NGHIÊN CỨU VÀ PHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
MA HA CHỈ QUÁN
PHÁP MÔN VIÊN ĐỐN
(The Great Calming and Contemplation)
THIÊN THAI TRÍ KHẢI
Neal Donner & Daniel B. Stevenson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ
Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2009
Hiển Đại Quả
[20a24]
Trong phẩm ba chúng ta giải thích làm cách nào Chỉ và Quán
được thuyết nhằm mục đích chiếu soi sự thanh tịnh và
quả báo (kuo-pao) (1) [mục tiêu chân chính] của Bồ Tát. Nếu
sự thực hành xa lìa trung đạo (2), [Bồ Tát] sẽ chứng nghiệm
quả hoặc báo từ hai cực đoan [luân hồi và Niết Bàn]; nếu
sự thực hành thuận theo trung đạo, chư vị sẽ chứng đắc
được kết quả vi diệu. Dù họ không sinh ra trong lục đạo
[luân hồi] (3), hoa quả báo [mà họ có được trong đời nầy](4)
sẽ trổ ở cõi bảy phương tiện [trên đất Phật](5). Cõi
thực báo (6) lại càng vi diệu hơn. Cõi nước Nhất Thiết
Hương, với bảy tầng lớp và những chiếc cầu bắc ngang
như tranh vẽ, là hình ảnh của cõi Phật nầy (7). Phần nầy
sẽ được nói chi tiết trong đại phẩm VIII (8).
Vấn:
{‘Thứ Đệ Thiền Môn’ cũng giải thích về ‘tu chứng’(hsiu-cheng)
(9), tương hợp như thế nào với những điều được nói
đến ở đây?}.
Đáp:
{Trong ‘Thứ Đệ Thiền Môn, ‘tu’ chỉ cho những giới luật
hằng ngày, và ‘Chứng’ có nghĩa là chứng nghiệm [kết
quả] dưới hình thức hiển lộ. Lại nữa, ‘tu’ ở điểm
nầy là ‘tập nhân’ (hsi-yin), và ‘chứng’ là ‘tập quả’
(hsi-kuo) (10). Cả hai đều có thể chứng được trong đời
nầy. Tuy nhiên, kết quả nói đến [trong phẩm nầy] ứng vào
kiếp vị lai. Về mặt ‘chứng’ có khác trong ‘Thứ Đệ
Thiền Môn’. Nhị Thừa chỉ có ‘tập quả’ trong kiếp
hiện tại, mà không có quả báo trong kiếp vị lai; nhưng Đại
Thừa thì có cả hai}.
Tham Khảo
1 Hai
chữ ‘kuo-pao’ dịch là ‘quả’ hoặc ‘báo’ có thể
chỉ cho kết quả hổ tương hoặc nghiệp quả (tức báo) cũng
như sự kết trái từ đường lối thực hành (tức quả).
Trong phẩm nầy, hai chữ trên mang nghĩa thứ hai, tức quả
vị Bồ Đề. Như Chan-jan (T46.214c20-21) nói: {Quả hoặc báo
có nghĩa rằng quả đến dưới hình thức báo. [Thí dụ],
nếu có người diệt vô minh, người ấy chứng đắc vô-sinh-pháp-nhẫn
(anutpatika-dharma-ksanti)}.
2
Chan-jan (T46.214c7-8) nói: {‘Xa lìa trung đạo’ chỉ có nghĩa
rằng [Bồ Tát] chưa diệt được hết vô minh và chưa chứng
đắc trung đạo đế. Trụ trong pháp thân từ sơ trụ đến
thập trụ tức ‘thuận’ [theo trung đạo]. Chỗ nầy có nghĩa
rằng Bồ Tát chưa vào được quả vị chính của thập trụ
hoặc phần-chứng-tức trên đường đi của Viên giáo}.
3
‘Phần đoạn sinh tử’ (fen-tuan-sheng-ssu) mô tả vòng tái
sinh trong sáu cõi (tức tam giới) của phàm phu. Các cõi nầy
trái với các cõi siêu luân hồi, hóa sinh vào cõi tịnh (tức
A na hàm hoặc A la hán) hoặc đi vào luân hồi như một Bồ
Tát đã giác ngộ muốn cứu độ chúng sinh.
4 Kinh Niết Bàn (T12.717a) phân biệt giữa quả báo trong kiếp nầy (như hoa) và quả báo kiếp sắp đến (như quả). Đại Trí Độ Luận (T25.140c), mặt khác, gọi quả báo an lạc trong kiếp nầy và kiếp sau là ‘bóng cây’, quả vị Thanh Văn và Duyên Giác là ‘hoa’, và quả Phật là ‘quả’. Ở đây bản văn theo kinh Niết Bàn.
5 Cõi nước Phật và cõi ‘Bảy Phương Tiện’ là cõi thấp nhất thứ hai trong bốn cõi được Trí Khải phân biệt. (Đọc Maha Chỉ Quán, phẩm I, ghi chú 108). Bốn cõi gồm có: Phàm Thánh Đồng Cư Độ, Phương Tiện Hữu Dư Độ, Thực Báo Vô Ngại Độ, và Thường Tịch Quang Độ. Tất cả bốn cõi đều gọi là Phật độ vì Phật vào tất cả những cõi nầy để thuyết pháp cho chúng sinh và hướng chúng sinh về chỗ giác ngộ.
Đối với cõi ‘Bảy Phương Tiện’, hai chữ ‘phương tiện’ chỉ cho bảy loại chúng sinh đến được cõi nầy, không qua phương pháp hoặc cách thức của thế gian. Theo Chan-jan (T46.215a 12-13) con số bảy chỉ cho Người, Trời, Thanh Văn, Duyên Giác của Nhị Thừa, Bồ Tát Thông giáo, Biệt giáo, và Viên giáo là những vị chưa hoàn toàn chứng ngộ trung đạo. Cõi Thực Báo Vô Ngại Độ thứ ba- chỉ có Bồ Tát bắt đầu diệt được vô minh và chứng được nghĩa trung đạo (tức Thập Địa của Biệt giáo hoặc Thập Trụ Phần-Chứng-Tức của chân Viên giáo). Cõi thứ tư là mật tạng của tất cả chư Phật. Chan-jan (T46.214c3 và 214c17) nói rằng cõi Phật được các hành giả Viên Đốn Chỉ và Quán nầy chứng đắc là cõi thứ ba, Thực Báo Vô Ngại Độ.
6 Theo kinh Niết Bàn, cõi nầy có nghĩa là quả báo kiếp vị lai. Chan-jan (T46.214c21-23) và Kogi (2.82) đồng ý rằng quả báo nầy ở quốc độ thứ ba.
7 Từ câu chuyện nổi tiếng của Bồ Tát Dharmodgata và học trò là Sadapralapa (Thường Khóc) trong Pancavimsati. (Đọc Đại Trí Độ Luận, T25.734a-b). Bồ Tát Dharmodgata ở trong thành Nhất Thiết Hương (Sarvagandha). Ngài Sadapralapa khó nhọc tìm đến nơi để được nghe pháp. Cõi nước trong kinh mô tả có bảy lớp ‘đẹp như tranh vẽ’ và mặt đất bằng phẳng, sạch sẽ.
8 Như chúng tôi đã nói trong phần giới thiệu, đại phẩm VIII (Quả hoặc Báo), phẩm IX (Giáo hóa chúng sinh), và phẩm X ( Chỉ Quy) đã không được hoàn thành vì những bài giảng của Trí Khải trong Maha Chỉ Quán dừng lại sau phẩm VII (Chánh Quán). Tiểu phẩm 3 về quả hoặc báo nầy là đại ý của đại phẩm VIII.
9 Phẩm 7 (tức năm phẩm sau cùng) của Thứ Đệ Thiền Môn (T46. 508a-548c) luận về tu chứng đối với pháp thiền thuộc thứ đệ tiệm tiến chỉ và quán. Như Maha Chỉ Quán, Thứ Đệ Thiền Môn cũng có thêm ba phẩm- (8) Quả Báo, (9) Giáo Hóa, và (10) Chỉ Quy- cũng không bao giờ được hoàn thành. Trong sự liên hệ với Thứ Đệ Thiền Môn, có người muốn biết tại sao đại sư thuyết về ‘tu chứng’ (phẩm 7) hơn là về ‘quả báo’ (phẩm 8).
10 Sabhaga-hetu và Nisyanda-phala hoặc ‘tập nhân’ và ‘tập quả’ mô tả những trường hợp các niệm thiện, ác, và vô ký; nối tiếp cái trước mà phát khởi cái sau. Pháp thiền quán trong Thứ Đệ Thiền Môn trình bày cùng phương thức đưa ra quả báo đặc thù. Như vậy trong [tiền] tu có thể thấy được [hậu] chứng, như ‘tập nhân’ và ‘tập quả’.