50 NĂM NHÌN LẠI
MỘT CHẶNG ĐƯỜNG
Nam Phương
Chỉ còn vài hôm nữa là đúng 50 năm, một nửa thế kỷ đời người qua đi nhanh chóng kể từ ngày Sài gòn của Miền Nam VN bị thay tên đổi họ. Thật sự tôi cũng không còn muốn nhắc nhở hay nhớ đến những tháng ngày đen tối kinh hoàng bi thương ấy nữa, bởi mỗi lần nghĩ đến là mỗi lần như chạm vào vết thương xưa cũ không bao giờ lành. Bởi cũng cái ngày xưa cũ ấy mà giờ đây “Bên thắng cuộc” từ ngữ và cũng là tên cuốn sách của tác giả Huy Đức, người cũng vừa bị nhà cầm quyền CS cho vào ngồi tù gỡ lịch - để rồi hôm nay họ đang tưng bừng chuẩn bị tổ chức ăn mừng lớn với duyệt binh pháo hoa rầm rộ, dân chúng cả nước thì được nghỉ làm nghỉ học dài ngày.
Thật sự những tháng ngày đau thương ấy có lẽ không cần phải nói nhiều thì ai cũng hiểu bởi thế hệ của chúng tôi những người không may mắn có mặt trong thời đoạn đó đủ lớn, đủ trí khôn đều cảm nhận được, đều phải trải qua giai đoạn kinh hoàng này tùy vào mức độ hoàn cảnh của mỗi gia đình. Hôm nay nhân câu chuyện người anh cả tặng cuốn sách nhỏ viết về giai đoạn 10 năm trong cuộc đời của anh từ 1975 đến 1985 khi CS đã chiếm trọn Miền Nam, thì bỗng nhiên như một gợi ý để tôi có thể bắt đầu kể lại câu chuyện của gia đình trong khoảng thời gian đó một cách chi tiết hơn, cho các con các cháu những đứa trẻ lớn lên ở đây hoàn toàn không hay biết gì về nổi đau mà cha mẹ ông bà của chúng đã phải trải qua dưới chế độ CS như thế nào và cho đến tận bây giờ đã 50 năm trôi qua chế độ này vẫn còn đang tồn tại trên quê hương VN của chúng ta.
Ngày ấy 30 tháng 4 năm 1975 tôi vừa tròn 20 tuổi, chứng kiến bầu trời tương lai tối đen sập xuống cho mình cho gia đình và cho toàn thể người dân dưới chế độ cộng hòa miền Nam Việt Nam, để rồi đi cùng theo năm tháng với biết bao thăng trầm bất ổn đan xen trong cuộc đời 50 năm qua, cho đến ngày hôm nay tôi cũng vừa đúng 70 năm tuổi, để phải suy ngẫm và cảm nhận được nhiều hơn những lời dạy của Đức Phật “Vạn pháp tùng duyên” mọi việc đến đi trong cuộc đời này đều không ngoài hai chữ Nghiệp Duyên.
Bố mẹ tôi là người miền Bắc đã phải rời bỏ quê hương Nam định khi còn rất trẻ để trốn chạy Việt Minh CS vào năm 1954, vậy mà chỉ 21 năm sau 1975 lại phải toan tính tìm đường lẫn tránh CS thêm một lần nữa. Bởi không ai có thể tưởng được rằng một Sài gòn miền Nam tươi đẹp được mệnh danh là Hòn ngọc viễn đông chỉ trong phút chốc bị chiếm đoạt bị đói nghèo thê thảm vì chế độ XHCN.
Gia đình chúng tôi lúc bấy giờ có một cái quán phở nhỏ tên Phước Thủy trên đường xa lộ Tân cảng cách cầu Phan thanh Giản độ vài trăm mét. Khi cuộc chiến đã bắt đầu trở nên khốc liệt và người Mỹ đang dần buông tay (mà hình ảnh bàn tay trắng nắm chặt bàn tay vàng luôn khắn khít vẫn còn in rõ trên các thùng hàng cứu trợ) thì cũng là lúc mất dần các tỉnh thành phía Bắc VN như Huế, Đà nẵng. Cho đến khi cao nguyên Ban mê thuộc hoàn toàn thất thủ vào ngày 13-3-1975 thì bố mẹ tôi cũng quyết định đóng cửa quán phở vào cuối tháng 3-1975.
Thật sự không còn tâm trí bán buôn bởi vì nhà chúng tôi đang ở địa chỉ 1kép 2C đường Phan đình Phùng mà bây giờ là đường Nguyễn đình Chiểu Quận I, trong khu cư xá thuộc cục An Ninh Quân đội số 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm và ngay bên cạnh là Đài phát thanh Sài gòn. Đó là những lý do khiến bố mẹ tôi lo lắng vì CS sẽ tấn công nơi đây sớm nhất để chiếm lĩnh Đài phát thanh và tấn công vào trung tâm đầu não của của lực lượng An ninh quân đội.
Ngày ấy chúng tôi có mười anh em, người anh lớn 25 tuồi đứa em út nhỏ nhất mới 3 tuôi, bố mẹ tôi sợ rằng trong lúc đất nước loạn ly con cái sẽ dễ bị thất lạc như cuộc di tản kinh hoàng của nhiều gia đình khi miền Trung thất thủ. Và thế là bố mẹ tôi chuẩn bị cho chuyến vượt biển bằng con đường đi ra Vũng tàu nếu một khi miền Nam VN bị rơi vào tay CS. Cũng may có Thiếu úy Cử cùng làm việc với bố tôi ở Phòng Huấn luyện cục ANQĐ là con rể của bác Hương nhà ở giáo xứ Nam bình có tàu đánh cá.
Suốt thời gian gần một tháng trước ngày 30-4 bố tôi và bác Châu một người bạn thân thiết có chung dự định thường xuyên liên lạc với bác Hương để nhờ mua một tàu đánh cá neo sẵn ở Vũng tàu trong khi chờ xem tình hình đất nước như thế nào. Còn mẹ tôi thì chuẩn bị các lương thực khô như thịt chà bông, thịt dầm mắm muối và nhất là chanh cô đặc với đường phòng khi thiếu nước thiếu thực phẩm trên tàu để chuyển dần ra nhà bác Hương.
Đến khoảng 10 giờ sáng ngày 25-4 bố tôi từ Cục ANQĐ về nhà cho biết tình hình không ổn, gọi tất cả các con đang đi học đi làm phải về ngay, lúc đó tôi còn đang ở giảng đường trường ĐH Luật khoa, đến trưa về nhà mới biết sự việc. Bố tôi bảo vừa có tin Hạm đội 7 của Mỹ đang ở ngoài khơi hải phận quốc tế Vũng tàu, nếu ra được đến hải phận chắc sẽ thoát, vì vậy trong ngày nay tất cả phải ra hết nhà bác Hương, còn bố sẽ ra sau vì không thể bỏ nhiệm sở ngay được. Vậy là mỗi đứa chúng tôi vơ vội vài bộ
quần áo lần lượt đi bộ ra building 12 tầng gần cầu Phan thanh Giản để đón xe đò đi Vũng tàu. Đến được Vũng tàu thì trời cũng vừa tối cả nhà tôi với mẹ là 11 người thêm hai người bạn của anh lớn là anh Ngô Cúc và Ngô Bổn nữa tổng cộng là 13 người đến nhà bác Hương. Bác là người thật tốt rất vui vẻ đón tiếp 13 người chúng tôi đến tá túc, nhưng căn nhà tôn của bác cũng nhỏ chật chỉ có chút khoảng sân phía sau thì chất đầy những lu hủ làm mắm tép để phơi nắng.
Mọi việc vẫn bình yên cho hết ngày 26-4, vẫn không thấy bố tôi ra. Ngày ấy điện thoại là một thứ gì hoàn toàn xa lạ không được phổ cập rộng rãi như bây giờ nên không biết làm sao để liên lạc với nhau. Vì vậy quá nóng lòng lo lắng sáng 27-4 mẹ bảo tôi con phải đi về Sài gòn gặp bố xem như thế nào. Tôi về đến nhà khoảng 11 giờ trưa ngày 27-4 không thấy bố tôi chạy vào cục ANQĐ thì gặp bố ở đó.
Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ như in gương mặt vui mừng của bố tôi lúc đó, vui mừng giống như thể vừa thấy lại được một thứ gì quý giá bị thất lạc từ lâu. Bố nói từ ngày mẹ và các con ra Vũng tàu bố ở luôn trong cục không về nhà, nói xong ông chở tôi đi ra xa lộ vào một cái quán cho ăn dĩa cơm, nhưng rất vội vã, hối hả tôi phải đi ngay ra lại Vũng tàu. Bố bảo nói với mẹ bằng mọi cách phải về lại Sài gòn ngay trong ngày hôm nay vì hạm đội 7 đã rời đi không còn ở Vũng tàu nữa, nếu không có đường bộ thì lấy đường tàu qua ngã Gò công về lại Sài gòn rồi bố sẽ xuống đón.
Tôi trở lại Vũng tàu là đã 4 giờ chiều, thuật lại những lời bố dặn cho mẹ nghe, nhưng khi ấy mấy người con trai và 2 người bạn đang còn ở dưới thị xã Vũng tàu chưa về, mẹ bảo phải chờ đủ mọi người rồi sẽ về luôn. Thế rồi một điều thật không may khi các anh trai rời khỏi chuyến xe đò từ Thị xã về cũng là chuyến xe cuối cùng trong ngày mà chúng tôi không hề hay biết, nên tất cả cũng xách túm quần áo ra trước cửa nhà bác Hương đứng chờ xe cho đến tối mịt không còn một chuyến xe nào nữa mới kéo nhau vào lại nhà bác. Mỗi đứa tìm một góc nhà ngồi bó gối không biết làm gì cho đến khi đi ngủ, phần con cái leo nheo lóc nhóc mẹ bảo thôi thì cũng phải đợi đến sáng ngày mai mới về được chứ biết làm sao.
Buổi tối định mệnh đã an bài. Đến khoảng 8-9 giờ tối đang thiu thiu thì có một tiếng nổ long trời lở đất rồi tiếp theo là tiếng súng lớn nhỏ, tiếng đại bác, tiếng đạn réo rít vèo vèo sáng cả một vùng trời. Không ai biết chuyện gì đang xảy ra, đang còn hoang mang vô độ thì cả nhà bác Hương đều đồng loạt cất tiếng đọc kinh Chúa thật to, đọc to hối hả như là sắp chết đến nơi càng làm cho chúng tôi co rúm sợ hãi tăng lên. Tiếng súng đạn cứ thế vang rền cho đến nửa đêm rồi mới thưa thớt dần cho đến gần sáng, không ai còn dám ngủ, thỉnh thoảng cứ vén màn cửa nhìn ra ngoài đường hoàn toàn vắng lặng chỉ có tiếng súng giao tranh vẫn nổ dòn không dứt. Mọi người vẫn còn kinh hãi không dám ra khỏi nhà, nhưng tin tức đã biết được đêm qua cây cầu Cỏ May con đường huyết mạch từ Sài gòn đến Vũng tàu đã bị giật sập mà sau này mới biết là do quân đội VNCH đánh sập để chận đường tiến công của CS. Cây cầu này cách không xa với nhà bác Hương nên tiếng nổ chát chúa nghe rất gần, khủng khiếp. Đến đây cuộc đời coi như kết thúc cùng với chiếc cầu vừa sập khép lại hoàn toàn những tháng ngày bình yên trong phút chốc.
Sáng hôm sau ngày 28-4 cảm giác hụt hẫng hoang mang cùng tột khi đứng trước một hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan vô định. Một miền Nam đã mất vào tay CS, một con đường xuống tàu đánh cá của bác Hương để đi đâu trong khi không có bố, không biết bố có còn ở Sài gòn hay không? Cầu Cỏ may thì đã bị sập, giao thông gián đoạn, mọi thứ đang hỗn loạn xảy ra có nên về lại Sài gòn? Nhưng rồi cuối cùng mẹ tôi cũng phải quyết định đưa các con xuống tàu đánh cá của Bác Hương, cho dù cũng vẫn chưa biết là đi hay ở. Chiếc tàu đánh cá của bác không lớn lắm nhưng cũng vừa đủ cho gia đình tôi và vài người trong nhà bác.
Tất cả chúng tôi theo bác đi ra Bến đá là nơi neo đậu của rất nhiều chiếc tàu, mới chứng kiến một sự hoảng loạn khủng khiếp ở nơi đây. Người người hối hả vội vã kêu réo nhau dùng dằng khóc lóc, đủ mọi thứ âm thanh trong khi những chiếc tàu lớn nhỏ cứ lần lượt rời khỏi bến bãi ra khơi như trốn chạy nhưng vẫn không đi xa, cứ neo đậu ngoài khơi túm tụm lại với nhau để nghe ngóng tình hình vì lúc đó Vũng tàu vẫn chưa bi thất thủ. Trong tình trạng rối loạn bất an đó bác Hương suy nghĩ và quyết định quay lại vào bờ. Bác nói với mẹ tôi nếu chị vẫn muốn đi em sẽ gởi gia đình sang tàu của ông Xã trưởng đây là người quen thân, tàu của bác ấy khá lớn và bác ấy thì cương quyết không ở lại với CS.
Ngày 29-4 đã 2 ngày lênh đênh trên tàu của bác Hương nên mấy đứa nhỏ ngã bệnh bị sốt cao ốm nặng, mà mấy người con trai thì vẫn còn đang ở Vũng tàu coi như nhà tôi chia làm ba ngã. Mẹ tôi nói bố thì không biết sống chết ra sao, mấy đứa con trai thì không có ở đây, mình đi đâu để làm gì, thế là chúng tôi cùng quay về lại với gia đình bác Hương, mẹ phải lấy cái áo màu trắng đưa bác Hương cột trước mũi ghe để xin vào bờ. Xem như ý tưởng vượt biên tháo chạy sớm nhất bất thành và thật đúng là chỉ có một đoạn đường không xa lắm, với cây cầu sập mà thay đổi hết cuộc đời của tất cả anh em chúng tôi.
Sáng hôm sau ngày 30-4 ở nhà bác Hương mẹ đưa cho tôi 500 đồng tiền có in hình Đức Trần Hưng Đạo rồi bảo tôi con đi về Sài gòn trước xem bố và nhà cửa thế nào, mẹ và mấy đứa sẽ về sau. Vậy là một mình tôi đón xe lam đi về hướng Sài gòn nhưng chỉ đến được cầu Cỏ may thì phải xuống ghe để qua bên kia bờ sông vì cầu đã sập. Những chiếc ghe nhỏ chòng chành trông thật dể sợ nhưng rồi tôi cũng phải bước xuống mới qua được bờ bên kia. Lên được bờ tôi thấy người ta ngào ngạt chen chúc lên những chiếc xe đò nhỏ chật cứng, có người leo cả trên mui xe mà tôi thì quá sợ hải không dám nên cứ đi bộ dài theo quốc lộ, hai bên đường khi đó cũng có rất nhiều người cũng lội bộ như tôi.
Trời tháng 5 đã vào mùa hè nên rất nóng, ở hai bên đường có nhiều gia đình tốt bụng để trước cửa nhà lu đựng nước với vài cái ly cho những người đi bộ có thể đỡ khát. Đi được một đoạn tôi thấy phía trước có một Sư cô cũng đang đi bộ, mừng quá tôi chạy vội lên hỏi thăm thì được biết cô đang đi cứu trợ ở trại tạm cư Vũng Tàu cho những người vừa di tản từ miền Trung vào. Nhưng bây giờ CS đã chiếm đóng Vũng tàu rồi nên cô về lại chùa ở Sài gòn. Thật là may mắn vô cùng cho tôi giữa lúc loạn ly phải đi bộ một mình lại gặp được qúy nhân nên cũng bớt sợ hãi. Đi được một lúc thì có mấy anh lính rã ngũ thuộc nhiều đơn vị khác nhau, người thì về miền trung, người thì về Ba xuyên Sóc trăng Cần thơ. Thấy hai cô cháu đang đi cũng xin gia nhập luôn, tổng cộng có 5 anh lính với chúng tôi nữa là 7 người.
Trong lúc đi bộ cũng có những chiếc xe đò lớn nhỏ chạy ngang qua nhưng thấy người ta vẫn đu đeo chật cứng, leo cả lên mui quá nguy hiểm nên chúng tôi cứ tiếp tục đi như vậy. Thế rồi đoàn người đi bộ hai bên đường cũng thưa dần, cho đến gần trưa đi ngang một ngôi chùa thì sư cô vào xin cơm cho cả đoàn ăn rồi lại tiếp tục đi. Càng đi đường càng vắng thưa thớt người cho đến cây số 75 thuộc Huyện Long thành thì trời đã sụp tối. Sư cô vào một nhà bên đường có sân trước rộng rãi để xin tá túc qua đêm. Thật sự cũng may mắn gặp được người tốt bụng, họ cho 2 cô cháu vào trong nhà nghỉ còn các anh lính thì trải chiếu nằm ngoài sân. Đến khoảng 4 giờ sáng sư cô gọi mọi người dậy từ giã và cám ơn chủ nhà để tiếp tục đi sớm cho mát.
Đến 9 giờ sáng thì chúng tôi đến được chợ Long thành, khi tới ngang Tịnh xá Ngọc thành sư cô bảo, đến đây chúng ta có thể chia tay rồi nhé cô vào chùa đây có người bạn ngày mai cô mới về Sài gòn, con với mấy anh vào bến xe mua vé rồi về nhà đi. Tôi cám ơn cô không ngớt và cho đến hôm nay tôi vẫn không thể hiểu được vì sao tôi có được may mắn giữa đường đi trong thời ly loạn lại có người giúp đỡ như vậy. Quả đúng là một duyên lành như lời dạy của Đức Phật.
Tôi đón một chuyến xe nhỏ đi về hướng Ngã ba Vũng tàu nơi giao lộ với quốc lộ I, trục lộ chính đi ra miền Trung, vì lúc đó vẫn không có xe đi thẳng về Sài gòn. Đến Ngã ba Vũng Tàu mới có nhiều chuyến xe về Sài gòn, cuối cùng tôi lên được chiếc xe Dhasu loại xe đò nhỏ lúc bấy giờ. Khi ngồi yên được trên xe rồi, tôi mới thật sự hoàn hồn vì không thể tưởng được mới chỉ vài ngày qua như trong một giấc mơ kinh hãi mà hôm nay mình đang được về nhà.
Sau một lúc tĩnh tâm tôi mới quan sát hai bên đường, đầy dẫy là rác rến sau những trận giao tranh đủ thứ đủ loại áo quần lính tráng giày dép mũ nón vất bừa bãi. Đến khi xe qua cầu Sài gòn tôi còn nhìn thấy rõ những đôi giày lính còn nguyên cả cẳng chân của người lính VNCH nằm trơ trọi trên dạ cầu. Thật là cảnh tượng khủng khiếp khó quên.
Khi tôi về nhà lần đầu ngày 27-4 trước cổng cư xá vẫn còn người lính ngồi canh gác nhưng hôm nay ngày 1-5 thì hai cánh cổng sắt đã mở toang, lúc này trời cũng đã quá trưa. Cửa nhà tôi không còn khóa chỉ khép hờ, có lẽ những người sinh sống bên ngoài đã vào đây tìm tài sản của những căn nhà đóng cửa bỏ đi như gia đình chúng tôi. Tôi đẩy cửa bước vào con chó berger tên Lucky vẫn ở trong nhà nhưng ốm đói đã hơn 1 tuần, không ăn uống tắm rửa, nó thấy tôi chỉ ngoắc đuôi mà không đứng dậy nổi. Nhìn lên bờ tường nhà nơi nó nằm những con ve chó to như những hạt đậu đen bò đầy trên đó thật là khiếp đảm.
Ra đến phía sau nhà thật không thể hình dung được căn nhà của mình chỉ mới vài hôm trước đây thôi mà bây giờ một núi rác trước sân, một đống rác to lớn giữa nhà bừa bãi, tất cả mọi thứ đều bị xáo tung. Rác rến phần lớn là những vật dụng liên quan đến chế độ cũ, người ta sợ hãi và quăng hết mọi thứ ra đường như thể muốn dấu đi quá khứ của mình. Nhưng rồi chỉ một thời gian sau khi nhà nước CS bắt đi kinh tế mới thì những thứ vất đi đó lại được người ta tìm kiếm mua để mặc đi rẫy, đi ruộng cày cuốc vì sự tốt và bền của nó.
Đến chiều tối cùng ngày 1-5 tôi biết tin mẹ và các anh em cũng đã về đến SG nhưng không ai dám về lại khu cư xá, mà đến nhà Thím Khản ở số 82 đường Yên Đỗ tá túc. Chỉ có một mình tôi ở lại nhà không tiền bạc, chỉ nấu cơm rồi ăn với nước mắm và ít rau lang mọc dại sau tường nhà để suốt ngày dọn dẹp lại nhà cửa. Một tuần sau thì Đức đứa em trai không muốn ở nhà thím nữa, cũng về lại cư xá, 2 chị em tiếp tục ăn cơm nước mắm với rau lang.
Đúng 2 tuần sau mẹ và các anh em cũng không muốn ở nhà thím nữa vì quá chật chội và ngại phiền, nhưng mẹ tôi vẫn không dám về lại nhà vì sợ đây là cư xá ANQĐ, mà dọn đến nhà bác Quán ở Gò vấp. Đó là căn nhà mà phía trước bán nước đá còn phía sau thì bác nuôi heo, trên lầu để trống nên cho nhà tôi ở tạm. Nhưng chỉ 2 ngày sau không thể chịu nổi mùi hôi của heo, mẹ tôi bảo thôi thì có chết cũng về lại nhà mình chứ ở đây khổ quá. Như vậy là sau 3 tuần lễ lang thang kể từ ngày 25-4 gia đình tôi mới đoàn tụ lại một nhà nhưng không còn ông bố nữa. Mọi thứ bắt đầu lại với 2 bàn tay trắng.
Nói về cái quán Phở Phước Thủy, có anh Long ở gần quán gia đình nghèo đông con chỉ sống bằng nghề sửa xe không có nhà cửa, nên khi quyết định không thể sống chung với CS thì bố mẹ tôi đưa cho anh chìa khoá của cái quán và dặn rằng khi nào chúng tôi đi được trót lọt thì xem như chúng tôi tặng anh cái nhà này, còn nếu đi không được trở về thì sẽ lấy quán lại. Anh mừng rỡ rối rít và hứa con sẽ giữ nhà cho bác như lời bác dặn. Thế nhưng chỉ ngày hôm sau nghe mấy người hàng xóm kể lại anh đã mở toang cửa gọi người đến bán tất cả mọi thứ trong quán rồi dọn nhà vào ở luôn. Đến khi mẹ tôi quay lại quán Phước thủy thì mới biết chẳng còn gì cả, đồ đạc vật dụng bán phở chẳng những không còn mà con cái anh đã ở đầy trong đó. Anh chỉ biết khóc lóc xin lỗi và đưa cho mẹ tôi đúng 1 cây vàng, xem như con đường sinh sống bán buôn của gia đình chúng tôi cũng đã bị chặt đứt.
Sau khi về lại ổn định tại nhà 1k/2C, mọi thứ đã thay đổi, tôi cũng không còn trở lại giảng đường mà bắt đầu cho cuộc chiến sinh tồn khi phương tiện sống không còn, không còn đồng lương lính ít ỏi của bố tôi nữa, lại buồn lo không biết bố tôi sống chết thế nào. Cả hai mặt áp lực tinh thần lẫn vật chất cộng thêm nỗi sợ hãi gia đình mình là ngụy quân nữa thật sự là khủng khiếp. Không những vậy chính quyền CS bắt đầu hình thành tổ chức có đội ngũ Phường, Khóm, có Thanh niên, Phụ nữ có công an để đưa cán bộ đến từng nhà kêu gọi hồi hương hay đi kinh tế mới theo chủ trương dãn dân ra khỏi thành phố của nhà nước.
Biết mình là thành phần ngụy quân ngụy quyền không thể chống đối nên mẹ tôi cũng rất lo lắng, nhưng vì chúng tôi không có quê hương để hồi hương mà đi kinh tế mới theo nhà nước thì những đứa con như chúng tôi chỉ biết cầm viết làm sao cầm cuốc để sống. Quá mệt mỏi nhức đầu thêm sợ hãi mỗi ngày khi phải gặp cán bộ phường đến nhà vận động, nên mẹ tôi quyết định xin đi kinh tế mới tự túc, tự làm tự sống miễn sao ra khỏi thành phố theo đúng chủ trương của nhà nước.
Cũng may có người quen là gia đình bác Phụng ở Ấp Mới cây số 71 Long thành đã có nhà từ trước năm 1975 nhà bác ở Phước tường Đà nẵngđi theo chương trình di dân khẩn hoang lập ấp của ông Phan Quang Đán lúc bấy giờ là Quốc vụ khanh đặc trách về khẩn hoang lập ấp xây dựng. Hầu hết vào đây là những người miền Trung được cấp đất, cấp vật liệu làm nhà, mỗi gia đình được 1 lô đất 1000 m2.
Đúng vào đầu mùa mưa tháng 6 mẹ tôi đi Long thành mua một miếng đất rồi chia gia đình làm hai, một nửa ở lại giữ nhà SG là tôi để trông mấy đúa nhỏ là Dũng Thắng Phượng, một nửa con lớn hơn là Cường Đức Hương Lan và cậu út Lộc nhỏ phải theo mẹ đi Long Thành. Riêng anh cả Phú cho đến khi Bộ tài chánh bị giải thể thì anh cũng về Long thành cuốc đất phụ với mẹ và mấy đứa em luôn.
Tôi là người duy nhất trong nhà không phải ra rẫy cầm cuốc là vì được phân công ở lại SG giữ nhà và trông em. Khi đó chính quyền bắt đầu cũng cố quyền lực, quy hoạch chỗ chúng tôi ở là Khóm 1 thuộc Phường 7 Quận 1, rồi cho anh Chín thợ may ít học làm Khóm trưởng. Thành lập đội hình Thanh niên, Phụ nữ, vào từng nhà vừa kêu gọi vừa răn đe để mọi người phải gia nhập sinh hoạt. Không thể lẫn tránh vì mình đang ở trong khu ANQĐ, nên ban đầu tôi vào Chi đội Thanh niên Khóm 1, rồi sang làm Phó Ban-thông tin văn hóa. Nhưng sau đó có chị Huỳnh Trang bên Hội Phụ Nữ lại xin cho tôi về sinh hoạt bên Phụ nữ. Chị là cán bộ đảng viên nằm vùng, kết hôn với anh Kiệt là cháu gọi HT Thích Trí Thủ là cậu ruột.
Chị rất quý mến tôi nên cố tình muốn đưa tôi vào làm việc chính thức, trước tiên là để có quyền lợi. Vào làm việc với Hội Phụ nữ tôi là Thư ký của Chi hội Phụ nữ Khóm 1 nên thường xuyên đi họp ở Quận hội, Thành hội Phụ nữ. Chính vì vậy chị bảo tôi em phải làm sơ yếu lý lịch để được xét duyệt mới có quyền lợi. Thật sự chẳng đặng đừng không thể từ chối tôi phải viết đến 3-4 lần sơ yếu lý lịch nhưng khi đến mục của cha tôi đều ghi rõ là bố mất tích. Cuối cùng chị bảo thôi lý lịch của em để chị ghi cho chứ bị từ chối hoài mà chị thì rất muốn em ở lại làm việc.
Đang lúc còn làm việc trong Hội phụ nữ vào khoảng 9 giờ tối ngày 21-9-1975 tôi bị gọi lên Phường tập trung mang theo ít quần áo và đồ dùng cá nhân. Ngơ ngác không hiểu chuyện gì nhưng vẫn phải đi, tôi được xe đưa đến Công an Phường 7 trên đường Đinh tiên Hoàng. Ở đó tôi thấy có rất nhiều người cũng đang ngơ ngác như tôi, một lát sau thì được sắp xếp chỗ mỗi người một manh chiếu tạm nghỉ, mà rồi cũng không ai đoán biết được chuyện gì.
Vài tiếng đồng hồ sau lúc 2 giờ sáng ngày 22-9- loa đài phát thanh khắp nơi thông báo giới nghiêm và lệnh đổi tiền chỉ trong vòng 12 tiếng đồng hồ. Mỗi gia đình có tiền VNCH 100.000$ được quy đổi thành 200 đồng, số còn dư cũng chỉ được ký gởi 100.000$ vào ngân hàng của Chính phủ lâm thời cộng hoà MNVN.
Cuối năm 1976 họ cho phép ai có tiền gởi được rút ra mỗi tháng là 30 đồng, sau đó thì tất cả tài khoản bị khoá không còn rút được một đồng nào nữa, coi như nhà nước cướp luôn. Lúc đó nhà tôi cũng chỉ đổi được vỏn vẹn 200 đồng đúng như quy định. Sau ngày đổi tiền nhiều gia đình giàu có, bán buôn ở Chợ lớn uất ức tự tử chết rất nhiều. Tiếp theo nhà nước mở những trận đánh tư sản mại bản tịch thu đồ đạc tiền vàng còn sót lại của những người giàu có để cho mọi người đều trở thành vô sản như nhau. Đến năm 1985 lại thêm một lần đổi tiền nữa, nhưng lần này nhà nước không dấu được mọi người đều biết trước nên ai có tiền đều đem mua hàng hóa hết chứ không giữ tiền nhiều.
Sau khi viết những tờ lý lịch thấy không xong mà cứ phải đi làm không công, tôi xin nghỉ việc lấy lý do về phụ giúp gia đình ở kinh tế mới Long thành. Vậy mà sau khi tôi không làm việc nữa thì công an Khóm nghi ngờ, đột ngột đến khám xét nhà người bạn là hai chị em Loan và Hợp trong lúc tôi đang ở đó để chào từ giã ngày mai tôi về Long thành. Điều đặc biệt 2 người bạn này cũng là bạn thân thiết với gia đình anh Kiệt chị Trang, họ cũng ngạc nhiên còn tôi thì quá sốc và cũng thật sự không hiểu nỗi CS nó dễ sợ đến như vậy.
Thật ra quá chán ngán với chế độ, tôi bỏ về Long thành chỉ là cái cớ, vài hôm sau mang một ít khoai sắn tôi về lại SG tiếp tục trông em. Rồi cùng với mấy chị hàng xóm là chị Sáu, chị Tùng cũng ở trong cư xá là những chị có chồng đi học tập cải tạo, không có tiền nuôi con nên mỗi khi được chính quyền phát những tem phiếu mua hàng giá rẻ phải đem bán lại cho con buôn chợ đen kiếm chút đồng tiền chênh lệch mua bột mì bo bo để sống qua ngày, đó là thời kỳ bao cấp cấp của chế độ.
Với chủ trương ngăn sông cấm chợ để người dân phải bỏ thành phố, công an lập các chốt chặn cửa ngõ đi vào thành phố nhất là suốt khu vực từ hướng miền Tây về thành phố, vì vậy một kí lô gạo, một kí lô thịt heo cũng bị tịch thu sạch. Ngày ấy dân chúng gọi đám công an này là ăn cướp có giấy phép công khai giữa ban ngày, làm cho hàng hoá thực phẩm ở các tỉnh thành thì rẻ mạt mà về đến thành phố thì cao gấp 10 lần, nhất là các loại lương thực chính như gạo thịt dầu mỡ hột gà hột vịt…
Chỉ cần trót lọt vài ký gạo, vài ký thịt là trừ đưọc tiền xe và có tiền sống qua ngày. Tôi và các chị có
chồng đi cải tạo cứ vài ngày đi một chuyến về miền Tây tìm cách lén lút dấu diếm gạo thịt dưói áo quần đồ đạc, thậm chí dấu bên dưới các bịch khô, bịch mắm…ngụy trang mong sao thoát hiểm qua trạm kiểm soát để có tiền sống. Khổ nỗi dọc đường không phải một trạm kiểm soát mà rất nhiều trạm ở mỗi địa phương xe đi qua họ được phép có toàn quyền mở trạm để tịch thu, cho nên thoát được cũng không phải dễ, vì vậy có ngày chúng tôi cũng bị trút sạch mất cả chì lẫn chài.
Mẹ và các anh em tôi sau khi đi làm nương rẫy kinh tế mới ở Long thành được 2 mùa mưa thì không thể chịu đựng nỗi mùa khô hạn nơi đây. Suốt 6 tháng không có mưa không thể trồng trọt, còn nước giếng sử dụng thì sâu đến vài chục mét. Mẹ tôi lại dẫn các con đi về hướng Phương lâm có bác Bi là người quen ở đó. Vùng này mưa nhiều có thể đỡ vất vả hơn, nhưng rồi thấy cũng không xong mẹ lại dẫn cả nhà đi về miền Tây vì nghĩ rằng nơi đây lúa gạo nhiều các con sẽ không sợ bị đói.
Về miền Tây mẹ tôi có tên là chị Hai đi cấy thuê cho nhà ông Năm Thế, Dũng là đứa em nhỏ thì đi giữ em cho cô Hà chủ một tiệm tạp hóa ở chợ Vị thủy. Mẹ tôi vốn là người phụ nữ chịu khó, nhanh nhảu lại nấu ăn rất ngon nên mỗi chiều sau khi cấy xong về nhà ông Năm Thế để lấy tiền công. Thấy mấy người đàn ông đang ngồi nhậu thì đề nghị vào làm đồ mồi nhậu cho họ. Chỉ một lần thôi từ đó mẹ tôi phụ trách thêm làm món nhậu lai rai mỗi buổi chiều cho họ và được khen là chị Hai làm mồi số zách. Thật ra sau khi nấu ăn cho họ xong mẹ tôi lại được đùm gói một ít mang về cho các con.
Đến khoảng giữa năm 1977 niềm vui thật sự vỡ òa khi biết được tin tức về bố tôi. Lá thư được gởi qua Pháp rồi từ Pháp mới gởi về VN qua nhà Thím Khản, cho nên thư đi cũng khá lâu mới đến. Lý do là vì bố tôi sợ liên lụy cho gia đinh nếu chính quyền CS biết được có cha ở Mỹ, để rồi từ đó tất cả thư gởi về bố luôn ghi đầu dòng là chị và các cháu thương nhớ và xưng là cậu. Đến đây thì bao nhiêu gian lao khổ cực đã qua, đã được bù đắp bằng cái tin bố tôi còn sống và đang ở Mỹ. Thật sự vô cùng sung sướng và hạnh phúc, sáng hôm sau mẹ tôi bỏ hẳn miền Tây dẫn hết lũ con về lại SG không còn thương tiếc lo âu gì nữa.
Từ đó bắt đầu chấm dứt cuộc đời đi lang thang kiếm sống để chờ ngày bố tôi bảo lãnh. Khi bang giao, tin tức đã trở nên thuận tiện thì đến ngày 12-7 năm 1984 đúng vào ngày sinh nhật của bố tôi, mẹ và các đứa em chính thức được đoàn tụ cùng bố tại Thành phố Chicago, Ilinois như một giấc mơ.
Cũng may nhờ bố tôi thoát được đi Mỹ một cách hy hữu trên con tàu Trường xuân ở Bến Bạch đằng, mà chúng tôi mới có được cuộc sống như ngày hôm nay, các con các cháu cũng phải biết ơn ông bà nội ngoại là vậy.
Sau khi bố mất tôi có dịp đến thăm bác Châu ở Boston, người cùng đi chung chuyến tàu Trường xuân với bố tôi. Lúc này bác cũng đã yếu nhưng vẫn sáng suốt kể cho tôi nghe câu chuyện, khi con tàu Trường xuân cặp cảng Hồng Kông, bố tôi chạy khắp khu trại tạm cư với hy vọng gặp lại chúng tôi. Nhưng tìm mãi không thấy, bố quay lại nói với bác Châu, cả nhà tôi bị kẹt lại hết rồi, nói xong ông ngồi khóc.
Giờ đây bố mẹ tôi không còn nữa nhưng chúng tôi vẫn luôn tự hào về lối sống đạo đức về cách xử thế cũng như về tâm thiện lành của bố mẹ tôi như một tấm gương sáng mà chúng tôi không bao giờ quên. Ngoài ra còn cho chúng tôi nhìn thấy rõ những phước lành khi cả bố và mẹ tôi rời khỏi thế giới này hoàn toàn trong nhẹ nhàng, bình yên, thanh thản. Điều này càng tiếp thêm sức mạnh niềm tin cho chúng tôi vào lời dạy của Đức Phật, khi có tâm thiện lành thì nghiệp thiện lành sẽ đến.
Hôm nay 50 năm trôi qua mới thấy được rằng quả thật mỗi cuộc đời con người luôn phải trải qua những chặng đường đời thăng trầm, chông gai, tuy có sai khác, không giống nhau nhưng nhìn lại may mắn cuối cùng của anh em chúng tôi dù đang bước dần vào cái tuổi “Thất thập cổ lai hy” nhưng tất cả đều được bình yên, khoẻ mạnh, an vui. Đó mới thật sự là phước lành cho đời người ở buổi xế chiều.
Con người có lúc đầu đời vinh hoa, cuối đời lận đận, có người lúc bình minh vất vả về chiều lại được an yên, cũng có người sung sướng cả đời nhưng cũng có người khổ cực cho đến khi nhắm mắt. Tất cả những điều đó đều do nghiệp duyên phước đức của mỗi chúng sinh mà có sự sai biệt khác nhau. Đức Phật đã dạy như vậy. Khi sinh ra và lớn lên con người luôn đi tìm hạnh phúc với vật chất bạc tiền, với lợi danh, quyền lực… mà quên mất rằng cuối cùng cũng phải quay trở về với con số không nguyên thủy lúc ban đầu.
California 21. 4. 2025
(Kỷ niệm 50 năm mất Sài gòn, 33 năm ở Mỹ)
NAM PHƯƠNG