nhõm. Đầu năm vui thật. Thật là vui.

KHÔNG ÂN HẬN
 Tâm Không Vĩnh Hữu

Tàu vào ga, đỗ lại hơn nửa giờ, rồi lại tiếp tục hụ còi lăn bánh. Thằng Sấm nhảy xuống tàu, băng đến ghế đá ngồi đếm tiền vừa bán được thuốc lá, kẹo chewinggum… Suốt từ sáng tới tối, nó đã bán được nhiều hàng, lời khoảng ba mươi nghìn đồng, mừng lắm, phải nhanh chân đem về cho mẹ thôi. Bất chợt, nó giật mình khi nhìn thấy bên cạnh đường ray phía trước mặt, cách chỗ nó ngồi chừng mươi thước, có một túi xách bằng da của ai đánh rơi. Nó quét mắt nhìn quanh, chưa ai nhìn thấy, vội phóng đến nhặt ngay chiếc túi, cắm đầu bước như chạy về phía dãy tường nhà ga vắng vẻ. Ngoái đầu nhìn thử, không thấy có ai đuổi theo hay nhìn thấy nó đứng nơi đây, Sấm mới yên tâm mở thử túi xách. Một cục tiền. Quá khổng lồ. Chưa bao giờ thằng Sấm sờ nắn được một cục tiền to khủng khiếp như vậy. Nó run lên, không dám lục lọi tiếp, ngồi xổm xuống bần thần và mừng vui.

Tiền này mà đem về nhà, trao hết cho mẹ, chắn chắn nợ nần sẽ được trả sạch, và bệnh của mẹ sẽ được chạy chữa tới nơi. Mẹ đang thèm khát tiền, cần tiền, chờ ngóng tiền từng phút từng giờ, dù ít mẹ cũng mừng, dù chậm mẹ cũng vui… Mẹ đã viết hàng chục lá thư cầu cứu bạn bè, chị em, bà con thân tộc ở khắp xa gần trong nửa tháng qua, nhưng chẳng hề nhận được hồi âm. Mẹ đi chùa hằng ngày, lạy Phật lạy Tổ, lạy chư long thần hộ pháp, lạy tứ phương tám hướng, vậy mà không hề thấy một chút gì thay đổi. Hỏi mẹ, mẹ cười nói là “do cái nghiệp của mẹ còn nặng nề lắm”. Nghiệp là cái quái gì vậy ta? Vậy là mẹ cứ tiếp tục sống với vô vọng và tủi nhục. Bây giờ, nó phải đem số tiền khổng lồ này về cho mẹ ngồi bật dậy quên hết ưu phiền, và đuổi cái nghiệp đi cho khuất để nhẹ nhàng cho rồi… 

Thằng Sấm đứng dậy, rồi đứng im với vầng trán nhăn nhúm. Nó bần thần khi vừa nhớ đến lời mẹ dạy dỗ: “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Không được tiêu xài của phù vân. “Của phù vân” có phải là cái cục tiền to khủng khiếp này không vậy? Nó ôm túi xách vào lòng, xiết chặt với tiếc nuối. Nếu nghe lời mẹ, ngay bây giờ nó phải đem túi xách vào đồn công an ga, hoặc đến phòng bảo vệ, để giao trả. Nhặt được của rơi đem trả, chắc chắn nó sẽ được khen, được đưa lên báo đài, mẹ sẽ vui, sẽ hãnh diện tự hào vì có một đứa con ngoan. Nhưng không, lúc khác thì được, còn trong lúc ngặt nghèo nguy cấp này thì nó không thể đem trao trả cục tiền Trời ban tặng cho mình. Trời cho nó, chứ không phải Phật nào, hay thần thánh nào cho, vậy thì nó cứ việc “thọ hưởng”. Quyết định rồi, thằng Sấm băng băng về thẳng nhà đến nhà… Chân chạm đến trước cửa rồi, nó lại rùng mình chùn chân, đứng bất động suy tư. Rồi bằng những bước chân quả cảm đầy quyết tâm, nó chạy trở lại nhà ga, vào thẳng đồn công an, giao nộp chiếc túi xách còn nguyên vẹn từ ngoài vào trong. Nó tung tăng về nhà với mẹ, lòng nhẹ tênh và sảng khoái. Không bao giờ ân hận. Thằng Sấm nói thầm như vậy. Biết đâu, khi nó kể chuyện này, mẹ nó sẽ vui mừng mà khỏi bệnh. Và biết đâu, ngày mai, hay ngày mốt, công an nhà ga sẽ tìm đến nhà thưởng nó vài trăm nghìn đồng, rồi người chủ của chiếc túi xách cũng sẽ thưởng cho nó vài trăm nghìn, chưa kể đến cái tiếng thơm mà mẹ nó thường cho là vô giá sẽ còn vương bám theo nó như vầng hào quang rực rỡ… 

Thằng Sấm bước vào nhà, nhìn thấy mẹ nó đang ôm một người phụ nữ, hai người đều đang khóc nức nở. Người phụ nữ quay lại nhìn, nó nhận ra ngay đó là Dì Ba, em ruột của mẹ, ở thành phố Hồ Chí Minh mới ra. Dì Ba ôm nó vào lòng, khóc: 

 – Cháu ơi… mất hết rồi! Dì ôm tiền ra cứu mẹ cháu… vậy mà đánh rơi mất ở sân ga rồi… 

 Thằng Sấm trố mắt lên, kinh hoàng

 – Dì… để tiền ở đâu… mà mất? 

 – Trong một túi xách… Vì còn xách hai giỏ quần áo với quà… lúc xuống tàu… đánh rơi lúc nào không hay… 

 – Túi xách bằng da, màu… cà phê sữa… bên trong có một cục tiền… với gương lược… 

 – Sao? – Dì Ba thằng Sấm giành hết phần kinh ngạc – Sao cháu lại biết rõ vậy?
 Thằng Sấm thở phào, sung sướng gào to lên: 

 – Cháu nhặt được nó, cháu nộp cho công an nhà ga rồi!

 Rồi nước mắt nó trào ra, trào ra… 

THÕNG TAY VÀO CHỢ
 Tâm Không Vĩnh Hữu

Mùa Xuân lững thững về. Anh cũng lững thững đi ra phố chợ. Hai bàn tay trơ trọi của anh đút sâu vào hai túi quần rỗng trống buồn tênh. Anh mỉm cười thong dong bước đi, hòa vào dòng người nhôn nhao tất tả. “Tôi không phải là kẻ móc túi!”. Anh muốn nói với mọi người chung quanh điều ấy, và chắc khi nhìn thấy anh, mọi người cũng nghe được lời anh nói qua điệu bộ buồn cười của anh. Anh vào chợ chỉ để đưa mắt ngắm nghía, hít thở không khí của chợ búa ngày Xuân, cho đến khi mệt mỏi anh mới trở về nằm dài trên chiếc giường ọp ẹp, tay xoa bụng lép kẹp, mắt nhìn bâng quơ lên trần mái dột nát của căn gác nhà trọ già nua, để tưởng tượng, ước mơ một ngày mai tươi sáng.

Tội nghiệp, cuộc đời anh đã trải qua quá nhiều biến động chỉ trong vòng mười lăm năm… Khi đang còn mài đủng quần trên ghế giảng đường Cao đẳng Sư phạm, anh có một tình yêu thật đẹp, và anh đã nuôi tình yêu đó bằng cả trái tim mình. Người yêu anh có tên của một loài hoa thân quen dễ nhớ: Lê Thị Hoa Hồng. Anh và nàng cùng học chung trường, chung khối, chung cả đường đi lối về, nên những tháng ngày mà tình yêu mới chớm nở thật lãng mạn dễ thương. Hai người cùng ra trường, trở thành hai người chèo đò đưa học trò qua dòng sông tri thức cuồn cuộn, nhưng mỗi người chèo chống một phương cách xa nhau. Anh lên miền núi. Nàng ra hải đảo. Những lá thư đôi lứa liên lạc với nhau, hứa hẹn, thì thầm nhỏ to, kèm theo những nụ hôn gió, đều bò chậm còn hơn rùa già bò lên đồi dốc thẳng đứng, nhưng rất quý. Một viễn cảnh tươi đẹp, thơ mộng. Một tương lai êm đềm. Tất cả đều đã được đôi lứa lên kế hoạch một cách chi tiết, tính toán chính xác bởi hai giáo viên chuyên Toán. Chỉ cần vượt được thời gian thử thách là những gì trên giấy trắng mực đen, trong ý tưởng, hay trong những giấc mơ sẽ trở thành sự thật…

Đùng một cái, mẹ anh qua đời. Anh hụt hẩng, trở về chịu tang trong đau đớn khôn tả. Nàng hay tin chậm, cũng xin phép nghỉ đột xuất để về thắp nhang khóc lạy. Hai người được gặp nhau trong hoàn cảnh đau buồn ấy, nên không nói gì được nhiều, chỉ nắm tay nhau để truyền cho nhau sinh lực mà đứng vững giữa biến động đầy xót xa. Rồi thôi, lại chia tay mỗi người một ngã với cái hẹn bâng quơ. Anh xuống tinh thần từ dạo ấy. Niềm vui, niềm tin có từ những buổi đứng lớp dạy học, từ những giây phút dạy dỗ đám học trò ngây ngô ở vùng rừng núi đìu hiu, đã không đủ làm cho anh khuây khỏa nỗi đau mất mát được mang cái tên phũ phàng: mồ côi mẹ. Cha anh đã mất trong một tai nạn giao thông từ khi anh mới lên ba. Người thân còn lại của anh chỉ có mẹ và người anh trai cộc cằn thô lỗ. Mẹ cũng không còn, anh có lúc tưởng chừng mình không chịu đựng nổi. Nhưng anh dần dần được hồi tỉnh, được xoa dịu cho vơi đi cái rát buốt trong lục phủ ngũ tạng kể từ khi anh tình cờ gặp được sư Kiến Tâm. Đó là một buổi chiều chủ nhật rảnh rang, anh tản bộ lang thang khắp cái vùng “chó ăn đá, gà ăn muối”, chỉ với mục đích duy nhất là đi cho khuây khỏa qua ngày giờ trống vắng tẻ nhạt. Anh lạc vào tịnh thất nằm trên lưng chừng núi của sư thầy tu pháp môn Thiền. Từ ngày được cái duyên gặp gỡ quý báu ấy, bất cứ khi nào rảnh là anh tìm đến tịnh thất của sư Kiến Tâm để nghe những lời giáo huấn, để mở mang thêm kiến thức, và cũng để học và hành những “tuyệt chiêu” ngăn diệt khổ đau có hiệu quả tức thì. Anh đang có chút hào hứng khám phá một con đường mới mẻ lạ lẫm, thì được tin từ lá thư của người anh trai dưới thành phố gửi lên báo cho biết: căn nhà của cha mẹ để lại cho hai anh em đã thuộc về quyền sở hữu của người khác. Người anh trai đã đoản hậu bán nhà để trừ món nợ khổng lồ do thua độ liên tiếp cả một mùa bóng đá World Cup. Còn được chừng năm cây vàng, người anh “dễ thương” đã gửi cho hàng xóm giữ hộ phần chia cho em trai mình là hai cây, rồi lận túi số còn lại, bỏ nơi chôn nhau cắt rốn dông tuốt theo một cô bồ đi lưu lạc giang hồ, không hẹn ngày trở lại… Một lần nữa, trời sập trên đầu, đất lún dưới chân anh. Anh xin nghỉ phép về thành phố, nhận số tài sản ít ỏi được chia chác mà khóc rưng rức, rồi trở lên lại miền núi với một tâm thần bất ổn. Anh suy sụp hoàn toàn, bắt đầu chui đầu vào quán mà uống rượu giải khuây, dạy học không còn hứng thú, sống không còn niềm tin, ngại liên lạc với Hoa Hồng, và tự dưng rất sợ gặp sư Kiến Tâm, như ma quỷ sợ Bụt vậy! Chuyện gì đến cũng đã đến, anh bị Ban giám hiệu kỷ luật, quyết định trả anh về cho Phòng giáo dục xử lý vì cái tội rượu chè be bét mất đạo đức của người thầy, dạy không ra dạy, phụ huynh học sinh khiếu nại quá xá. Anh không một lời phân bua, vì biết mình hoàn toàn đã sai lầm, mình như một đoàn tàu đã chệch khỏi đường ray, có bị kỷ luật nặng cũng chẳng oan ức gì. Anh cuốn gói rời khỏi chốn học đường, nhìn về nẻo trước mịt mờ mà lòng ê chề chán ngắt. Phải về lại phố thị phù hoa thôi. Nhưng trước khi hạ sơn xuống phố, thật may, anh lại có đủ can đảm để ghé vào tịnh thất chào sư Kiến Tâm một tiếng gọitạ ơn khai tâm điểm đạo. Anh được sư giữ lại tịnh thất 3 ngày ăn chay nằm đất, nghe chuyện dưới đất trên trời, và nghe được cả một câu chuyện dài về thuật chăn trâu qua cuốn sách đã nhàu nát cũ mèm mang tên “Thập mục ngưu đồ” (mười bức tranh chăn trâu) của Thiền tông Phật giáo Đại thừa. Sau ba ngày ba đêm được nghe giảng giải, lĩnh hội được những ẩn ý ẩn dụ của mười bức tranh trông rất chân quê mà lại vô cùng cao siêu thâm thúy, anh có phần nào tỉnh hồn, vơi đi nhiều buồn bực và nỗi dày vò day dứt, lạy tạ sư thầy mà trở về với cõi dưới núi. “Mất dạy”, cái từ mà anh nghe người ta thường dùng để đùa khi nói về một giáo viên bị mất việc, không ngờ có ngày lại rơi vào số phận của chính anh. Đó là một điều sỉ nhục khổng lồ mà anh đã phải còng lưng mang về chốn thị thành. Anh chấp nhận cõng khiêng vác rinh nó như để tự trừng phạt mình, nhưng cũng chính vì sự xấu hổ ấy mà anh đã không dám liên lạc với người mình yêu đang tận tụy với nghề ở ngoài hải đảo xa xôi. Anh chạy trốn nàng, trốn chạy để khỏi nói lên sự thật, cay đắng chát chua, thà trốn chạy còn hơn là nói dối, vì anh chưa bao giờ nói dối với nàng dù là nói dối cho vui. Anh trốn chạy nàng bắt đầu bằng một cuộc phiêu lưu tha phương cầu thực, xếp xó trong ba lô những gì liên quan đến một nhà mô phạm, như che giấu một tội lỗi không thể tha thứ. Anh trôi dạt qua những công trường xây dựng, thủy lợi, cao su với đôi tay trắng, vắt tươm sức lao động ra để đánh đổi miếng cơm manh áo qua ngày đoạn tháng. Anh trôi theo dòng sống như đám lục bình trôi trên sông, hết vào Nam lại ra Trung, hết lên Tây Nguyên lại về Đông Nam Bộ… Đáng nhớ nhất là có thời gian được hơn một năm, anh đã dừng chân tại một ngôi chùa làng để đứng trên bục gỗ giảng dạy cho các em học trò nghèo ở lớp học tình thương. Rồi vì chuyện cơm áo bức bối, anh lại cuốn gói ra đi vô định, trở lại với cuốc xẻng búa rựa, dầm mưa dãi nắng trên các con kênh chạy ven theo chân núi, các trạm bơm nằm bên bờ sông hiền hòa, các ngôi nhà đồ sộ sừng sửng mọc lên giữa lòng đô thị xôn xao… Quay đi ngoảnh lại, anh giật mình khi thấy đã trôi qua hơn mười năm. Mườùi năm hèn nhát chạy trốn, không mảy may liên lạc với Hoa Hồng, anh cũng đã quen dần với những đêm nằm vắt tay lên trán suy tư trăn trở chuyện ngày mai, và trằn trọc hồi tưởng chuyện quá khứ… Anh bỗng dưng không còn sợ gặïp Hoa Hồng nữa, mà còn khát khao muốn tái ngộ với nàng, hai người dù đói dù nghèo, dù có thương tật rách rưới thì anh vẫn muốn được sống với người mình yêu, có chết cũng nhắm mắt thỏa nguyện. Còn như nàng đã yên bề gia thất với hạnh phúc tràn trề thì anh mừng cho nàng, vì nàng xứng đáng được như vậy. Nhưng anh không tìm được chút manh mối nào về nàng trong quãng thời gian anh trở về sống nơi chốn cũ. Số là, trong một lần tình cờ, anh làm quen được với một gia đình nề nếp gia giáo, ở ngay tại quê nhà xưa mà anh đã bao năm rời bỏ, qua sự giới thiệu của ông Chủ nhiệm Tổ hợp Xây dựng. Biết “lính” của mình trước kia từng là một giáo viên, nay có đạo đức tốt, chăm siêng làm việc, ông Chủ nhiệm đã giới thiệu anh đến làm gia sư cho hai đứa con của người em gái ruột, nhà rất giàu có ở khu dân cư đông đúc hỗn tạp. Anh được gia chủ lo cho một chỗ trọ riêng gần đó, để ngày hai buổi đến nhà dạy kèm cho hai đứa học trò vừa ngỗ nghịch lại vừa u tối đầu óc. Thoát được những cây cuốc cây xẻng, anh cũng mừng thầm, nên ráng gồng mình với việc dạy kèm được đến hai năm thì… bứt. Anh chịu không nổi hai đứa học trò bướng lì và hỗn láo, xin nghỉ việc, và ra bến xe hành nghề bốc vác kiếm tiền độ nhật, và để trả tiền ở trọ. Làm được vài tháng thì anh đổ bệnh, đã đau ngực lại tức lưng, lao động nặng là thở gấp gáp muốn tắt hơi mà chết. Anh nghỉ việc, về nhà trọ nằm dài chịu cảnh thất nghiệp đáng sợ, và sợ nhất là bị bà chủ nhà trọ hỏi tiền tháng. Bế tắc tứ phương. Lại còn Tết đang sắp đến nữa. Có ai còn ham sống nếu như rơi vào hoàn cảnh như anh không? Nhưng anh vẫn phải sống. Anh không sợ cuộc sống không có gì để mất này nữa. Chính những lúc tưởng chừng như bế tắc, anh đều nhớ đến sư Kiến Tâm, nhớ đến bài học chăn trâu ngộ nghĩnhkỳ diệu. Tìm trâu, thấy dấu, thấy trâu, được trâu, chăn trâu, cưỡi trâu về nhà, quên trâu còn người, người trâu đều quên, trở về nguồn cội, và thõng tay vào chợ. Anh chỉ còn nhớ mang máng ý nghĩa của từng bức tranh chăn trâu, vì lâu quá rồi không ôn không tưởng, nhưng anh vẫn nhớ rõ ý nghĩa bức tranh cuối cùng “thõng tay vào chợ” mà sư Kiến Tâm đã giảng giải rất hay, rất lôi cuốn, rất tuyệt. Vị thiền sư trong bức tranh thứ mười của “Thập mục ngưu đồ” đã đóng cửa tịnh thất, chống gậy đi xuống chợ đời bát nháo, tay cầm bầu rượu, tay xách đuôi con cá chép to đùng để tìm người đời rủ nhậu nhẹt một trận tưng bừng khói lửa cho vui. An nhiên. Tự tại vô ngại. Thiền sư đi vào cõi Ma. Vào cõi Ma để độ trì cho Ma, giáo hóa cho lục tặc cô hồn, chứ không phải cốt để nhậu nhẹt phá giới. Thiền sư đã giác ngộ rồi, vào cõi Bụt rồi, mới dám vào cõi Ma một cách ung dung để độ tha cho đầy đủ công hạnh, nên ông ta có uống rượu cũng được, cũng chỉ như uống chén trà, ăn thịt ăn cá cũng được, cũng chỉ như ăn đậu hủ tương chao thôi. Còn người đời như anh, và nhiều người khác trên cõi hồng trần này, còn đứng cách hàng rào của cõi Bụt đến thiên lý vạn dặm, thì thõng tay vào cõi Ma là gan cùng mình, có nước bị Ma nó nhiếp hóa thành Ma không đầu luôn chớ ích lợi gì! Anh hiểu điều đó, biết mình không bao giờ hành được như vị thiền sư, nhưng ít ra anh cũng học được cách thõng tay vào chợ thong dong, cứ giữ “Phật Tánh” trong mình cho chặt vững, thì cứ thử bắt chước xem cho biết để đo đong cân đếm được bản lĩnh của mình. Anh đã thử một lần thõng tay vào chợ, đi được chừng vài mười bước thì lạnh mình, chùn chân, mồ hôi toát lạnh cả lưng áo, khi thấy ai cũng nhìn mình bằng ánh mắt đầy cảnh giác. Hỡi ôi… không được rồi là không được rồi, phải cho hai bàn tay vào hai túi quần mau mau! Anh định tâm tỉnh trí, “ngộ” ra mình chỉ là một thằng phàm phu tục tử, khố rách áo ôm, vậy thì đừng có bày đặt nhập vai thánh thiện siêu thoát cho khổ càng thêm khổ. Anh vội cho hai bàn tay vào túi quần ngay sau đó, mới tìm được sự an nhiên mà tiếp bước vào khu chợ Tết náo nhiệt. Mấy cái Tết trước anh đều làm như vậy. Ba ngày vừa qua, hễ buồn chán là anh ra đường, vào thẳng chợ Tết để ngắm nghía, để hít thở, rồi về nhà nằm dài…

Bây giờ, anh lại cứ đi. Anh đi giữa chốn sắc màu rực rỡ và hương mùi phảng phất của trăm hoa vạn món. Anh đi cho quên và cho qua những giờ phút vô vị rỗng tuếch của một kẻ bất đắc chí ăn không ngồi rồi. Anh đứng lại trước hàng hoa, dòng người ngược xuôi chộn rộn đẩy anh đi. Anh đứng lại, dòng người lại đẩy anh đi. Đứng lại, đẩy đi, đứng lại, đẩy đi… rồi anh phì cười khi thấy mình đã được đứng lại, yên vị trước sạp hàng bánh mứt của một chị mặt hoa da phấn rạng rỡ tươi vui. “Mua mứt đi anh!”. Anh cười, một nụ cười mếu máo trông thật thảm hại, rồi lắc đầu rất khe khẽ. Hai bàn tay anh lúc ấy tự nhiên cùng bảo nhau rúc chui sâu thêm vào bên trong túi quần. Anh đưa mắt nhìn chị bán hàng như để muốn phân trần:“Tôi không bốc mứt của chị để ăn thử đâu, đừng lo!”. Bất ngờ, anh nhướng mắt lên, chân chôn xuống dất dường như đã lên đến hai đầu gối. Trước mắt anh, chị bán hàng cũng đâng trố mắt lên, gương mặt đầy ắp bàng hoàng. “Anh đó ư? Có phải là anh đó không?”. Anh rùng mình khi nhận ra giọng nói thân quen ngày nào. Nghẹn ngào giữa tỉnh tỉnh mơ mơ, anh gật đầu. Cái gật đầu rất dè dặt của anh cũng đủ làm cho chị bán hàng nhổm cả người lên. Chị, chính là nàng Hoa Hồng của anh ngày xưa, luýnh quýnh trèo xuống khỏi sạp, bước lại bên anh, nhìn từ tóc đến ngón chân anh, rồi nức nở: “Em tìm anh từ đó đến nay, mười lăm năm hơn rồi… Sao anh không trốn luôn đi? Sao anh không đi luôn khỏi cuộc đời em đi?”. Anh xúc động, nhún vai nói: “Anh cũng tìm em suốt mấy năm qua, và đã đi lạc luôn rồi, nay không còn là anh nữa đâu!”. Chị đặt hai bàn tay lên hai vai anh, lay liên hồi, hỏi liên tục: “Có vợ con gì chưa? Vợ con có chưa? Lập gia đình chưa? Gia đình có chưa?”. Anh cộc lốc: “Độc thân!”. Thay vì chị hỏi “Thật không?”, nhưng chị sực nhớ là anh chưa bao giờ biết nói dối, nên chị lại nói: “Em… cũng vậy. Và đã trở thành gái già cũng vì anh đó!”. Anh rơm rớm nước mắt, không biết nói gì. Chị khẽ giọng nhưng đầy quyết đoán: “Về sống với em nhé?”. Anh chưa kịp trả lời, đã thấy có bốn, năm người khách ghé vào sạp của chị mua mứt bánh. Chị cười đón khách, mắt nhìn anh, nói: “Phụ bán mứt với em đi, anh!”. Anh chần chừ giây lát, rồi chợt tỉnh, hốt nhiên tỉnh ngộ như thiền sư vừa khai phá một công án thiền. 

Đã lâu lắm rồi, đôi bàn tay anh mới rút ra khỏi túi giữa chợ. Anh rút chúng ra khỏi ngục tù ngột ngạt tăm tối một cách nhẹ tênh thông suốt. Thõng hai cánh tay xuống. Và, anh bắt đầu cân mứt cho khách phụ chị bằng đôi bàn tay vừa chộp bắt lại được một tình yêu thất lạc nhiều mùa Xuân qua…

TRÓI BUỘC
 Tâm Không Vĩnh Hữu
 
Chàng yêu tự do. Đối với chàng thì tự do là trên hết, và đúng là trên cõi trần gian đầy thơ mộng và bi lụy này không có thứ gì có thể vượt hơn hay sánh ngang với tự do được. Vì vậy mà chàng cứ nhất quyết không yêu đương ai cho bận lòng rối trí, để khỏi phải một đời bị trói buộc bởi cái gông xiềng hôn nhân mà người đời cho là đại sự. Không hôn nhân. Không cưới vợ. Chàng thề như vậy với mình, với đất trời linh thiêng, và với cha mẹ, cho dù song thân của chàng đã bao lần khuyên bảo thúc hối, thậm chí còn van xin chàng hãy yêu đi, cứ yêu đương hẹn hò lãng mạn rồi mới dẫn đến chuyện cưới vợ, còn như không yêu được thì cứ cặp đại một đứa nào đó về chung sống một mái nhà, suốt ngày đêm quấn quýt lấy nhau khít rịt mà cười đùa rúc rích, sau khi có con thì tình yêu sẽ đâm chồi nẩy lộc, rồi nở bung ra sáng lòa cả cuộc đời u u ám ám…

Nhưng, chàng đã thề như vậy rồi kể từ khi người yêu đầu đời của mình bỏ xứ mà đi, theo về một nhà cao sang quyền quý để nâng khăn sửa túi cho một gã công tử bột vốn là bạn học cũ của chàng. Chưa hết, hai năm sau ngày người yêu lên xe hoa về nhà chồng, chàng được tin nhà chồng nàng vốn toàn là những con người… trọng tài khinh nghĩa, sống theo kiểu cổ lỗ xỉ nên đã thẳng tay mạnh mồm ngược đãi nàng dâu út xuất thân từ một gia đình cán bộ nghèo vì thanh liêm, lại trúng thằng chồng nhu nhược không bảo vệ được vợ mà còn a dua hùa theo người thân hất hủi khinh khi nàng. Nàng mang nỗi uất hận đến quẫn trí, và đã lao đầu vào đoàn tàu vừa rời ga để kết liễu một kiếp hồng nhan. Chàng đau đớn khôn nguôi. ø Chưa bao giờ chàng cảm thấy cô đơn đến khủng khiếp như lúc ấy. Nỗi đau buồn và cô đơn bao phủ và đè chụp xuống cuộc đời chàng thật ngột ngạt trong một thời gian dài tưởng như vô tận, biến chàng thành một kẻ lạnh lùng gần như là vô giác vô tri…

Chàng khóa chặt những nẻo vào trái tim mình, chỉ biết lấy thơ văn nhạc họa làm bầu bạn tiêu khiển giải sầu suốt ba năm liền. Rồi một buổi tối đàn đúm thâu đêm trong một tiệc mừng một thằng bạn vừa tậu được nhà mới, vui quá đà, chàng nghe lời mấy thằng bạn nghệ sĩ làm quen với những luồng khói của cần sa. Thật kỳ lạ, chàng không hiểu sao nhiều người lại gọi loại lá cần sa phơi khô ấy là ma dược, trong khi chính nó cho chàng những giây phút sảng khoái, những cảm giác lâng đâng phiêu hốt tận trời mây cao cao. Chàng cảm thấy mình như một vì sao nhấp nháy trên bầu trời đêm đen kịt, như một tiên ông khoan thai lướt trên mây trên gió thật nhẹ nhàng, Tâm Nhiên vướng bận, chân không xích xiềng, và hồn thơ lai láng đan chen cùng hồn nhạc lại tràn trề khiến cho bao nhiêu tinh hoa tinh túy của nghệ thuật trong chàng dâng trào lên, và tươm rướm ra không dứt trên giấy mực, trên những phím đàn của cây guitar thùng với một sức sống mới đầy tự tin … 

Chàng không biết rằng mình đã không còn được tự do như ba năm qua nữa, vì chính chàng đã tự trói buộc xác hồn mình dính chặt vào những luồng khói phù dung phập phù huyền ảo. Khói nhẹ tênh mà trói được chàng bằng sợi dây thừng vô hình, trói một cách khẽ khàng êm dịu đến nỗi không để lại dấu xướt vết trầy thì hỏi làm sao chàng biết được là mình đang bị trói? Chàng lại có ý muốn làm quen với những viên hồng phiến do đám bạn bè mời chào với đủ lời lẻ ca tụng nghe thật ngọt tai mát miệng. Nếu chàng không may mắn gặp được một vị tăng trẻ thì chàng vẫn chưa biết mình đang bị trói. Trong một lần họp mặt những người đam mê thư pháp để chuẩn bị thành lập một Câu lạc bộ thư pháp, chàng đã được làm quen với vị tăng trẻ có một pháp danh nghe thật là… thiền: Tâm Nhiên. Chỉ qua đôi lần trò chuyện tâm sự, chàng và tỳ kheo Tâm Nhiên bỗng trở nên thân thiết với nhau đến lạ lùng, cứ y như đã từng gặp nhau tám vạn bốn ngàn lần trong kiếp này rồi vậy. Tỳ kheo Tâm Nhiên mời chàng đến chùa, dẫn lên chánh điện, bất thần chộp lấy cái dùi gõ chuông vung lên gõ lên đầu chàng một cái. Chàng lảo đảo, chuệnh choạng sắp té thì tỳ kheo Tâm Nhiên đã vụt một cái đỡ lấy chàng từ sau lưng, sau đó kéo tay chàng lôi đi vào một tịnh thất. Trao cho chàng một bó bút lông và một xấp giấy trắng, tỳ kheo Tâm Nhiên buông từng tiếng: “Mang về nhà, hễ mỗi khi thèm nhớ cần sa thì bày giấy mực ra viết đi viết lại chỉ mỗi một chữ Ma, viết đến khi nào mỏi tay thì thôi!”. Chàng đang còn phải nghĩ ngợi thì tỳ kheo Tâm Nhiên tiếp: “Nếu không thắng được con Ma này thì mai mốt sẽ gặp đến Đại Ma, và rồi sau đó có ngày sẽ sống chung với Đại Ác Quỷ!”. Chàng ngẩn ngơ ôm bó bút lông và xấp giấy trắng đi về, và ngay khi bước chân ra khỏi cổng tam quan của chốn già lam, chàng đã tỉnh ngộ, đứng lại nhìn vào bên trong chùa vắng lặng, buộc miệng thề độc với long thần hộ pháp rằng sẽ không bao giờ sờ mó đến thứ ma dược ghê gớm kia nữa. Chàng cảm thấy thân tâm thanh thoát, bắt đầu bước những bước ung dung trên đường đất cứng cáp gồ ghề để trở vềà với chính mình, cho dù cái chính mình ấy vốn dĩ đang mang đầy những nỗi niềm thương đau và cô độc… Lần đó, chàng đã tự cởi trói cho mình một cách dễ dàng, để rồi thật sự được tự do đi đi về về với cuộc sống vô thường…

Vào một buổi tối định mệnh ấy, chàng đạp xe dạo một vòng quanh thành phố, ghé vào một quầy báo, quay lại thì đã thấy chiếc xe đạp chạy mất tăm biết tích. Chàng thở dài chán chường. Thôi, cũng được, hết duyên với nhau rồi thì cho mi được tự do nhé, xe đạp ơi! Chàng lết bộ lang thang vô định, ghé vào quán cóc trước nhà ga độc ẩm một xị rượu thuốc, vẫn không thấy nỗi cô đơn buồn phiền tan biến… Chàng lại lê gót đi cho hết đêm, ngang đến con đường lớn gần cửa ngõ thành phố thì gặp nhằm lúc hai hàng rào chắn đã được kéo ngang qua chặn lại. Tàu đang từ từ chạy vào ga, hụ lên từng hồi còi nghe trầm trầm thống thiết. Chàng đứng lại bên rào chắn, châm thuốc hút, đảo mắt nhìn quanh. Bất chợt, chàng rùng mình. Một cô gái đang bước với dáng liêu xiêu, mặt mày bơ phờ, ánh mắt lạc thần tiến về phía rào chắn. Chàng vội bước nhanh về phía cô gái không hề quen biết kia bằng những bước thật dài. Đúng lúc ấy, cô gái đã trèo thoắt một cái vượt qua rào chắn, nhảy phịch xuống bên kia, loạng choạng, rồi lồm cồm đứng dậy đưa mắt nhìn đoàn tàu đang xình xịch băng qua… Nhanh như cắt, chàng bay qua rào chắn, nhào đến nơi cô gái. Cô gái lao người đến phía trước. Phía trước là đoàn tàu đang chuyển bánh. Chàng chụp lấy thân hình nhũn mềm của cô gái, ôm xiết lại, và vật nàng ngã xuống đường… Những người ở quanh đó chứng kiến được đều la lên thảng thốt. Cô gái vùng vẫy, la thét, khóc lóc thật thảm thiết, vung những móng tay nhọn cào xé vào mặt, vào đôi cánh tay của người đang ôm mình. Chàng không buông, nghiến răng chịu đựng chờ cho đến khi đoàn tàu qua hẳn, chạy vào ga an toàn, hàng rào chắn đã được kéo vào trả lại lưu thông, mới chịu that lỏng vòng tay, đỡ cô gái đứng dậy, dìu vào lề đường giữa đám đông hiếu kỳ. Cô gái khóc tỉ tê sướt mướt, nhìn xoáy vào mặt chàng với ánh mắt đầy vẻ căm giận, buông từng lời thều thào trách móc hỏi:

- Anh… cứu em… làm gì? Cứu… làm gì?

Chàng nghĩ lúc ấy tốt nhất là im lặng. Một lời buông ra chẳng khác nào khiêu khích khuấy động cho sóng gió thêm dữ tợn, và mọi lời tuôn ra đều sẽ trở nên vô nghĩa lẫn vô duyên, nên chàng chỉ đưa mắt nhìn gương mặt thất thần của cô gái. Không nói, nhưng đôi mắt chàng đang nói những lời động viên an ủi chân tình nhất, còn đôi bàn tay chàng lại nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn của nàng, rồi day day liên tục như để truyền sinh lực cho người đang tuyệt vọng. Cô gái nhìn chăm chăm vào mắt chàng, vẫn thút thít sụt sùi, nhưng có vẻ đã định thần lại. Hai người ngồi lại bên lề đường thật lâu, không ai nói với nhau tiếng nào. Sự việc tưởng như sẽ kinh hoàng thảm khốc đã trôi qua một cách yên ắng đến kinh ngạc. Những người hiếu kỳ đã không còn gì để đứng lại mà nghe ngóng nữa, từng người rời khỏi, trả lại sự bình thường cho dòng đời cuồn cuộn chảy ngược trôi xuôi…

Chàng đỡ nàng đứng lên, dìu đi từng bước rời xa khỏi khu vực rào chắn, và mời cô gái vào ngồi trong một quán cháo gà bên phố xá nhộn nhịp. Hai người húp từng muỗng cháo nóng, vẫn không nói với nhau câu nào. Uống hết ly cà phê đá sau đó ở quán kế bên, cả hai cũng chỉ nhìn nhau bằng ánh mắt đầy u uẩn. Trời đã về khuya, đường phố đã thưa thớt người và xe qua lại. Cô gái đã bình tĩnh lại rất nhiều, còn chàng trở nên tỉnh táo hơn, hai người tản bộ thật thong dong như chẳng có chuyện gì vừa xảy ra trước đó, cùng ghé vào ngồi trên ghế đá công viên đang sáng choang đèn và thoang thoảng mùi hoa lá dìu dịu. Cô gái bắt đầu kể vắn tắt cho chàng nghe chuyện của mình bằng một giọng thật cảm xúc. Mồ côi mẹ từ nhỏ, cha tục huyền với một ả giang hồ hoàn lương, cuộc sống gia đình bình yên đã trôi qua từng ngày, cho đến khi người mẹ kế sinh liền liền hai đứa con thì khó khăn nghèo túng bắt đầu ập vào nhà. Nàng không còn được đi học, phải nghỉ ngang khi đang học lớp 12, phải cầm xấp vé số dầy cộp trên tay đi bán suốt ngày trên khắp các nẻo đường. Người mẹ kế đã trút bỏ vai diễn hiền thục đảm đương, lộ mặt chua ngoa đanh đá, cứ gầm gừ hục hặc với chồng con và bạn bè lối xóm, nhưng lại ngã ngớn cợt nhã với đám đàn ông bạn nhậu mỗi chiều tối của chồng. Cha nàng đã tìm cách làm vơi dịu cơn ghen bằng những cuộc chè chén be bét thâu đêm, rồi sinh ra bệnh nặng không còn làm ăn gì được… Người mẹ kế lạnh nhạt hất hủi chồng, vỗ ngực tuyên bố sẽ ra tay cứu vớt cả gia đình bằng cách… “chạy hàng trắng”, bán lẻ những gói bạch phiến cho con nghiện, lại dùng chiếc gác xép trong nhà làm nơi cho các “tiên ông tiên bà” tha hồ bay bổng hồn xác. Mỗi khi nàng phản đối, đều liền lãnh một trận chổi túi búi khắp mình mẩy trước mắt người cha nhu nhược đến bất lực. Lòng sinh căm hận và chán chường, nàng bắt đầu làm mặt lạnh mặt lì để làm quen với hoàn cảnh gia đình, và rồi làm quen với những làn khói thuốc mê hồn từ các loại dược liệu độc mà hằng ngày người mẹ kế cung cấp cho bao lượt khách vào ra nhà mình. Nàng đã bị trói chân, trói cả sinh mệnh vào ma túy lúc nào cũng nhớ chẳng hay, khi giật mình tỉnh giấc thì những gì quý giá nhất của đời con gái đã bị một khách hàng “ruột” của mẹ kế chiếm đoạt mất. Đau đớn, căm thù chất ngất, nhưng bị khống chế tứ bề, nàng không còn muốn sống trên cõi đời này nữa…

- Anh cứu em làm gì?

- Em không được chết, nên anh phải cứu!

- .Anh chỉ cứu em được lần này thôi, rồi lần sau em sẽ lập lại, liệu anh có theo em suốt đời để cứu vớt em không?

Chỉ vì một câu ấy, vậy mà nàng đã trói buộc được đời chàng, làm vỡ toang những cánh cửa khóa im ỉm dẫn vào trái tim bao năm không biết yêu đương của con người nghệ sĩ. Chàng nắm lấy tay nàng, chân tình buông từng tiếng chắc nịch:

- Anh đã từng bị ma túy bắt làm nô lệ, nhưng anh đã thoát khỏi được nó. Giờ, anh đủ bản lĩnh và khả năng giúp em thoát khỏi mọi nanh vuốt nguy hiểm trong cuộc sống. Hãy tin anh, như anh đang tin em!

Họ đã trở thành vợ chồng ngay sau đêm hội ngộ lạ lùng ấy. Và, họ sống rất hạnh phúc cho đến nay, đã trải qua mười năm hơn, trong đó có đến sáu năm nắm tay dắt dìu nhau cùng gia nhập đạo tràng của chùa Kỳ Viên do thầy Tâm Nhiên trú trì để tu học giáo lý nhà Phật. Bằng mắt trần mắt thịt thì thấy rõ là họ trói buộc nhau, nhưng kỳ thực là đôi uyên ương này đã và đang từng ngày cởi trói cho nhau vậy!

TRẦU CAU DÂNG MẸ
 Tâm Không Vĩnh Hữu
 
Cả xóm ai cũng cho là nhà Hai Ra có phước, được Phật độ . Chuyện có phước lại lan truyền ra các xóm xa xa, loang như vệt dầu trên mặt nước đi khắp vùng Ba Làng. Mới năm nào, cách đây chừng vài ba năm chứ chẳng phải xa xưa gì, Hai Ra còn phải vừa chạy xe ôm rong ruổi suốt ngày, vừa tranh thủ chở bình gas ở đại lý giao cho khách, để lo cho bầy con năm đứa đều còn đi học. Vợ Hai Ra bán rau cải ngoài chợ, kiếm thêm mấy đồng tiền lời lẻ tẻ hằng ngày, phụ giúp chồng lo chuyện ăn uống của cả gia đình gồm bảy chiếc tàu há mồm qua loa cho qua ba bữa. Cuộc sống gia đình thật chật vật, túng thiếu, chẳng ai dám mơ nghĩ đến chuyện xa xỉ cao sang, mà chỉ cầu mong sao cho cứ được đủ ăn đủ mặc là sướng đời rồi.

Đùng một cái, quy hoạch mở đường. Một con đường tráng nhựa rộng thênh thang chạy ngang qua khu vực Ba Làng để dẫn đến một khu du lịch thiên nhiên kỳ ảo. Giá đất lên vùn vụt, cao ngất. Cả xóm xôn xao chộn rộn. Có gia đình phải mất bớt đất đai, có gia đình bay cả đất lẫn nhà vì lệnh giải tỏa đền bù, nhưng cũng có gia đình tự nhiên mà hưởng lợi lộc từ đất nhà vốn xưa nay nằm nơi hiu quạnh chẳng ai màng ngó ngàng sờ mó đến làm gì. May nhờ rủi chịu, tất cả đều có cái số, cái thời. Phước đức thay, nhà Hai Ra nằm ở cái nhóm hên may. Cả khu đất nhà của Hai Ra, với một mảnh vườn lèo tèo mấy cây ô-ma ra trái vàng vọt và vài cây mảng cầu trái đẹt vô duyên chẳng ai thèm hái trộm, bỗng phút chốc hóa thành mảnh đất vàng ròng nhờ chường cái mặt ra phía trước bên con đường tráng nhựa mới toanh. Bán bớt mảnh vườn nghèo nàn khô khốc cho dân kinh doanh xây nhà hàng-khách sạn trong tương lai, nhà Hai Ra ẵm ngay được một số vàng kếch xù sướng còn hơn trúng số độc đắc. Đổi đời rồi. Cả nhà đổi đời, thay da đổi thịt, trút bỏ những bộ áo quần cũ xì nhếch nhác, vĩnh biệt những bữa ăn đạm bạc chỉ toàn là “mắm đui, muối đâm” với canh rau lỗng nhạt, rồi sửa nhà, sắm xe máy xe đạp, trang trí nội thất, mở quán giải khát có nhạc xập xình vui nhộn… Thật là mơ cũng chưa dám nghỉ đến! Hai Ra bỏ nghề xe ôm chở hàng, giao hết việc bán quán cho vợ và mấy đứa con, còn mình thì chỉ biết tìm đến với những thú an nhàn chim cây cá kiểng, hay “du lịch tâm lịch” một chút bằng cách vãn chùa lạy Phật, hứng nữa thì đi đánh cờ tướng, xem bóng đá… để bù lại những tháng ngày gian khổ đầu tắt mặt tối. Chưa hết, phúc trùng lai, Hai Lành-đứa con gái đầu tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, vừa ra trường đã có ngay việc làm ở nơi như ý, lại gặp ngay một mối tình đầu chớp nhoáng với một chàng trai bảnh bao lịch thiệp, sét đánh cái rầm khiến cho hai đứa đòi cha mẹ hai bên phải ngồi lại với nhau mà bàn cho rốt ráo hôn nhân đại sự. Những chuyện vui, tin mừng liên tiếp xảy đến dồn dập như có bàn tay vô hình của ai đó sắp đặt đùn đẩy, làm cho vợ chồng Hai Ra vừa lo toan vừa mở cờ trong bụng. Người yêu của Hai Lành là thằng Bích con nhà nề nếp gia giáotrung tâm thành phố, giàu sụ, có thân nhân ở nước ngoài đến năm, sáu người. Thằng Bích lớn hơn Hai Lành bốn tuổi, đẹp trai, tính tình hiền lành, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật, được gia đình đầu tư mua đất cất nhà tại khu Ba Làng để mở một gallery, phối hợp với một hiệu ảnh kỷ thuật số để chào đón khách du lịch qua lại nơi này.Có đứa con gái đầu lấy được chồng cỡ đó, hỏi sao cả xóm không kháo với nhau là nhà Hai Ra có phước? Hai Ra nghe được, không giận, không tự ái, mà cười khề khà coi bộ thỏa mãn đắc chí. “Cờ đến tay thì cứ phất chứ sao! Tội dại gì mà cứ khúm núm co ro, e dè ngượng ngập?”, nói vậy, nhưng Hai Ra không hề tỏ ra kiêu căng ngạo mạn. Những nợ ân tình thuở hàn vi, Hai Ra đều không quên đền đáp. Những kẻ xưa kia từng khinh khi, ích kỷ bo bo đối với gia đình mình, Hai Ra không lấy đó làm hận để bây giờ khi được lên voi sẽ trả thù cho bỏ ghét. Vợ chồng Hai Ra không phải là hạng người như vậy. Ân thì đền, nhưng oán thì phủi bỏ lãng quên. Trong kinh sách nhà Phật có biết bao nhiêu điều khuyên răn dạy bảo như vậy, đã đọc đã biết thì phải nhớ mà hành, hành được ít nhiều gì cũng là quý cả, lợi cho mình, sướng cho mình cả. Như lão Phi chủ quán hớt tóc chẳng hạn, là bà con gần, cũng là láng giềng sát rạt, trước có trúng số được cặp năm giải đặc biệt, vậy mà vợ chồng Hai Ra qua nhà vay ít tiền để góp cho đủ số mua xe máy chạy kiếm cơm, lão làm mặt lạnh không cho, nói rằng để đầu tư cho quán hớt tóc. Nay khi nhà Hai Ra lên xe xuống ngựa bảnh chọe, thì nhà lão Phi tuột dốc không phanh sau nhiều trận thua số đề, và thua mấy chục kèo cá cược suốt mùa World Cup. Hai Ra không trả thù, mà còn tự động đem tiền qua giúp cho nhà lão Phi vượt lúc ngặt nghèo, không đợi lão lên tiếng vay mượn. Hay chuyện mụ Sáu Quới chuyên cho vay nặng lãi cắt cổ mổ họng dân nghèo, đã từng cho Hai Ra vay nóng, đến kỳ hạn trả lãi mẹ lãi con lẫn gốc, không thấy con nợ đến thanh toán, mụ liền thuê một bọn mặt rô đến tận nhà Hai Ra, vừa hăm dọa vừa xiết đồ đạc trong nhà, quơ cả những đồ gia bảo trên bàn thờ tiên tổ, khiến cho vợ chồng Hai Ra phải quỳ lạy khóc lóc mà xin hẹn trong ba ngày ráng chạy cho đủ tiền trả nợ. Sau đó, Hai Ra được một số bà con hàng xóm tốt bụng hùn tiền lại cho vay tạm để lo mà làm hài lòng hả dạ mụ Sáu Quới. Hai năm trước, mụ Sáu bị tai biến mạch máu não, bán thân bất toại, nằm liệt giường, lại lãnh thêm một vố đau điếng bởi thằng con trai út chích choác, nó ẵm cả hộp nữ trang vàng vòng cùng mấy chục triệu đồng của mẹ rồi biến đi ngao du sơn thủy cùng con bồ giang hồ… Hai đứa con gái lớn đã có chồng, lâu nay hay luân phiên nhau về vuốt ve nủng nịu để ngoáy tiền mẹ, nay thấy mụ Sáu Quới tiêu bay vốn liếng nên chơi cái tình lờ không màng đến nhà chăm sóc, lo toan cơm nước cho mẹ nữa. Mụ Sáu Quới nằm chèo queo một chỗ, khóc ròng với số phận hẩm hiu cô độc, nếu không có hàng xóm thương hại xúm nhau giúp đỡ thì mụ chắc đã chết khô trên chiếc giường gỗ hương đắt giá của mụ từ năm ngoái rồi. Bây giờ Hai Ra có tiền, không nhớ chuyện cũ mà trả oán cho hả dạ, lại mang tiền đến biếu mụ Sáu Quới, còn thuê hẳn một đứa cháu gái của mình mỗi ngày ba buổi, với giá hai trăm nghìn đồng một tháng, đến chăm sóc cho người đàn bà bệnh tật sa cơ thất thế. Ai nghe chuyện cũng nghiêng mình khâm phục Hai Ra, và khen luôn cả người vợ vốn luôn đồng tâm hợp ý với người bạn đời của mình. Phước đức hơn, đám cưới của con Hai Lành được bên nhà trai tuyên bố dự tính sẽ tổ chức linh đình đãi tiệc ba ngày ba đêm, lớn nhất vùng Ba Làng từ xưa tới nay. Bên nhà trai “bao sân” từ A đến Z, nhà gái không phải lo toan gì kể cả việc lo của hồi môn cho cô dâu. Vợ chồng Hai Ra đi tới đâu cũng được bà con hàng xóm khen mừng chúc phúc, sướng trân cả người, và cũng phải lâu lâu véo đùi để tin chắc là mình không phải đang nằm mơ…

Sau nhiều ngày rộn ràng chuẩn bị, trang hoàng sắm sửa đâu vào đó, ngày đám cưới của con Hai Lành cũng đã đến. Cả xóm vui như hội, mọi người đổ ra đứng hai bên đường để đón đoàn xe hơi bóng loáng nối đuôi nhau dài ngoằng của nhà trai đến rước dâu. Một cảnh lạ chưa ai từng thấy, nên ai cũng vui vui mừng mừng trong bụng, có người rơm rớm nước mắt, có người không kềm được lòng phải gào thét lên với gương mặt hể hả để mừng cho nhà Hai Ra … Đến giờ hôn lễ cử hành, thật trang nghiêmxúc động. Dâng rượu bàn thờ tiên tổ ông bà. Lạy. Hai họ phát biểu. Cô dâu chú rể dâng rượu mời cha mẹ hai bên. Hai Ra trong trang phục áo dài khăn đóng cổ truyền, đại diện nhà gái trịnh trọng giở những tấm khăn đỏ chói phủ trên các mâm quả của nhà trai bưng đến đã đặt sẵn trên chiếc bàn đặt trước bàn thờ. Rượu trà. Bánh mứt. Vàng vòng, tiền bạc. Trầu cau. Mâm quả nào cũng vun đầy ăm ắp. Bất chợt, Hai Ra nhăn nhíu mặt mày, rồi miệng mếu máo, nước mắt lăn dài trên má… Ai cũng sửng sờ, hốt hoảng. Hai Ra khóc rồi, nhưng lại đang cố kềm lại, nuốt tiếng khóc xuống cho nó ùng ục nơi cổ họng, đôi mắt đỏ kè đầm đìa lệ nóng hổi. Vợ Hai Ra đứng kế ben, hoảng quá, đưa tay ngắt đại một cái vào hông chồng để nhắc nhở. Hai Ra giật thót người một cái, gật gù hiểu ý, rồi cố ra vẻ bình thản bước lui ra sau nhường cho bên nhà trai phần nghi thức tiếp theo. Dâng hương. Lạy. Trao nhẫn cưới. Bà con hai họ tặng quà cho cô dâu chú rể. Lạy. Hương trầm nghi ngút. Đèn hoa sặc sỡ. Tất cả đều nhòa đi trước mắt Hai Ra.Trước khi nghi lễ kết thúc, Hai Ra bước lại bưng đĩa trầu cau đã têm sẵn, hai tay cung kính dâng lên bàn thờ, đặt trước linh ảnh của ông bà nội cô dâu. Rồi từ tốn quay lại nhìn mọi người đang nhướng mắt đổ dồn về phía mình, cất giọng trầm trầm nói:

 - Thưa cùng bà con hai họ, khi nãy tôi thật có lỗi khi không kềm chế được lòng mình, mong bà con hãy niệm tình tha thứ. Chỉ vì nhìn thấy cau thấy trầu mà tôi xúc động, tôi ray rứt, tôi xấu hổ đến phát khóc giữa nơi này… thật là không nên…

Im thin thít… Mọi người chừng như đang nín thở. Bên nhà trai cứ trố trừng mắt lên. Ai cũng đang chờ ông sui gia bên nhà gái nói cho hết lời. Hai Ra chậm rãi đưa mắt nhìn về phía bàn thờ, rồi đưa hai bàn tay run rẩy vuốt ve những trái cau lá trầu còn nằm trên mâm quả, kể bằng giọng buồn buồn nhưng rõ ràng từng tiếng:

- Cách đây năm năm… Ngày mẹ tôi, bà nội con Hai Lành, bệnh nặng phải nằm dính trên giường, bà có gọi tôi vào giữa khuya khoắc chỉ để sai tôi đi mua cau trầu. Bà nói là “bỗng nhiên mẹ thèm lắm”. Lúc đó, chỉ mới 2 giờ sáng, nên tôi mới nói rằng: “Giờ này không ai bán mua gì đâu, mẹ ngủ đi, sáng con sai mấy đứa nhỏ mua cho!”. Nhưng mẹ tôi cứ càu nhàu, càm ràm đòi ăn trầu. Tôi bực mình quá, nên có to tiếng nặng lời: “Khuya lơ khuya lắc mà thèm bất tử, mẹ thèm món khác thì con có thể cố tìm ra được, chớ thèm trầu cau thì phải chờ sáng chợ mới họp, mới có mà mua!”. Mẹ tôi nói: “Khuya gì mà khuya. Hồi tụi bây còn nhỏ, giờ này tao gánh củi lội bộ lên chợ Phường Củi, hồi đó thị xã Nha Trang chỉ có một chợ này thôi, để bán cho kịp mà đổi gạo mắm về ăn. Còn mày, lúc mười tuổi bị bệnh tiêu chảy xém chết, nửa khuya, cũng giờ này, mày đòi ăn mực muối với cháo.Tao phải lội bộ qua Xóm Bóng mới mua được cái món mày thèm…”. Tôi nghe vậy nên im, không cãi nữa, chui vào mùng, trùm mền ngủ thấu sáng. Sáng, tôi đích thân đạp xe đi qua Chợ Đầm mua cau trầu cho mẹ.Tôi mua nhiều lắm, ăn cả nửa tháng không hết. Nhưng, cau trầu đem về đến nhà thì… mẹ tôi đã ra đi, ra đi vĩnh viễn. Bà đi xa luôn rồi, mang theo một nỗi thèm trầu cau…do con cái đã không làm tròn bổn phận…

Kể đến đó, Hai Ra bật khóc hu hu như con trẻ. Mọi người sụt sùi, thút thít khóc theo giữa hương hoa ngào ngạt và đèn đuốc sáng choang… Hai Ra mặt mày méo xệch, chỉ mâm quả trầu cau vun đầy xanh um, nói như tự trách mình:

- Mẹ còn sống, mẹ thèm, không lo cho mẹ ăn. Mẹ chết rồi, có cúng có dâng cả nghìn mâm quả cau trầu như đây cũng vô nghĩa, vô ích thôi. Tôi nghĩ vậy mà khóc. Tôi xấu hổ quá… Tôi ân hận quá…

Rồi bất thần, Hai Ra quỳ xuống trước bàn thờ mà rống lên gọi mẹ…Vợ con Hai Ra, kể cả cô dâu Hai Lành cũng vội vàng quỳ xuống kế bên mà khóc nức nở sụt sùi. Bà con thân quyến bên họ nhà gái cũng lật đật quỳ theo, khiến cho họ nhà trai gần hai chục người thấy vậy cũng thúc nhau mà quỳ xuống… Dường như, qua nước mắt nhập nhòa, ai cũng thấy bà nội của cô dâu trong linh ảnh đặt trên bàn thờ đang nhoẻn một nụ cười nhẹ nhàng thanh thoát…

HIẾU HẠNH CHÂN THÀNH
 Tâm Không Vĩnh Hữu
 
Trong kho tàng ca dao - tục ngữ Việt Nam có biết bao nhiêu câu ca, biết bao nhiêu ngôn từ ca ngợi, xưng tụng tán dương công ơn trời biển của cha mẹ, mà một đời người có học hoài cũng không hết, không cạn…

Công cha đức mẹ cao dầy
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân!

Hoặc như câu:

Còn cha còn mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây
Đờn đứt dây còn tay lại nối
Cha mẹ mất rồi con phải mồ côi…

Ơn cha cao ngút tựa núi Thái như vậy. Nghĩa mẹ rộng lớn như biển Đông như vậy. Vậy mà, ở đời lại có nhiều người làm con không chịu nhìn thấy, hoặc thấy mà không chịu chiêm bái gẫm suy, cứ muốn làm một người … mù lòa trong đạo làm con. Hễ nghe ai đó nhắc đến chữ Hiếu thì làm lơ, đánh trống lãng, hoặc lạnh lùng tay xua miệng thốt: “Xưa rồi!”. Những người con đó đã cố tình quên đi rằng:

Biển Đông có lúc đầy vơi
Chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng…

Suốt cả một đời cha mẹ luôn lo lắng, luôn quan tâm, lắm khi mất ăn mất ngủ vì con mình. Một niềm vui nhỏ bé của con lại làm cho cha mẹ râm ran sung sướng, và một nỗi đau buồn cỏn cỏn của con có thể làm cha mẹ rát buốt cả ruột gan. Người con sẽ thật sự cảm nhận, nhìn thấy rõ “núi Thái và biển Đông” hiển hiện sừng sữngmênh mông trong cuộc đời mình khi:

Lên non mới biết non cao
Nuôi con mơi biết công lao mẫu từ…

Hay là:

Ở đời ai cũng có lần
Làm cha mẹ mới biết ơn sinh thành
Người xưa khó nhọc nuôi mình
Khác gì mình đã hết tình nuôi con!

Trong “Cổ học tinh hoa” còn ghi lại câu chuyện nhân vật Dương Phủ lặn lội đường xa tìm cho được vị đại sư Vô Tích -vốn được tôn xưng là một vị Bồ Tát tái thế- để cầu học Phật pháp. Dương Phủ đi được một quãng đường rất dài, tình cờ gặp một vị sư khác giữ chân lại, nói rằng: “Đại sư Vô Tích chính là sư phụ ta, ngài biết ngươi đang trên đường tìm đến diện kiến ngài, nên sai ta đi tìm ngươi để khuyên ngươi nên đi tìm gặp một vị Phật sống!”. Dương Phủ nghe nói đến Phật sống thì mừng lắm, Phật vẫn hơn Bồ Tát mà, vội hỏi kỹ đường đi nước bước. Vị sư kia bảo rằng: “Ngươi hãy đi thẳng về hướng Đông, khi nào nhìn thấy một người mặc áo trái, mang giầy ngược mừng rỡ đón ngươi thì đó chính là vị Phật sống!”. Dương Phủ nghe lời, cắm đầu cắm cổ đi không ngơi nghỉ về hướng Đông, tức hướng ngược lại mà mình đã vừa đi qua, đi cho đến khi về đến… nhà mình. Người mẹ của Dương Phủ nghe tiếng con gõ cửa, trong lòng mừng rỡ, vội vội vàng vàng mặc áo không kịp ngay ngắn, xỏ ngược đôi giầy chạy ra mở cửa. Dương Phủ nhìn thấy hình ảnh mẹ “mặc áo trái, mang giầy ngược” mới tỉnh ngộ, hiểu ra rằng mẹ mình chính là một vị Phật sống, và lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ ở trong nhà vẫn quý hơn, vẫn đẹp hơn là đi tìm một vị Bồ Tát, hay Phật sống nào đó ở bên ngoài xa xa… Phật có dạy rằng: “Phụ mẫu tại đường tức chư Phật tại thế” (Cha mẹ ở ngay trong nhà chính là chư Phật ở trên thế gian) là vậy! Ta cũng thường nghe câu ca dao:

Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu!

Đối với Phật tử Việt Nam, lễ Vu Lan đã trở thành truyền thống là một mùa đền ơn đáp nghĩa cho những người con hướng về cha mẹ bằng tấm lòng hiếu hạnh chân thành: Mùa Báo Hiếu. Tấm lòng hiếu hạnh đó đâu đòi hỏi phải được biểu lộ bằng ngọc ngà châu báu chất đầy mâm, sơn hào hải vị bày tràn bàn, hay tiền vun bạc đống dâng lên cho cha mẹ vui sướng? Lòng hiếu hạnh chân thành là được, chỉ cần chân thành là quý rồi, nghĩa là phải tưởng nghĩ đến công cha nghĩa mẹ bằng trái tim thổn thức và tấm lòng biết ơn thật sự, không phải bằng sự hào nhoáng lòe loẹt mang tính hình thức, hay thủ tục. Chỉ một trái quít bé xíu nhận từ một nhà người thân, nhịn không ăn mà đem giấu trong tay áo để mang về dâng lên mẹ, cậu bé Lục Tích trong “Nhị Thập Tứ Hiếu” đã bộc lộ được tấm lòng hiếu hạnh chân thành của mình. Hay như chuyện Hàn Bá Dũ bị mẹ đánh không hề đau mà lại khóc rống lên thảm thiết, hỏi ra mới hay mọi lần bị mẹ đánh đòn rất đau nhưng không khóc vì biết rằng mẹ còn khỏe, nay bị đòn không thấy đau đớn gì nên biết sức lực mẹ đã suy kiệt, vì vậy mà mới khóc, khóc với một tấm lòng hiếu hạnh chân thành. Những tấm lòng hiếu hạnh đó đâu có giá trị gì về vật chất, nhưng còn quý hóa gấp nghìn lần vàng bạc gấm lụa cao sang phù phiếm.Thế nên:

Thờ cha kính mẹ hết lòng
Ấy là chữ Hiếu dạy trong luân thường!

Phật tử, chúng ta quanh năm suốt tháng tinh tấn tu học pháp Phật, quy y đãnh lễ Tam Bảo, siêng chăm lên chùa thắp nhangtụng niệm, chúng ta đừng quên một điều:

Lên chùa lạy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền!

Chúng ta hãy luôn nhớ lấy điều đó khi nghĩ về công cha nghĩa mẹ bằng tấm lòng hiếu hạnh chân thành, thì mới mong con đường tu học đạo pháp của mình được thông suốt tốt đẹp, và trọn vẹn
 
 

HIẾU TỬ
 Tâm Không Vĩnh Hữu

Tôi tắm rửa xong, xỏ đại vào người một bộ đồ sạch sẽ, bước lại đứng trước tấm gương lớn gắn trên cánh cửa tủ mẹ bồng con vừa soi mặt, nặn mụn, chải đầu, vừa huýt sáo bản “Biết đâu cội nguồn” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Đó là một giai điệu rộn ràng mà tôi yêu thích, thường hát lên hoặc huýt sáo miệng mỗi khi cảm thấy mình đang khỏe khoắn, nhẹ nhàng và sạch sẽ sau một ngày lao động cật lực ở xưởng vẽ của lão Vũ Dương. Tôi đã làm ở xưởng vẽ được hai năm rồi, phụ trách công việc cạo và sơn lại nền những tấm bảng hiệu đủ cỡ lớn nhỏ để mấy tay thợ vẽ khác kẽ chữ, rồi phụ với một nhóm thợ đi treo các bảng hiệu, băng-rôn, áp phích, hộp đèn cho khách trên địa bàn thành phố. Nghe làm ở xưởng vẽ thì nhiều người cứ tưởng chắc là an nhàn sang trọng, nhưng công việc rất năïng nhọc, quần mình cả ngày xoay như chong chóng, nhiều khi muốn đuối. Được cái lương cao, thưởng hậu, và phải quen biết mới được lão Vũ Dương cho vào làm ở cái xưởng vẽ thập cẩm sắp tiến lên thành lập thành công ty Trách nhiệm Hữu hạn le lói này, nên tôi cắn răng cắm cổ mà làm, vừa làm vừa học việc để có một cái nghề làm ăn với thiên hạ. Người giới thiệu tôi vào làm ở xưởng vẽ là anh Trần Vô, một họa-thi sĩ, bạn của lãoVũ Dương.

Tôi chải đầu xong là sẽ đạp xe bay qua nhà của anh Trần Vô theo một cái hẹn “chiều xong việc, nếu rãnh thì qua nhà tao, tao có chút việc cần bàn”. Nhà anh ta ở ngoại vi thành phố, đạp xe 8 cây số… chớ mấy, chắc là rã giò vì phải đạp ngược gió qua hai chiếc cầu gió lồng lộng từ biển ùa vào, nhưng tôi không ngán, vì tôi rất kính nể và yêu mến người họa sĩ có tâm hồn thơ lai láng sống rất phóng khoáng tài tử này. Anh ta có bắt tôi đạp xe hay chạy bộ qua ba đèo bốn núi thì tôi vẫn vui vẻ tuân lệnh, nói chi chỉ hai chiếc cầu. Qua nhà anh ta, thế nào cũng có sương sương “ít ly y lít”, và hưởng thụ được những trận cười bò lăn bò càn cho quên đời khổ lụy mà không tốn một cắc nào. Thật vậy, anh Trần Vô ngoài cái tài vẽ và làm thơ, vẽ ký họa thì hết ý mà làm thơ ứng khẩu thì hết xẩy, còn có biệt tài kể chuyện tiếu lâm cù léc mọi người. Anh ta nghèo lắm. Tài ba, nhưng nhà ở xa thành phố, nên công việc làm ăn của anh ta không sao phát triển được, quanh năm chỉ loay hoay luần quần với những tấm bảng hiệu, bảng số nhà… kiếm đủ tiền độ nhật, thi thoảng mới trúng một “sô” vẽ phông trên tường hoặc tân trang lại những câu đối chữ Hán cho mấy cái đình, chùa miền quê yên tĩnh. Vừa nuôi thân, vừa gánh một gánh nặng một vợ ốm yếu cùng năm con èo uột, lại còn phải phụng dưỡng một người cha già gần đất xa trời, đang có tính tình như con nít, khi ngang ngược, khi nhỏng nhẻo, khi tỉnh khi điên, nên lúc nào người ta cũng thấy anh họa-thi sĩ này bơ phờ hốc hác, tóc tai bờm sờm, áo quần xộc xệch trông thật tội nghiệp. Nhưng anh ta đâu có thấy tội nghiệp cho mình bao giờ, lúc nào cũng tươi tỉnh, lúc nào cũng cười được, và pha trò pha tiếng cho người khác cười, cứ như là cuộc đời này rất ư thơ mộng đáng yêu vậy!Hễ mỗi lần có bạn đến nhà thăm, dù đang bận bịu tối mặt tắt đầu với “đại sự mưu sinh” quan trọng hoặc gấp gáp, anh ta cũng sẽ gạt công việc qua một bên để cùng bạn bè sương sương ít ly rượu tâm sự giải khuây.

Anh Ba của tôi là bạn thâm giao của anh Trần Vô, bạn thơ văn nhạc họa và … rượu, có thể nói là tri âm tri kỷ. Từ ngày anh Ba tôi từ giã cõi hồng trần thơ mộng vì căn bệnh sơ gan, lại thêm viêm loét bao tử, anh Trần Vô ít khi đến nhà tôi chơi, chỉ khi nào vào thành phố mua vật liệu để về làm thì anh mới ghé tạt vào thăm hỏi sức khỏe mẹ tôi vài ba câu, sau đó thắp nhang chào anh Ba tôi trên bàn thờ, rồi đi. Thấy tôi thất nghiệp, anh ta lôi đầu tôi đến gặp lão Vũ Dương để xin một chỗ phụ việc. Lão Vũ Dương nể nang anh Trần Vô lắm nên mới thâu nhận tôi làm học trò, vì dưới trướng của lão đã có trên dưới hai mươi thợ thầy lính lác lành nghề. Vì vậy mà tôi rất mang ơn, thương quý anh ta, xem như một người anh ruột của mình. Có chuyện gì cần, anh ta “hú” một tiếng là tôi sốt sắng có mặt ngay. Lần này, anh ghé tạt đến xưởng vẽ trò chuyện trao đổi với lão Vũ Dương gì đó, rồi trước khi biến đi đã vỗ một phát vào vai tôi kèm thêm cái hẹn chiều gặp. Tôi nôn nao muốn biết anh ta cần bàn chuyện gì. Chắc là phải quan trọng rồi. Nhìn ánh mắt, nghe giọng nói của anh ta là tôi đoán được …

Soi gương lần chót kỹ lưỡng trước khi đi, bất chợt tôi nhìn thấy từ trong gương phía sau lưng mình, mẹ tôi đang nặng nhọc ngồi dậy trên chiếc đi-văng, rồi nhìn về phía tôi, cất giọng mệt mỏi:

- Con định đi đâu đó?

Tôi quay lại, bước lại bên mẹ:

- Con đi chơi, thư giãn chút mà…
- Không đợi ăn cơm đã rồi đi à?
- Thôi, chờ chị Hai với mấy đứa … lâu lắm. Con đi chơi chắc tối mới về…
- Mẹ đang bị đau nhức cả hai cái chân… con xoa dầu nắn bóp cho mẹ một hồi rồi đi…
- Thôi, con sợ trễ hẹn. Mẹ để tối về con xoa bóp cho…
- Làm bây giờ chớ hẹn gì nữa, con? Chừng mười lăm phút chớ mấy!
 - Năm phút cũng không được! - Tôi vùng vằng - Con đang có cái hẹn bàn chuyện quan trọng với anh Trần Vô, còn phải đạp xe gần chục cây số nữa, sợ để ảnh chờ thì kỳ lắm!
- Hẹn với anh Vô à? Ừ thôi, con đi đi. Mẹ tưởng con đi chơi với mấy đứa thằng Long thằng Bình, chớ qua chơi với anh Vô thì đi đi kẻo ảnh chờ, tối về xoa bóp cho mẹ cũng được…

Tôi bước lẹ ra sân, nhảy phóc lên xe đạp, vọt đi ào ào như bị ma đuổi…

… Đạp xe vào đến sân, tôi thấy ngay anh Trần Vô đang ngồi nơi bậc tam cấp trước thềm hiên nhà, cùi chỏ chống đầu gối, bàn tay chống cằm, mắt đang nhìn ở đâu đó nên không thấy tôi đến. Có một cái gì đó lạ lạ. Dựng xe, tôi quay lại nhìn. Anh ta đưa chào tôi, mặt buồn hiu chưa từng thấy. Tôi hơi chột dạ, không dám vồn vã hớn hở chào anh như mọi lần. Ngồi xuống bên anh, tôi nhìn kỹ. Trời ạ, anh ta vừa mới khóc xong, hai mắt còn ướt nhòe. Tôi rúng động. Có chuyện gì kinh khủng xảy ra? Một biến cố kinh hoàng? Hay một cú sốc đột ngột? Tôi nín thở, nhìn anh ta. Anh ta nhìn lại tôi, cười gượng, rồi không đợi tôi hỏi mà đã nói:
- Tức quá nên khóc. Khóc cho đỡ tức.
- Sao anh tức dữ vậy? Ai mà làm cho anh tức đến phát khóc thì người đó quả là… bậc thành nhân siêu quần rồi. Ai vậy, anh?
- Ông già tao chớ ai vô đây!
 Tôi thở phào nhẹ nhõm, như vừa trút được một tảng đá lớn ra khỏi lồng ngực.
- Bác làm gì mà anh tức?
- Đang kẹt tiền muốn chết, may gặp cái mối làm hộp đèn, bảng hiệu cho tiệm vàng, được người ta ứng cho chút tiền mua vật dụng.Tính toán vừa vặn đâu vào đó rồi, dư chút ít trả nợ quán xá, đưa cho vợ con, không dư một đồng bỏ túi…Vậy mà, mới hồi trưa mua được lon sơn 5 ký để sơn bảng, để nơi góc nhà, rồi đi ra chợ chút xíu, quay trở về thì… hỡi ôi… ông già ở nhà buồn đời lấy ra sơn phết bôi quẹt lên các chậu kiểng, bức tường… không còn được một muỗng! Giờ lấy sơn đâu mà làm? Tức quá phải khóc chớ sao?

Tôi phì cười. Nhìn ngắm gương mặt mếu máo của anh ta mà thấy tội nghiệp vô chừng. Móc túi rút ra ngay xấp tiền, tiền mới được lãoVũ Dương ứng cho một trăm nghìn đồng hồi chiều, tôi chưa kịp đưa cho chị Hai để góp tiền chợ, chia đôi ra rồi trao qua cho anh ta:

- Anh cầm cái này xoay trở đỡ đi, em không có nhiều…
- Cất lại đi.
- Sao vậy, anh?
- Vì nếu tao nhận thì mất đạo nghĩa.
- Thôi mà anh, có bao nhiêu đâu mà đạo với nghĩa? Nếu anh ngại thì em cho anh mượn, khi nào làm xong, lãnh nốt số tiền thù lao còn lại thì anh trả cho em…
- Mày cho hay cho mượn cũng vậy thôi. Nhưng tao mà nhận thì… mày sẽ hiểu lầm là tao kêu mày qua đây chỉ cốt để hỏi mượn tiền của mày. Thật ra thì… chuyện lon sơn bị ông già phá mới xảy ra, sau khi tao gặp mày ở xưởng vẽ Vũ Dương. Còn tao kêu mày qua đây là để bàn chuyện làm ăn…
- Em biết. Em biết mà. Em không nghĩ gì bậy bạ đâu, anh đừng ngại…
- Mày có muốn bỏ chỗ lão Vũ Dương, qua đây làm với tao không?
- Thiệt không anh?
- Thiệt.Tao đang cần một đứa phụ việc, học việc, đáng tin cậy như mày. Quan trọng là mày có chịu bỏ nhà giàu sang ở với nhà nghèo hay không kìa!
- Em chịu ngay. Được làm học trò của anh mới là điều em mong ước!
- Sướng khổ cùng chịu với anh mày nhé !?
- Chấp nhận!
- Nói thiệt cho mày mừng, khu vực ngoài này đang được mở mang, quy hoạch nâng cấp đủ thứ chuyện, nên có rất nhiều công việc để làm, tao sợ làm không xuể …
- Đã quá! Khi nào em bắt đầu qua đây làm với anh được đây?
Ngay sau khi có tiền mua lon sơn 5 ký để sơn bảng hiệu!
 Dứt lời, anh giật tờ giấy bạc năm mươi nghìn đồng trên tay tôi, nhét vào túi áo, mặt tỉnh queo. Tôi và anh ta cùng bật cười ha hả. Tôi nắm bàn tay gân guốc của anh ta, an ủi:
- Thôi, đừng tức nữa nghen anh. Đừng giận bác làm gì…
 Anh ta cười khề khà, gãi đầu tóc bờm sờm nói:
- Giận đâu mà giận? Tao chỉ tức cho tao, giận cho tao đã không cẩn thận, biết tính ông già như vậy mà còn không chịu đem cất giấu cho kỹ lưỡng dụng cụ đồ nghề cần thiết. Bị nhiều lần rồi chớ đâu phải là lần đầu tiên. Lần trước cũng bay hết lon sơn đỏ, tao nóng quá nên có nặng lời với ông già, liền bị ổng bắt leo lên phản nằm, lấy chổi lông gà quất mấy chục roi vào mông y như hồi mình còn con nít, làm tao ngồi không được mấy ngày trời, không làm ăn gì được…
 Tôi trố mắt kinh ngạc:
- Anh lớn như vậy rồi, vợ con đùm đuề rồi, mà cũng còn bị bác đánh đòn như vậy sao?
- Sao không? Có già đầu đi nữa thì cũng chỉ là đứa con nít trong mắt của cha mẹ mình.
- Sao anh không bỏ chạy?
- Tao nghĩ thôi kệ, mình hỗn thì mình phải chịu tội, phải bị phạt cho khỏi ray rứt. Hơn nữa, cha mình đâu còn bao nhiêu dịp để đánh đòn mình nữa, phải cắn răng mà chiều cho ông già vui. Ổng vui, mình cũng vui…

Tôi thẫn thờ nhìn gương mặt đầy hoan hỷ của anh ta, bỗng dưng sực nhớ đến mẹ mình, nhớ chuyện trước khi qua ngồi nơi đây mẹ nhờ mình xoa bóp đôi chân đang đau nhức. Tôi xấu hổ thẹn thùng khi nhận ra rằng mình là một đứa con bất hiếu, đầy tội lỗi… Lật đật chào anh Trần Vô, tôi cong người trên chiếc xe đạp, chạy vù về nhà khi trời đang chạng vạng. Chưa bao giờ tôi lại mong được gặp mẹ như vậy. Tôi đang thèm được ngồi xoa nắn đôi chân của người mẹ tuyệt vời. Và, tôi cảm ơn anh ta, cảm ơn nghìn lần con người tài hoa hiếu tử…


 
NHỮNG GIỌT HUYẾT NGÀ
 Tâm Không Vĩnh Hữu

Ba Me tôi hạ sinh được mười bốn người con, vừa tròn một câu lục bát:
"Trang Diễm Duyên Hồng Hợp Hiền
Hậu Thuần Hiếu Hảo Hữu Yên Khuê Bình"

Thật đúng là... thơ! Mười bốn chữ của câu thơ ngắn gọn nhưng lại to lớn hơn cả mọi công trình xây dựng trên thế gian này, đến hôm nay vẫn còn đầy đủ nguyên vẹn, từ chữ đầu năm nay đã được sáu mươi ba tuổi, cho đến chữ cuối cùng đã ba mươi chín tuổi, tất cả đều nên người, đều ít nhiều biết làm thơ, biết vẽ tranh, viết văn, đàn ca hát xướng, và tất cả đều thường quen gọi người mẹ vĩ đại của mình bằng một tiếng nhẹ nhàng nhưng đầy tôn kính và thân thương: Me.

Me tôi năm nay đã tám mươi tư tuổi, thật hạnh phúc cho anh chị em chúng tôi là Me vẫn còn hiện hữu trên trần gian này với một vóc dáng mình hạc xương mai nhưng lại là một cái bóng lồng lộng che ngang giữa bầu trời mà anh chị em chúng tôi hàng ngày hàng đêm ngước cổ lên ngắm nhìn bằng sự chiêm bái. Lặng lẽ thờ chồng nuôi con, lặng lẽ làm thơ và kinh kệ khuya sớm, và lặng lẽ lo lắng cho từng đứa con đang ở xa cũng như ở gần, cho dù đứa con nào của Me cũng đều đã "già đầu" khôn lớn... Sự lo lắng, quan tâm đến con cháu của Me được trải đều, nhưng tùy hoàn cảnh của mỗi đứa con mà Me xử sự.

Tám mươi tư tuổi, Me vẫn còn hàng ngày lo nghĩ đến chị Cả tôi, không biết công việc viết sách và giảng dạy tại trường đại học ở Thái Lan của chị ấy có được thông suốt hay không? Tám mươi tư tuổi, Me vẫn còn lo lắng cho chị Hai tôi đang ở Sài Gòn, nghe chị ấy vừa nghỉ hưu phải xa rời bục giảng học đường, cuộc sống chắc sẽ buồn lắm, nhiều thay đổi lo toan lắm. Tám mươi tư tuổi, Me vẫn còn lo ngay ngáy trông tin tức của anh Ba tôi, nghe dạo này anh ấy đau lưng đứng đi khó khăn nặng nhọc, mà phải hì hục cắm cúi chạy đây chạy đó để trình bày minh họa cho vài tờ tạp chí. Tám mươi tư tuổi, Me vẫn trầm ngâm nghĩ ngợi vừa mừng vừa phập phồng cho duyên mới của chị Tư tôi, cầu Trời cầu Phật cho con thuyền tình duyên muộn màng của chị ấy cập được một bến bờ an vui ấm áp. Tám mươi tư tuổi, Me hàng ngày ngồi ngóng thư từ tin tức của chị Năm tôi đang lưu lạc bất định rày đây mai đó với đứa con trai duy nhất, không biết hai mẹ con đã có chỗ nương náu ổn định hay chưa? Tám mươi tư tuổi, Me vẫn hàng tuần đi xích-lô đến thăm hỏi vợ chồng anh Sáu tôi, khi thì ngó chừng thùng gạo, lúc thì hỏi thăm túi tiền, rồi khẽ khàng dúi vào tay anh ấy mấy tờ giấy bạc mà Me dành dụm được trong tháng qua. Me còn phải lo nghĩ đến gia đình anh Bảy tôi, nợ nần không hiểu đã trả được hết chưa, có buôn bán được không, và mấy đứa cháu nội đi làm có gặp gì khó khăn hay không? Rồi còn chị Tám tôi đang làm tại tòa soạn báo ở Sài Gòn, công việc căng thẳng, thân thể ngày càng xanh xao xương xẩu, không rõ chị ấy có chịu ăn uống bồi bổ nhiều vào như lời Me dặn trong thư hay không? Me đang lo nghĩ đến anh Chín tôi mới vừa chân ướt chân ráo sang ở nước Mỹ xa xăm, chưa có việc làm, phải bù đầu mà học tiếng Anh, học lái xe, thì lấy gì mà sống cho no đủ? Rồi còn anh Mười tôi đang ở cách xa nửa vòng trái đất, hết nghề chọn lại chọn theo nghiệp viết văn làm thơ của Ba Me, vừa làm thợ sắp chữ nhà in thức đêm thức hôm hụt hao sinh lực. Tám mươi tư tuổi, Me còn lo lắng cho thằng Mười Dư là tôi - không rõ mùa báo Tết vừa rồi nó có được đăng bài nhiều hay không, để có tiền mà lo cho vợ con, trang trải nợ nần. Me còn phải lo lắng cho ngay cả con Mười Hai mặc dù chính nó đang ngày đêm kề cạnh để hầu hạ chăm sóc cho Me, cứ nơm nớp sợ nó bệnh, hay sợ nó gặp chuyện gì đó buồn phiền nên không chịu cười cho Me nhìn thấy. Me lại phải nhăn trán nhíu mày để lo nghĩ đến con Mười Ba lao đao lận đận, buôn bán lúc nắng lúc mưa, tiền lời kiếm được bao nhiêu trong ngày đều phải dốc hết ra mà lo cho hai đứa con gái đi học. Và còn thằng Út nữa, Me cũng lo lắng nhiều, mất ngủ nhiều đêm, trăn trở lắm buổi khi nó vừa quyết định bước qua ngưỡng cửa hôn nhân đại sự ở cái tuổi sắp tứ tuần với một người con gái ở phương trời xa lắc... Ai đã yên bề gia thất thì Me mừng, ai có cuộc sống ấm no dư dả thì Me vui, ai đang gặp chuyện trắc trở thì Me khuyên lơn động viên an ủi, ai đang lâm cảnh khó khăn túng bấn thì Me âm thầm chia sẻ san sớt... Dường như niềm vui của Me lúc tuổi đã bóng xế chiều tà là vẫn còn lo lắng được, vẫn còn khuyên dạy được, vẫn còn chu cấp vật chất lẫn tinh thần được cho con cháu của mình. Cứ như vậy, bao nhiêu năm qua với cái dáng thẳng lưng nhẹ bước thong dong thư thả, Me vẫn cận kề một bên hết thảy con cháu của mình để tỏa hơi ấm tình thương mà người đời thường ca tụngbao la như biển Thái Bình.

Mười bốn chữ trong câu lục bát tuyệt tác của Ba Me - hỏi ai không một lần ngâm nga nghiền ngẫm thi phẩm "Những giọt huyết ngà" của những năm 40 - 50 mà lúc sinh tiền nhà thơ Quách Tấn đã từng ca tụng trên báo tỉnh nhà là "một trong những bài thơ bất hủ trên đất Khánh Hòa":

Đây dòng sữa Me nấu bằng hơi thở
Truyền từ nguồn huyết thống, suối thương yêu
Huyết Me khô cho phần sữa thêm nhiều
Me vâng lĩnh ý trời, ban con đó!
Con uốn hai vành môi son thắm đỏ
Dòng huyết ngà tuôn theo nhịp vành môi
Huyết thân Me, nhưng phép lạ tay trời
Pha dịu ngọt trong đôi dòng sữa ấm
Mỗi tia sữa là mỗi luồng điện sống,
Bú đi con! Hứng nhận cả lòng say...
Con nghĩ gì trong bộ óc thơ ngây,
mơn trớn như nâng vàng hứng ngọc?
Me yêu quá, giọng cười và tiếng khóc
Ai bày con tôi nói tiếng chim đây?
Dễ thương chưa? Da sữa thắm hây hây
Ai ướp cả muôn hương vào thớ thịt?
Thương chẳng có chỗ cùng, thương tuyệt đích
Me thương con thắm thiết lắm, con ơi!
Cao như non? Cao sánh vút chân trời,
Rộng như biển? Rộng lan trùm trái đất
Con là tất cả ý niềm vui sống!

Bài thơ này của nữ sĩ Trinh Tiên, về sau làm thơ Đạo - nữ thi sĩ của Phật giáo - lấy bút hiệu là Tâm Tấn (cũng là pháp danh), chính là Me của tôi đó! Anh chị em chúng tôi thật diễm phúc khi được hưởng những giọt huyết ngà của Me mà khôn lớn nên người. Cho dù cuộc đời có lắm trái ngang, hay có lắm khổ buồn, thì những đứa con của Me vẫn đứng thẳng lên được để mà đi nhờ đã tiếp nhận vào tận máu xương, tận tâm hồn mình cái nguồn suối "thương chẳng có chỗ cùng, thương tuyệt đích" mà Me đã ban cho.

Me sống thật thâm trầm. Me không thích được ai nói về mình, không thích được ca tụng, không thích được khen ngợi hay tôn vinh gì hết, mặc dù bạn văn chương thi phú thâm giao của Me và của Ba toàn là những tên tuổi vang lừng trên văn thi đàn nước nhà... Khi biết tôi có ý định viết một bài ngắn về Me để gởi đăng trên một tờ nội san của một chùa hoặc một tờ báo chuyên đề về phụ nữ nào đó nhân mùa Vu lan đến, Me có vẻ như không đồng tình, rồi làm thinh. Me càng phản đối hơn khi nghe tôi định gởi một ảnh của Me kèm theo bài viết. Không dám làm phật ý Me, tôi đành cất tấm ảnh chân dung của Me vào lại album với lòng đầy tiếc nuối. Đó là bức ảnh của Me mà tất cả "mười bốn chữ trong câu lục bát" đều được Me trao tặng. Trong ảnh, Me thật là đẹp, đẹp như tiên. Và ngoài đời, đối với anh chị em chúng tôi, Me bao giờ cũng đẹp, cái đẹp vĩnh cửu vĩnh hằng không một tuyệt đỉnh nghệ thuật nào diễn tả nổi!

Viết về Me, có lẽ viết bao nhiêu cũng không đủ, có viết dài lê thê thậm thượt cách mấy cũng trở thành ngắn ngủn sơ sài. Nếu hết thảy mười bốn anh chị em chúng tôi cùng ngồi lại với nhau để cùng viết mấy pho sách về Me cũng không thể viết hết chuyện, không thể kể hết lời, không thể diễn tả hết những gì Me - cũng như Ba - đã để lại cho con cái. Nhưng tôi chắc chắn một điều: những giọt huyết ngà của Me vẫn luôn chảy miên man, tuôn tươm bất tận vô cùng vào trong huyết quản, trong từng mạch máu, trong từng hơi thở và thấm đẫm trong tâm tưởng anh chị em chúng tôi cho dù một ngày nào đó - theo lẽ vô thường sinh trụ hoại diệt mà Me từng bình thản giảng dạy cho con cái nghe - bóng dáng mảnh mailồng lộng của Me khuất hẳn khỏi cõi trần gian bụi bặm như một vầng trăng tròn vằng vặc chìm sau dãy núi xa xa...

Đã đăng trên Báo Giác Ngộ 238
(Số đặc biệt Vu Lan Báo Hiếu PL: 2548 ra ngày 26-8-2004)


 
NỬA ĐÊM NGOẠI DẬY
 Tâm Không Vĩnh Hữu
 
 Bé Hân để ý biết mẹ buồn buồn đã mấy ngày qua. Mẹ buồn chuyện gì thì chắc chỉ có mẹ biết rõ thôi. Nhưng bé Hân dám chắc một điều là mẹ không phải buồn vì chuyện làm ăn buôn bán ngoài chợ của mẹ, mà buồn chuyện gì đó trong nhà.Trong nhà thì có mấy ai xa lạ đâu? Chỉ có bà ngoại, mẹ, bé Hân và thằng cu Choi. Ba của bé Hân làm tài xế chạy xe khách đường dài, năm khi mười họa mới về nhà một đêm rồi lại đi. Vậy thì mẹ buồn vì ai? Thằng cu Choi vẫn mập mạnh, ngoan ngỗn, là học sinh giỏi lớp 1. Còn bé Hân thì luôn chăm chỉ học hành, không màng đến chuyện chơi đùa giải trí, lại phụ với bà ngoại, với mẹ làm mọi chuyện lặt vặt trong nhà để ngôi nhà luôn sạch sẽ ngăn nắp. Mẹ không thể buồn vì con cái được. Hay là mẹ buồn vì bà ngoại? Thôi rồi, đúng là vậy rồi. Dường như mẹ không nói chuyện với bà ngoại đã ba, bốn ngày qua. Trong bữa cơm chiều, bà ngoại có hỏi han gì thì mẹ chỉ trả lời lấy lệ cho qua, không hào hứng sôi nổi như trước kia ngoại.Mấy ngày qua, mới sáng sớm là mẹ đã đi ra chợ ngồi với cái sạp bán quần áo của mình, như chạy trốn điều gì đó, đến trưa đứng bóng mẹ tạt về nhà tắm rửa mát mẻ rồi lại đi.Mẹ không ăn cơm nhà bữa trưa. Mẹ ăn cơm đĩa cơm phần ngoài chợ. Cu Choi thì học bán trú, ở lại ăn cơm tại trường. Bữa cơm trưa ở nhà coi như không có, bà ngoại ăn chay trường nên thường đi bộ một đoạn đến tiệm cơm chay “Giải Thoát Duyên” gần nhà để ăn qua loa rồi về nghỉ ngơi, đọc kinh xem sách. Bé Hân đói bụng phải đạp xe ra chợ, ghé vào sạp của mẹ để mẹ gọi cơm cho ăn. Đến chạng vạng mẹ đem một ít thực phẩm về nhà, lo cơm nước đầy đủ, lau chùi quét dọn nhà cửa với vẻ mặt quạu quọ cau có, rồi bảo bé Hân mời bà ngoại dùng cơm sau khi đã dọn riêng một mâm cơm chay cho bà ngoại trên cùng một bàn ăn. Bàn tròn bốn người, mẹ và ngoại ngồi cách nhau giữa hai đứa nhỏ, không ai chịu cười nói cho vui vẻ để bữa ăn thêm phần ngon miệng. Không khí trong gia đình thật ngột ngạt.May mà còn có thằng cu Choi vô tư, nó huyên thiên kể chuyện ở trường ở lớp đủ để phá tan cái bầu không khí im lặng nặng nề. Chắc là mẹ buồn, mẹ giận bà ngoại rồi. Chứ không thể có chuyện bà ngoại buồn, bà ngoại giận mẹ của bé hân được. Bà ngoại luôn vẫn là người bắt chuyện thăm hỏi trong bữa ăn, trong khi đó mẹ bé Hân lại luôn trả lời cộc lốc ngắn ngủn. Nếu bà ngoại là người giận thì bà đã không thèm hỏi chuyện ai cho mệt. Nhưng mà mẹ buồn mẹ giận bà ngoại chuyện gì? Bé Hân ra ngồi ngoài ban- công trên lầu 1 đón gió mát từ hướng biển thổi về, đầu óc cứ nghĩ quẩn quanh chuyện mẹ buồn, mẹ giận bà ngoại. Chuyện gì vậy nhỉ? Thử quay trở lại mấy ngày trước để tìm cho ra nguyên nhân xem. Đọc truyện “Thám tử Conan” đến mấy chục tập, không lẽ không học được chiêu ngón gì ở chàng thám tử tài ba kia sao? Ba ngày trước… mẹ đã làm mặt lạnh rồi. Năm ngày trước, mẹ vẫn còn chở bà ngoại đi chùa, hai mẹ con trò chuyện rôm rả, trao đổi vui vẻ về chuyện Đời chuyện Đạo.Vậy thì bốn ngày trước, có chuyện gì đã xảy ra? Bé Hân tập trung tư tưởng, tìm tòi lục lọi trong trí nhớ, quay trở về với thời gian đã trở thành quá khứ, và đầu óc sáng bừng lên. Tìm ra rồi. Chuyện cái bàn. Đúng là do cái bàn gương rồi. Không lẽ mẹ buồn mẹ giận bà ngoại vì chuyện đó sao?

 Hôm ấy nhằm chủ nhật, nghỉ học, bé Hân cùng thằng cu Choi ở nhà xem phim “Những cuộc phiêu lưu của Sin-Bát”, rồi nô đùa chạy nhảy khắp nhà với nhau thoả thích. Mẹ đang nấu ăn dưới nhà bếp, bà ngoại đang lau chùi quét dọn bàn thờ trên lầu. Đến lúc bé Hân rượt đuổi em trai chạy vòng vòng quanh phòng khách, thằng cu Choi vấp chân té chúi nhủi tới trước. Trán nó đập xuống mặt bàn bằng kính dầy 5 ly thật mạnh, kêu lên một tiếng“bộp” thật to. Thằng cu Choi khóc ré lên ôm lấy trán. Bé Hân luýnh quýnh ôm em lại mà dỗ, xoa lên chỗ đau của em trai. Mẹ ở dưới bếp hốt hoảng chạy lên, nhào lại ôm thằng cu Choi, vừa dỗ vừa xem thử có chảy máu hay không. Bà ngoại từ trên lầu, cũng bước vội xuống, đứng lại ở lưng chừng cầu thang nhìn xuống, rồi thốt lên một câu hằn học:

- Xem thử mặt kính bàn có bị bể nứt gì không?
Mẹ nhướng mắt sửng sốt nhìn lên phía bà ngoại đang đứng. Rồi vùng vằng đi xuống bếp khi thấy thằng cu Choi không hềø hấn gì, nó khóc chỉ vì bị té bất ngờ nên hoảng hồn thôi. Sau đó, mẹ bắt đầu làm mặt lạnh, có những cử chỉ khác thường khi bà ngoại hỏi chuyện. Chắc là mẹ giận bà ngoại chuyện này. Muốn biết có đúng vậy không chỉ có nước hỏi ngay nơi mẹ.
Tối. Bà ngoại ngồi xem cải lương trên truyền hình. Thằng cu Choi đang tập rèn mấy trang chữ. Mẹ ra ngồi ngoài ban –công trầm tư một mình. Bé Hân thấy đã đến lúc thuận lợi, vội đến ngồi bên mẹ. Mẹ đưa mắt nhìn con gái. Một đôi mắt ăm ắp ưu buồn. Bé Hân hỏi:
- Mẹ trông ba về phải không?
- Không. Con nhớ ba không?
- Dạ nhớ. Tuần này ba đi lâu quá…
- Chắc nay mai ba sẽ về, con à!
- Sao con thấy mẹ buồn buồn mấy ngày nay vậy?
- Đâu có. Mẹ vẫn bình thường như mọi khi, chớ có buồn gì đâu?
- Không. Mẹ giấu con. Con biết mẹ đang buồn.
- Nhà mình vui vẻ chứ đâu có gì phải làm mẹ buồn? Mẹ chỉ sẽ buồn nếu như con và thằng cu Choi học kém, bị điểm 1 điểm 2 thôi!
- Mẹ không buồn, không giận bà ngoại của con sao?
 Mẹ sửng sờ một thoáng, rồi trầm giọng xuống hỏi:
- Sao mẹ phải giận, phải buồn vì bà ngoại?
- Con đoán vậy.
- Sao con dám đoán vậy?
- Con để ý thấy mẹ không nói chuyện vui vẻ với bà ngoại của con như trước kia. Mấy ngày nay mẹ ít khi về nhà, chỉ ở miết ngoài chợ. Chừng như mẹ muốn tránh bà ngoại của con. Con thấy mẹ khác lắm…
- ………
- Phải mẹ đang giận bà ngoại không?
- Chuyện gì mà giận?
- Con đoán là từ bữa thằng cu Choi té đập trán lên bàn kính. Sau đó, mẹ bắt đầu buồn, bắt đầu giận bà ngoại của con.
 Mẹ đăm đăm nhìn bé Hân với gương mặt lộ vẻ ngạc nhiên. Thật lâu, mẹ mới cười nói:
 - Con gái của mẹ đã khôn lớn lúc nào mà mẹ không hay. Con đã biết suy nghĩ, biết trăn trở suy tư , và có triển vọng làm thám tử rồi đó!
- Vậy là con suy đoán đúng, phải không mẹ?
- Ừ. Mẹ giận bà ngoại của con từ bữa đó.
- Con mà giận mẹ thì có phải là sai không mẹ?
- Sai. Mẹ biết mẹ sai. Nhưng mẹ chưa nguôi cơn giận, nên chưa làm hoà lại với bà ngoại của con. Cứ nghĩ nhớ đến câu bà ngoại nói lúc thằng cu Choi té đập trán lên bàn kính là mẹ giận run lên, mất hết bình tĩnh. Con có nhớ bà ngoại nói gì lúc đó không?
- Con nhớ không lầm thì bà nói…“Xem thử mặt kính bàn có bị bể hay nứt gì không?”. Phải vậy không mẹ?
- Chính xác. Sao con nhớ hay vậy?
- Con mới nhớ lại hồi trưa nay thôi, vì con “động não hình sự” mà!
- Cái con này… lớn lên chắc theo ngành công an quá!
- Mẹ giận bà ngoại của con vì câu nói đó sao?
- Ừ.
- Sao lại giận?
- Vì bà ngoại nói như vậy.
- Nhưng theo con thì… bà nói đùa cho vui thôi mà!
- Đuà ư? Hết lúc đùa rồi sao?
- Ngoại nói chơi cho vui thôi, ý ngoại là “cái đầu của thằng cu Choi cứng lắm, chắc lắm… có thể đập vỡ tường bể kính như chơi chớ không sao đâu mà lo!”…
- Đó là ý của con chứ không phải ý của bà ngoại. Lúc mới nghe bà ngoại nói, mẹ cũng tưởng là bà nói chơi, nhưng khi nhìn vẻ mặt nghiêm trang cau có của bà, thì mẹ dám chắc là bà không nói đùa chút nào. Bà ngoại lo lắng cho sự an nguy của mặt kính cái bàn, chứ không hề quan tâm đến sự an nguy của đứa thằng cháu vừa bị té.
- Mẹ dám chắc như vậy sao?
- Dám chắc. Mẹ biết tính bà ngoại mà. Xưa kia, lúc mẹ còn nhỏ, bà ngoại ác lắm, dữ lắm. Mấy năm gần đây thì bà ngoại đã đỡ nhiều lắm rồi. Con biết nhờ đâu không?
- Dạ… con không biết!
- Nhờ bà ngoại thường xuyên đi chùa, nghe các thầy thuyết pháp, rồi về nhà ăn chay niệm Phật… Nếu không, chắc mẹ con mình không ở nổi với bà ngoại trong nhà này đâu!
 Bé Hân lặng thinh, chau mày nghĩ ngợi. Mẹ thở dài, nói:
 - Mẹ buồn, tủi thân lắm. Ngôi nhà này là của dì Hai của con bên Mỹ gửi tiền về mua cho bà ngoại. Gia đình mình chỉ ở nhờ ở đậu. Mọi vật dùng trong nhà đều cũng là của dì Hai con sắm cho bà ngoại trong dịp về thăm quê hương năm ngoái. Chính chiếc bàn mặt kính của bộ sa-lông nệm mút là do chính dì Hai cùng bà ngoại đi mua chở về. Bà ngoại gìn giữ đồ đạc trong nhà kỹ lưỡng lắm, bởi vậy mà mẹ đã nhiều lần nhắc nhở hai con đừng nên làm hư hao tổn hại bất cứ đồ dùng gì, mà phải luôn luôn gìn giữ. Khi nào ba mẹ có được nhà riêng, sắm sửa đồ dùng riêng, các con có làm hư làm bể cũng không sao…
 Bé Hân thấy mẹ đã rơm rớm nước mắt, vội ngồi xít đến dựa vào mẹ, nói:
- Con hiểu rồi, con nhớ lời mẹ dặn rồi. Mẹ đừng buồn tủi nữa…
 Hai mẹ con ngồi im lặng nhìn xuống dưới đường phố. Một lát sau, mẹ cất giọng:
- Nếu ba có về, mẹ cũng không dám nói cho ba biết. Con nhớ đừng kể gì cho ba…
- Dạ… nhưng sao phải giấu ba, hở mẹ?
- Ba con là con rể của bà ngoại, ổng tự ái lắm, nếu mà nghe biết chuyện này thì ổng sẽ mượn rượu say để quậy cho bà ngoại hết hồn luôn đó!
- Mẹ à, nhưng con nghĩ… bà ngoại của con đang ăn chay niệm Phật nên bà không có ý độc ác đâu. Chắc bà lỡ lời … sau đó thì bà ăn năn lắm…
- Con bênh bà ngoại nên nói vậy thôi. Sao con biết bà ăn năn?
 - Con không bênh đâu. Con thấy bà mấy ngày nay cũng buồn như mẹ vậy.
- Phải vậy không?
- Dạ, con không nói thêm đâu. Bà ngoại của con buồn lắm, cứ thở dài hoài. Con còn thấy bà đã mấy lần muốn bắt chuyện làm hoà với mẹ, nhưng mẹ cứ lãng tránh…
- Ừ. Đúng là bà ngoại có ý muốn làm hoà nhưng mẹ chưa muốn.
- Vậy là mẹ sai, phải không mẹ?
- Thì lúc nãy mẹ đã nói là mẹ biết mẹ sai rồi mà!
- Thôi mẹ đừng giận bà ngoại của con nữa, mẹ làm hoà đi…
- Mẹ sẽ làm hoà. Nhưng chưa phải lúc này…
- Con thấy tội nghiệp cho bà quá…
- Con không tội nghiệp cho mẹ sao?
- Dạ có chớ. Nhưng tội nghiệp cho bà nhiều hơn…
- Sao vậy hử?
- Vì con thấy… liên tiếp mấy ngày qua… cứ đến nửa đêm là bà đi vào phòng của tụi con… Làm con giâït mình tưởng là “ma le” chứ…
- Bà vào phòng tụi con làm gì?
- Bà bước nhẹ nhàng như con mèo, rồi đến đứng bên giường tụi con nằm… Con giả bộ ngủ, hé mắt theo dõi thì… thấy bà cúi xuống hôn lên trán của thằng cu Choi… Sau đó bà lại hôn lên trán con… nước mắt của bà giọt rơi trên mặt con nóng hổi à…
 Mẹ sửng sờ trước thông tin bé Hân mới tiết lộ. Đó là chuyện mà bé Hân giữ bí mật mấy ngày qua, đơn giản vì bé Hân muốn được bà ngoại nửa đêm lặng lẽ vào phòng để hôn hai chị em mình dài dài và mãi mãi. Nếu nói ra cho ai cũng biết, bà ngoại sẽ mắc cỡ, rồi thì bà sẽ không làm chuyện đó nữa. Vì vậy mà mẹ thắc mắc ngay:
- Có chuyện đó sao? Sao bây giờ con mới nói cho mẹ biết chuyện này?
- Con muốn giữ bí mật cho bà.
Mẹ ngẩn ngơ không nói. Rồi đột nhiên đứng vùng dậy. Bé Hân đứng lên theo, hỏi:
- Mẹ định đi đâu?
- Mẹ vào xin lỗi bà ngoại của con. Mẹ có lỗi nặng lắm. Tội nặng lắm…

Dứt lời, mẹ bước vào bên trong nhà, đi thẳng vào phòng đang có bà ngoại ngồi xem cải lương. Bé Hân đứng lại một chỗ, không chạy theo chân mẹ, nhưng cũng tưởng tượng ra mà chứng kiến được cảnh mẹ quỳ xuống ôm chân bà ngoại khóc lóc xin bà tha thứ… Bé Hân mỉm môi cười, nhưng không hiểu sao nước mắt lại chảy dài ra kỳ quá trời quá đất!
 
 


 
THIỆN DUYÊN
 Tâm Không Vĩnh Hữu

Thuý quyết định đi bán máu. Không còn cách nào khác trong lúc dầu sôi lửa bỏng ngặt nghèo này. Hai đứa con chị đang đói, chúng đòi ăn từ rất sớm, vì tối hôm trước cả nhà chị ai cũng phải nhịn ăn cơm, chỉ húp mỗi người hai chén cháo loãng. Bao nhiêu tiền, của để dành, đều đã bay đi để đổi lấy những liều thuốc đặc trị chữa bệnh cho chồng chị. Một căn bệnh tai ác của thời chiến tranh đã hành hạ anh ấy vật vã ngày đêm mỗi khi nó tái phát. Những sự giúp đỡ của bạn bè, hàng xóm tuy là quý báu, nhưng chỉ như mang muối bỏ bể.

Chị phải bán máu thôi. Nhục thật. Nhục là vì mình là một người mang danh Phật tử thuần thành, sớm hôm tinh tấn niệm Phật đọc kinh, mỗi tháng hai lần đến chùa sám hối. Nhục là vì mình là cô giáo, dạy cho học trò những bài học cao quý về nhân đạo, vậy mà đã nhiều lần địa phương cũng như nhà trường phát động phong trào hiến máu nhân đạo, mình cứ giả vờ như không nghe, không biết, không thấy, hoặc viện những lý do đau bệnh ốm yếu hòng chối từ, để bây giờ mang những giọt máu trong châu thân-những giọt máu đào đáng lẽ phải gương mẫu tự nguyện đem hiến để cứu người -đi bán như bán một thứ hàng hoá ngoài chợ đời bát nháo. Thuý cảm thấy nhục lắm. Nhưng đành phải nuốt nghẹn cái nỗi nhục ấy, ém nó vào tận đáy lòng, lấy cái gọi là hoàn cảnh gia đình che phủ đè nén lên trên, rồi sáng để bụng trống rỗng, uống một ly trà đường, chị nhắm thẳng bệnh viện mà bước đi hấp tấp, gói mình trong chiếc áo mưa cũ kỹ, cúi gầm mặt xuống, mắt lấm la lấm lét chẳng khác gì một kẻ trọng tội đang bị truy nã sợ người quen, sợ hàng xóm nhận diện được vậy! Thôi thì tự vỗ về lấy lương tâm, chị xin khất hẹn, khất hẹn với Tam Bảo, khất hẹn với chình mình và mọi người, hẹn khi nào thoát khỏi cuộc sống chật vật, có được những tháng ngày thanh thản với cơm áo gạo tiền dư dả, từ biệt cơn bĩ cực, hun hít thời thới lai, chị sẽ tự nguyện hiến máu thường kỳ, chứ thề không bán một giọt máu dù mỗi giọt đáng giá nghìn vàng… Còn bây giờ, chị xin chịu thua. Có Trời Phật hiểu cho cái Tâm của chị thôi! 

Trời âm u, mưa lất phất mang nặng bao nỗi buồn… Còn cách cổng bệnh viện thành phố chỉ chừng năm thước, Thuý chợt nhìn thấy một người phụ nữ đã đứng tuổi có gương mặt quen quen đang ngồi dựa bức tường rào nhớp nhúa dưới một mái hiên rong rêu, vừa khóc nức nở vừa dùng khăn lau nước mắt… Hình ảnh, âm thanh đập vào mắt và tai chị, khiêùn cho chị đôïng lòng trắc ẩn, chân muốn đi vượt qua mà trái tim thì mách bảo dừng lại. Thuý chiều ý trái tim bé bỏng của mình, chị e dè ghé lại đứng trước người phụ nữ ấy.

 - Sao chị ngồi đây mà khóc?

Người phụ nữ ngước mặt lên nhìn Thuý bằng đôi mắt vô hồn, rồi đôi mắt ấy chợt sáng lên yếu ớt trong khoảnh khắc, cất giọng nghẹn ngào:

- Khổ lắm cô ơi…
- Tôi thấy chị quen quen… Mình có quen nhau không?
- Cô không biết tôi, nhưng tôi biết cô là cô giáo cũ của thằng Hùng con tôi…

- À. Thì ra là phụ huynh của học trò tôi. Thú thật, tôi không thể nhớ hết được đâu, chỉ thấy quen quen thôi. Chị gặp chuyện gì mà khóc?

- Thằng Hùng con tôi phải mổ tim, nó mắc chứng bệnh tim nguy hiểm lắm, đưa vào bệnh viện cấp cứu từ hai tuần trước… hao tốn đủ thứ tiền, vậy mà hồi tối bác sĩ còn báo cho biếtcần phải mua máu tươi để truyền thêm cho nó trong nội sáng nay…Tôi chạy không ra tiền được nữa… phải chi có cha nó…nhưng cha nó mất lúc nó mới hai tuổi rồi… Nhà nghèo quá, đồ gì bán được đã bán tuốt hết rồi… Phải chi tôi còn trẻ trung, còn khoẻ mạnh, tôi cũng chẳng ngại ngần đem cái thân này bán cho bọn đàn ông mua vui, để lấy tiền mua máu tươi cứu lấy mạng con mình… Tôi đã cho máu của mình rồi, nhưng đâu có đủ… bây giờ chỉ còn biết ngồi lo buồn mà khóc kêu đến trời đến Phật…

Thuý nghe ù ù cả hai tai, nước mắt tuôn rơi lã chã, nắm lấy bàn tay chị phụ nữ bất hạnh, nuốt nghẹn nói:

- Em sẽ hiến máu cho cháu… Chị đi vào bệnh viện với em…

… Gặp lại một phụ huynh học sinh giữa cảnh ngộ éo le đã là một bất ngờ, Thuý còn bất ngờ hơn khi chị gặp lại một người quen cũ thời sinh viên thơ mộng, đó là bác sĩ Tiên, trong khi làm thủ tục chuẩn bị hiến máu. Đôi bạn ngày xưa tay bắt mặt mừng, trò chuyện thăm hỏi nhau không biết mỏi miệng… Nghe chuyện của Thuý, bác sĩ Tiên lẳng lặng về phòng riêng, một lúc sau quay trở trao cho chị một chiếc phong bì sau khi chị đã hiến máu xong, và hẹn ngày gặp lại để hàn huyên cho thoả thích… Máu của chị không cùng nhóm máu với đứa học trò cũ mắc bệnh tim, nhưng chị cũng hiến, hiến để cứu người khác. Ra đến ghế đá ngoài sân bệnh viện, chị mở phong bì ra xem. Mười tờ giấy bạc mang mệnh giá một trăm nghìn đồng. Ôi... thật là thiện duyên, không biết có phải chư Phật, Bồ tát, hay chư Long thần Hộ pháp đã cố tình sắp xếp mọi sự để thử thách mình hay không đây? Chị rưng rưng nước mắt nhìn trời cao xanh thẳm, rồi lặng lẽ tìm người phụ nữ bất kia, chia đôi giá trị bên trong phong bì với một cõi lòng đang tưng bừng niềm vui … 

Xong, chị trở về nhà bằng những bước tung tăng như thời còn thiếu nữ cắp sách đến trường. Sau cơn mưa, trời lại sáng…

NHÀ CÓ CHUỘT
 Tâm Không Vĩnh Hữu

Mấy ngày qua, dì Hậu để ý thấy trong bếp mất một vài thứ thức ăn. Khi thì vài quả trứng gà, khi thì gói mì ăn liền, có khi mất cả… tô cơm nguội mà dì định sáng mai chiên với các món thập cẩm để thành món cơm chiên Dương Châu cho thằng Hòa ăn lót dạ trước khi đến trường. Lạ nhất là dì thấy mất cả đường, bột ngọt, gạo… Đựng trong hủ, trong lu đậy kỹ lưỡng mà sao cứ hao hụt, cứ như bay hơi vậy. Dì hỏi dò thằng Hòa, nó nói không ăn, lại xin thề độc nếu mẹ không tin. Dì hỏi thử chồng, chồng dì cười, bảo rằng đời nào ông chui xuống bếp lục lọi? Hỏi đến con gái, chị của thằng Hòa, thì chị giẩy nẩy vùng vằng, nói rằng đi học cả ngày, ôn thi cả buổi, lấy đâu thời giờ để xuống bếp mà ăn thứ này, lục thứ kia… Không ai trong nhà biết gì về những thứ thất thoát trong nhà bếp.

Không phải dì Hậu tiếc của, tiếc gì những thứ linh tinh vặt vãnh ấy, nhất là đối với một nhà khá giả, có của ăn của để như nhà của dì. Dì chỉ hơi bực bội, khó chịu vì chuyện xảy ra không được minh bạch rõ ràng. Không ai ăn, không ai lấy,thì những thứ thực phẩm kia bay biến đi đâu? Chúng không có cánh thì làm sao bay được kia chứ? Không lẽ là ma xó trong nhà nó ăn? Làm gì có chuyện ma qủy viễn vông hoang đường? Nhà có thờ Phật, có thờ chư Bồ Tát, rất thanh tịnh trang nghiêm, lại thêm mấy lá bùa của sư thầy Thông Thiên tu theo Mật Tông ban cho để dán cửa trước, cửa sau, thì đố ma quỷ nào dám léng phéng bước qua cửa. Vậy thì ai? 

Nghe dì cứ càm ràm cảm rảm chuyện bay hơi thất thoát thực phẩm, chồng dì cười xuề xòa nói trấn an:

 -Thôi, mình đừng nghĩ ngợi chi cho mệt óc nhức đầu. Chẳng đáng xá gì những thứ ấy, nếu quả thật có mất thì cũng là người trong nhà mình ăn thôi, chứ ai vô đây mà ăn với lấy? Còn không ai ăn nữa thì chỉ có nước… đổ thừa cho lũ chuột thôi! Thôi thì… coi như nhà mình làm việc thiện, bố thí cho chúng sanh được bữa ăn no bụng đi, hơi sức nào mà thắc mắc với tiếc nuối?

Dì Hậu nhướng mắt, cười nửa miệng nói:

- Chuột ư? Cũng có thể lắm chứ. Chuột bây giờ lộng hành dữ lắm, nhà nào mà chẳng có chuột? Vậy thì để tôi ra chợ mua keo bẫy chuột, để xem thử mặt mũi dung nhan mấy con chuột trong nhà mình xấu đẹp hay méo tròn! Xem xong thì thả, chớ không giết con nào đâu mà sợ phạm giới sát sanh!

Tưởng nói chơi cho vui, không ngờ ngay chiều hôm ấy, dì Hậu ra chợ mua ngay đến ba hộp keo bẫy chuột, đặt vào những góc tăm tối trong gian nhà bếp… Đặt xong keo bẫy chuột rồi, dì Hậu quên bẳng đi, không để ý xem thử có chú chuột nào tham ăn mắc bẫy hay không. Cho đến ba hôm sau, khi dì phát hiện mất nửa gói nui để nấu súp, lại mất thêm mấy miếng khô cá thiều ,dì mới sự nhớ đến những hộp keo bẫy chuột. Lôi ra xem thử thì… hỡi ôi… chỉ bẫy được mấy con thằn lằn trắng chạch, và vài con gián hôi gớm guốc. Dì Hậu ngao ngán thở dài, nhẹ nhàng gỡ từng con vật ra khỏi bẫy keo, mang đi thả nơi xó bếp, không muốn nói hay hỏi han ai gì nữa…

Tối hôm ấy, trước khi vào phòng riêng để nghỉ ngơi, dì Hậu cố ý để quên một trái xoài chín thật ngon, mấy trái chuối bồ hương hấp dẫn, và cả chùm nho xanh bóng quyến rũ nằm cạnh bếp ga, không đậy không che, không dặn không dò… Chừng nửa giờ sau, dì bất ngờ xuống nhà bếp. Những món trái cây dì cố ý để quên khi nãy đã không cánh mà bay mất rồi. Dì mỉm cười, bước qua phòng của thằng Hòa nhìn vào, rồi đi nhanh ra ngoài sân. Trước thềm hiên, dì nhìn thấy hai đứa bé, một trai một gái, đang ngồi ăn ngấu nghiến ngon lành những trái chuối, trái nho… Ngồi cạnh chúng chính là thằng Hòa con của dì.

Nhìn thấy dì, thằng Hòa giật mình đứng bật lên như chiếc lò xo, mặt mày lấm la lấm lét, ánh mắt trốn chạy cái nhìn âu yếm xúc động của mẹ. Dì Hậu nở một nụ cười nhân từ, bước lại bên con trai, vuốt xoa mái tóc nó, và rót ra từng lời dịu dàng

 - Con đã làm điều tốt thì không có gì phải xấu hổ, phải giấu diếm. Con biết san sẻ, biết giúp đỡ người khác đó là điều mà không phải ai cũng làm được. Chỉ cần con thưa thật với bố, với mẹ, thì những ước muốn cao đẹp của con sẽ được bố mẹ hoan hỷ giúp sức cho chúng thành hiện thực… Chia ngọt sẻ bùi cho bạn thì có gì là xấu xa mà con phải giấu? 

Thằng Hòa sà vào lòng mẹ, nghẹn ngào từng tiếng:

 - Con xin lỗi mẹ… từ nay về sau… con sẽ không tái phạm nữa…

Dì Hậu cười, nhỏ nhẹ:

 - Không tái phạm chuyện giấu diếm, lén lút, gian dối thôi. Còn chuyện con san sẻ, con giúp đỡ bạn bè, hoặc bất cứ ai khác lâm cảnh túng bấn ngặt nghèo thì không bao giờ, mãi mãi không bao giờ bố mẹ cấm cản con cả! Trong 14 điều dạy của Phật, có mấy câu, “Lễ vật lớn nhất của đờøi người là khoan dung”, và “An ủi lớn nhất của đời người là bố thí”, con đã từng được mẹ đọc cho nghe rồi mà. Con nhớ rõ chưa, “con chuột đầu đen” của mẹ?

Thằng Hòa bật nở nụ cười khi nghe mẹ gọi mình là… “con chuột đầu đen”. Nó nghĩ , té ra nó đã dính phải keo bẫy chuột của mẹ rồi…

Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Tạo bài viết
26/01/2022(Xem: 3161)
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ rời. Nói theo ngôn ngữ thường dùng là viết theo thể văn tản mạn. Nghĩa là, không phải sắp xếp, lý luận theo một hệ thống. Bài viết khởi lên từ cuộc nói chuyện rời trong khi ngồi trên xe của nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc Doãn Quốc Hưng từ Quận Cam tới tham dự một Phật sự tại Riverside, California.
Có rất nhiều thông tin trái ngược nhau về đậu nành: Nó có tốt cho sức khỏe không? Nó có nguy hiểm không? Và nếu ăn được thì tại sao một số người lại nói là không?
Là Phật tử, ai cũng muốn tìm hiểu Đạo Phật để thực hành cho đúng đắn ; nhưng Phật Giáo thật mênh mông, như lá cây trong rừng : học cái chi đây ? bắt đầu từ đâu ? Cả đời người chắc cũng không học hết được. Mỗi người tùy theo phương tiện, chí hướng, ý thích, điều kiện, mà đặt trọng tâm trên một hay vài địa hạt nghiên cứu.