08. PHẨM TỨ Y THỨ TÁM
(Hán bộ trọn quyển thứ sáu)
Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp : Trong kinh Đại-Niết-Bàn
vi diệu nầy có bốn hạng người hay
hộ trì chánh pháp, kiến-lập
chánh pháp, ức-niệm
chánh pháp.
Thương xót và làm
lợi ích an lạc nhiều cho
thế gian và làm chỗ nương tựa cho
thế gian,
Một là bực
xuất thế đủ tánh
phiền não.
Hai là bực Tu-Đà-Hoàn và Tư-Đà-Hàm.
Ba là bực A-Na-Hàm.
Bốn là bực A-La-Hán.
Bốn hạng người trên đây
hiện ra nơi đời có thể
xót thương làm nhiều điều
lợi ích an-lạc cho
thế gian, cho trời, cho người, làm chỗ
y chỉ cho
thế gian.
Thế nào gọi là đủ tánh
phiền não ? Nếu có người hay phụng
trì giới cấm, đầy đủ
oai nghi,
kiến lập chánh pháp. Nghe hiểu
lời Phật dạy, rồi đem
phân biệt tuyên thuyết cho người khác. Chỗ gọi rằng
thiểu dục là đạo,
đa dục không phải đạo. Rộng giảng nói
tám điều giác ngộ của bực đại nhơn như vậy. Có ai
phạm tội thời chỉ bão cho
phát lồ sám hối để trừ tội. Khéo biết pháp
bí mật của Bồ-Tát
phương tiện ra làm. Hạng người nầy gọi là
phàm phu chớ không phải người bực thứ tám. Người bực thứ tám không phải
phàm phu gọi là Bồ-Tát, không gọi là Phật.
Hạng thứ hai là bực Tu-Đà-Hoàn và bực Tư-Đà-Hàm. Hạng nầy nếu được
chánh pháp thời
thọ trì chánh pháp.
Nghe pháp nơi Phật, đúng theo chỗ đã được nghe bèn biên chép thọ-trì
đọc tụng, rồi nói lại cho người khác. Không bao giờhạng người nầy
nghe pháp rồi mà không chép không thọ không nói, và cũng không bao giờ nói Phật cho chứa vật bất-tịnh như tôi tớ v.v…Hạng thứ hai đây chưa được bực thứ ba. Trụ nơi bực thứ ba gọi là Bồ-tát, đã được
thọ ký.
Hạng người thứ ba gọi là bực A-Na-Hàm. Bực nầy không có những việc
phỉ báng chánh pháp, cho chứa tôi tớ các vật bất-tịnh ,
thọ trì sách luận
ngoại đạo; cũng không bị
khách trần phiền não làm chướng, cựu
phiền não che ngăn; cũng không dấu chơn thiệt
xá lợi của Như-Lai; không bị bịnh ngoài làm
não hại, không bị bốn thứ
rắn độc xâm nhiễu mà luận nói là ngã. Thường nói lý vô-ngã. Không bao giờ nói
tham luyến thế pháp, mà thường nói pháp
đại thừa nối luôn không dứt.
Thân thể của vị nầy không có tám vạn hộ-trùng, đã lìa hẳn
dâm dục, nhẫn đến trong
giấc mộng chẳng chảy
bất tịnh. Lúc sắp chết không
sợ hãi. A-Na-Hàm nghĩa là gì ? Vị nầy không còn
trở lại, những sụ
lỗi lầm không làm nhơ nhớp được người, là bực Bồ-Tát đã được
thọ ký, sắp sẽ thành bực
vô thượng chánh giác. Đây gọi là
hạng thứ ba.
Hạng người thứ tư là bực A-La-Hán. Bực nầy dứt hẳn
phiền não,
giải thoát sanh tử,
việc làm đa õxong là Bồ-Tát trụ-địa thứ mười, đặng
trí huệ tự tại, có
thể hiện bất cứ
thân hình nào mà mọi loài
ưa thích. Muốn
thành Phật liền có thể được thành. Trọn nên
vô lượng công đức như vậy nên gọi là A-La-hán.
Trên đây là bốn hạng người
xuất hiện nơi đời,
xót thương người đời, đem nhiều
lợi ích an vui cho
thế gian, là chỗ
thế gian nương tựa, là bực rất tôn quý của
cõi trời cõi người, không khác gì đức Như-Lai.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn ! Nay con không nương tựa nơi bốn hạng người ấy. Vì rằng trong kinh Cù-Sư-La,
đức Phật từng bảo ông Xà-Sư-Lê : Nếu có
thiên ma vì muốn
phá hoại chánh pháp mà biến ra hình Phật, đủ cả tướng tốt oai nghiêm, cũng
viên quang, cũng
bạch hào, ông phải kiểm giảo là giả hay thật. Đã rõ là ma thời phải
hàng phục.
Bạch Thế-Tôn ! Bọn ma còn biến làm thân Phật được huống là thân của bốn hạng người trên với những
thần thông : Nằm ngồi giữa
hư không, nách bên tả tuôn nước, nách bên hữu
phun lửa, cả thân ra khói lửa v.v…
Vì lẽ ấy nên lời tuyên nói của các hạng người trên đây, lòng con không dám tin cùng bẩm thọ, con cũng không có
quan niệm kính mến để nương tựa theo.
Đức Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp !
Cho đến đối với
lời nói của Như-Lai mà có lòng
nghi ngờ còn không nên
thọ trì, huống là lời của các hạng người ấy. Vì thế nên phải khéo
phân biệt cho rõ là lành hay chẳng lành, nên làm hay chẳng nên làm. Được như vậy mới có kết quả
an lạc lâu dài. Nầy Ca-Diếp
Ví như con chó gian trộm, đêm tối
lén vào nhà người, người trong nhà nếu hay được phải liền la đuổi, chó ấy sợ bỏ đi không dám
trở lại.
Cũng thế , từ nay các ông phải theo cách ấy mà trị loài
thiên ma. Bảo
thiên ma rằng : Nầy Ba-tuần, nhà ngươi không được dối
hiện ra các
thân hình ấy, nếu còn hiện, ta sẽ dùng năm món
trói buộc để trói nhà ngươi. Ma nghe rồi sẽ bỏ đi không
trở lại phá nữa.
Ca-Diếp
bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn ! Như Phật vì ông Cù-Sư-La mà dạy rằng :
Nếu có thể hàng phục thiên ma như vậy thời cũng có thể được gần Đại-Niết-Bàn. Thế thời đức Như-Lai cần gì nói bốn hạng người trên đây là chỗ quy-y của
mọi người.
Lời nói của bốn hạng người trên đây chưa ắt
đáng tin.”
Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Như-Lai vì hàng Thanh-Văn
nhục nhãn mà nói là
hàng phục loài
thiên ma, chớ chẳng phải vì người
tu học đại thừa mà nói. Hàng Thanh-Văn dầu có
thiên nhãn, nhưng vẫn gọi là
nhục nhãn. Người
tu học đại-thừa dầu có
nhục nhãn nhưng gọi là
Phật nhãn. Vì
kinh điển đại-thừa gọi là Phật-thừa, là trên tất cả và hơn tất cả.
Nầy Ca-Diếp !
Ví như vị đại-kiện-sĩ khuyên bão những người nhút nhát theo mình rằng : Các ngươi phải học tập bắn cung múa kiếm như thế nầy, phải có dạn dỉ đừng khiếp sợ, xem ai cũng
yếu kém chỉ có mình là mạnh mẽ. Nếu có kẻ vốn hèn yếu giả là
lực sĩ mang cung đeo kiếm đến dọa nạt hò hét, ngươi chớ lo sợ, kẻ dối giả ấy thấy ngươi không có vẻ
kinh hãi tất sẽ tự rút lui không dám khuấy phá, như con chó gian trộm kia.
Nầy Ca-Diếp,
cũng thế, đức Như-Lai bảo hàng Thanh-Văn chớ sợ ma Ba-Tuần. Nếu ma Ba-Tuần
hiện hình Phật đến trước các ông, thời các ông phải
tinh tấn gìn
chánh niệm cho
vững chắc, ma kia tất lo sầu mà bõ đi.
Nầy Ca-Diếp ! Như vị đại kiện sĩ không bắt chước ai, người học Đại-Thừa cũng vậy. Khi được nghe các
kinh điển thâm-mật, lòng họ
vui thích không hề kinh sợ. Vì người
tu học Đại-Thừa ấy từ trước đã từng
cúng dường,
cung kính,
lễ bái vô-lượng muôn ức
đức Phật. Dầu có
vô số loài ma muốn đến phá khuấy, cũng không chút kinh sợ.
Ví như người được thuốc A-già-đà thời không sợ tất cả
rắn độc, và sức thuốc ấy cũng trừ được tất cả chất độc.
Kinh điển Đại-Thừa cũng vậy, không sợ tất cả loài ma độc mà lại có thể
hàng phục loài ma, không cho nó làm quấy.
Nầy Ca-Diếp !
Ví như loài
độc long lúc muốn hại ai, hoặc lấy mắt độc nhìn, hoặc dùng miệng hà hơi độc. Tất cả muông thú
sư tử, cọp, sói đều kinh sợ
độc long, nếu suông nhằm hơi độc thời đều bị hại. Có người giỏi
thần chú có thể
điều phục loài
độc long cùng các
ác thú, dùng làm con vật để cỡi. Cũng vậy, người học Đại-Thừa thấy hàng Thanh-Văn sợ những sự làm hại của ma Ba-Tuần, đối với pháp Đại-Thừa, không chịu tin, bèn dùng
phương tiện hàng phục loài ma trước, rồi nhơn đó rộng nói các môn diệu-pháp. Hàng Thanh-Văn kia thấy đã
hàng phục được loài ma nên hết sợ, mới có
lòng tin đối với
chánh pháp vô thượng của Đại-Thừa, và bảo nhau rằng : Từ nay trở đi, ở trong pháp Đại-Thừa
chúng ta chớ có làm
chướng ngại.
Nầy Ca-Diếp ! Hàng Thanh-Văn cùng Duyên-Giác rất sợ
phiền não. Người học Đại-Thừa đều không sợ
phiền não. Vì người học Đại-Thừa có oai lực như vậy, nên lời ta nói
thuở trước chính là để khuyến khích hàng Thanh-Văn cùng Duyên-Giác
điều phục các loài ma, chớ chẳng phải nói với người học Đaiï-Thừa.
Kinh điển vi diệu Đại-Niết-Bàn đây rất kỳ lạ, rất
đặc biệt. Nếu có người được nghe mà kính tin
thọ trì cùng
tin chắc Như-Lai là
pháp thường trụ thời người nầy rất là
hi hữu như hoa Ưu-Đàm. Sau khi Như-Lai vào Niết-bàn, nếu có người được nghe
kinh điển vi dịệu Đại-Thừa nầy mà sanh lòng kính tin, nên biết người nầy trăm ngàn
ức kiếp về sau không bị sa vào
ác đạo.
Nầy Ca-Diếp ! Sau khi ta vào Niết-bàn, sẽ có
vô lượng chúng sanh chẳng tin và chê bai
kinh điển vi diệu Đại-Niết-Bàn nầy.”
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn ! Sau khi
Phật diệt độ chừng bao lâu sẽ có hạng người chê bai ấy ? Và có bực thuần-thiện nào cứu vớt dược kẻ chê bai ấy chăng ?”.
Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Sau khi ta vào Niết-bàn
trong khoảng bốn mươi năm, kinh nầy sẽ được
lưu bố rộng trong cõi Diêm-Phù-Đề, rồi sau sẽ ẩn mất trong đất.
Nầy Ca-Diếp ! Như xứ nào có gạo thơm, mía, đường, sữa, đề-hồ, người xứ ấy tất cho các
thực phẩm ấy là món
ăn ngon nhứt. Nếu chốn nào mà người bổn xứ chỉ ăn ròng những gạo hẩm, hột cỏ, tất họ cũng sẽ cho món họ ăn là ngon nhứt, vì đây là những người
bạc phước,
nghiệp báo của họ khiến như vậy. Nếu là người có
phước đức lớn thì chỉ hưởng những
thực phẩm qúy : Cơm ngon, mía, đường, sữa, đề-hồ,
trọn đời nghe đến tên
cơm hẩm hột cỏ,
Cũng vậy, đối với
kinh điển vi diệu Đại-Niết-Bàn đây, hàng
nhị thừa độn căn bạc phướcChẳng ưa chẳng thích, còn người học
đại thừa thời kính tin
vui mừng khi đã
nghe được.
Nầy Ca-Diếp !
Ví như có một vị Quốc-vương
ở trong núi hiểm trở, dầu có mía, đường, gạo nếp, nhưng vì khan hiếm nên không dám ăn, cứ lo chứa cất,
ma chỉ ăn những rau cỏ. Vua nước láng giềng nghe biết vừa thương vừa cười, bèn cho xe chở gạo, nếp, mía, đường sang biếu tặng. Quốc-vương được tặng phẩm liền phân phát cho nhơn dân cả nước cùng ăn. Nhơn dân được ăn đều
vui mừng và nói rằng nhờ vua láng giềng mà
chúng ta được món ăn rất ngon lạ.
Nầy Ca-Diếp ! Bốn hạng người y-chỉ trên đây cũng vậy, là
đại tướng của pháp Đại-thừa
vô thượng. Trong bốn hạng người nầy, hoặc có một người thấy xứ khác có vô-lượng Bồ-Tát dầu học
kinh điển Đại-thừa, hoặc biên chép, hoặc khuyên bão người biên chép, nhưng vì
lợi dưỡng, vì danh vị, vì tự-độ, vì y-chỉ, nên đem đổi các
kinh điển khác, mà không đem pháp Đại-thừa tuyên dạy cho
mọi người, bèn đem kinh Đại-Niết-Bàn gởi tặng cho các vị Bồ-tát ấy, cho các vị nầy
phát tâm và an trụnơi đạo Bồ-đề vô-thượng. Vị Bồ-Tát ấy khi được kinh nầy rồi, liền đem tuyên dạy lại
mọi người, làm cho
vô lượng chúng sanh đặng
lãnh thọ pháp vị Đại-thừa,
mọi người đều nhờ nơi sức của một vị Bồ-Tát nầy mà được nghe thứ kinh
vi diệu chưa từng nghe. Như nhơn dân trong nước kia, nhờ sức vua mà được hưởng các
thức ăn ngon lạ.
Nầy Ca-Diếp ! Phàm chỗ nào có
kinh điển vi diệu Đại-Niết-Bàn nầy lưu-bố, phải biết chốn ấy là kim-cang, người ở chỗ ấy cũng như
kim cang. Người được nghe kinh nầy thời chẳng
thối chuyển nơi đạo
vô thượng chánh giác, đều được
thành tựu những điều mong muốn. Như những điều mà Như-Lai đã tuyên nói đây, chư Tỳ-Kheo phải khéo
thọ trì.
Chúng sanh nào không
nghe được kinh điển nầy thời thật là hạng
đáng thương hại, vì họ không
thọ trì được
nghĩa lý sâu xa của
kinh điển Đại-thừa như thế nầy.”
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn ! Sau khi Như-Lai
diệt độ, trong khỏang bốn mươi năm, kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy sẽ rộng truyền ở cõi Diêm-Phù-Đề, qua
thời gian ấy sẽ ẩn mất vào đất.Vậy chẳng biết
chừng nào kinh nầy sẽ lại
xuất hiện ?”
Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Lúc
chánh pháp của Như-Lai còn thừa tám mươi năm, bốn mươi năm đầu là
thời gian mà kinh nầy lại được thạnh truyền”.
Ca-Diếp Bồ-Tát lại thưa : “Bạch Thế-Tôn ! Lúc
chánh pháp diệt,
chánh giới hư,
phi pháp tăng trưởng,
chúng sanh tệ ác, thời ai là người có thể nghe hiểu
thọ trì đọc tụng nhuần thuộc, cùng
cúng dường cung kính biên chép giải nói
kinh điển Đại-thừa nầy. Mong Như-Lai
xót thương chỉ bảo, cho các hàng Bồ-Tát được bực
bất thối tâm vô-thượng bồ-đề.”
Phật khen : “
Lành thay !
Lành thay ! Nầy Ca-Diếp !
Chúng sanh nào đã từng
phát tâm bồ-đề ở chổ chư Phật nhiều bằng số cát của một sông Ni-Liên mới có thể nơi đời ác
thọ trì kinh điển như thế nầy mà không
phỉ báng.
Chúng sanh nào được
phát tâm bồ-đề nơi chư Phật bằng số cát của một
sông Hằng,vậy sau mới có thể ở
trong đời ác
ưa thích pháp Đaiï-thừa nầy, nhưng chẳng thể
giảng giải cho
mọi người.
Chúng sanh nào từng ở trước chư Phật bằng số cát của hai
sông Hằng phát tâm bồ-đề, mới có thể ở
trong đời ác chẳng
phỉ báng kinh nầy, mà tin hiểu chơn chánh cùng
ưa thích thọ trì đọc tụng, nhưng cũng chẳng thể giảng rộng cho người.
Chúng sanh phát tâm bồ-đề nơi chư Phật bằng số cát của ba
sông Hằng, mới có thể ở đời ác tin hiểu thọ-trì
đọc tụng và giảng nói kinh nầy, nhưng chưa hiểu thâm nghĩa.
Chúng sanh phát tâm bồ-đề nơi chư Phật bằng số cát của bốn
sông Hằng, mới có thể ở đời ác tin ưa
đọc tụng kinh nầy và giảng nói một phần trong mười sáu phần thâm nghĩa.
Chúng sanh phát tâm bồ-đề nơi chư Phật bằng số cát của năm
sông Hằng, mới có thể ở đời ác giảng nói tám phần trong mười sáu phần thâm nghĩa của kinh nầy.
Chúng sanh phát tâm bồ-đề nơi chư Phật bằng số cát trong sáu
sông Hằng, mới có thể ở đời ác giảng nói mười hai phần trong mười sáu phần thâm nghĩa của kinh nầy.
Chúng sanh phát tâm bồ-đề nơi chư Phật bằng số cát trong bảy
sông Hằng, mới có thể ở đời ác giảng nói mười bốn phần trong mười sáu phần thâm nghĩa của kinh nầy.. Và
chúng sanh phát tâm bồ-đề nơi chư Phật bằng số cát của tám
sông Hằng, ở đời ác, mới có thể tự mình và khuyên người đối với kinh nầy tin ưa
đọc tụng biên chép
thọ trì,
cúng dường cung kính, và hiểu thấu tất cả
nghĩa vị, tức là Như-Lai
thường trụ chẳng dời,
rốt ráo an vui, tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh, người nầy khéo biết các
pháp tạng của Như-Lai,
cúng dường vô lượng chư Phật,
kiến lập chánh pháp vô thượng và
thọ trì ủng hộ.
Nếu có người mới
phát tâm vô-thượng bồ- đề, phải biết rằng đời
vị lai, người nầy ắt có thể
kiến lập và
thọ trì ủng hộ chánh pháp như thế nầy.
Nầy Ca-Diếp ! Có hạng ác Tỳ-kheo nghe Như-Lai vào Niết-Bàn chẳng những không lo buồn mà còn mừng rỡ : Rằng từ nay về sau không ai ngăn chế kiềm thúc, ngày Như-Lai còn ở đời thời
cấm giới cao nghiêm, nay đã vào Niết-Bàn sẽ giải bỏ tất cả,
Ca Sa vốn là pháp thức nay cũng sẽ
dẹp bỏ như lá phan trên cây. Hạng Tỳ-kheo ấy chê bai chống cự
kinh điển đại thừa nầy.
Nầy Ca-Diếp ! Nay ông phải ghi nhớ như vậy. Nếu có
chúng sanh trọn nên đầy đủ
vô lượng công đức, mới có thể tin
kinh điển Đại-thừa nầy, tin rồi
thọ trì. Những
chúng sanh nào
ưa thích pháp Đại-thừa, nên vì họ mà
giảng giải kinh nầy. Họ được nghe kinh nầy, thời bao nhiêu
nghiệp ác đã tạo ra
từ vô lượng kiếp trước thảy đều
tiêu trừ. Nếu kẻ nào không tin
kinh điển nầy, thời
hiện thân sẽ bị
vô lượng bịnh khổ não hại, phần nhiều bị người
trách mắng,
sau khi chết, sẽ thọ
thân hình xấu xí, nghèo thiếu, bị người khinh tiện,
đời đời sanh trong nhà bần cùng hạ tiện
tà kiến, thường bị
tai nạn đao binh,
hình pháp, giặc cướp, oán thù làm hại, không được gặp gỡ bạn lành,
hằng ngày đói khát, không chịu tin
nghe lời chơn chánh, lời hay phải. Những kẻ ấy, không bao giờ được đến chỗ lành ở
cõi trời,
cõi người, như chim gãy cánh không bay cao được
Nếu người nào kính tin
kinh điển nầy, thời dầu đã mang
thân hình thô kệch xấu xa, do
công đức của kinh, sẽ được xinh tốt, sắc lực oai nhan ngày ngày thêm hơn, thườngđược trời người mến ưa. Người nầy có nói ra lời chi, ai nghe đến đều kính tin cả. Trong hàng Thanh-Văn
đệ tử của Như-Lai, nếu vị nào muốn
thi hành việc
hi hữu nhứt, thời nên tuyên rộng
kinh điển Đại-thừa như đây.
Nầy Ca-Diếp ! Như sương mù kia chỉ có thể
tồn tại đến lúc
mặt trời mọc. Khi
mặt trời đã mọc, sương mù sẽ
tiêu tan. Bao nhiêu
nghiệp ác của
chúng sanh,
thế lực nó sẽ phải
tiêu diệt khi được thấy
mặt trời Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy.
Nầy Ca-Diếp ! Như có người mới
xuất gia cạo tóc đắp ca-sa vẫn chưa thọ
mười giới Sa-di, có
tín thí trưởng giả đến thỉnh
chúng Tăng, người ấy cùng
đại chúng đồng đi thọ trai, dầu chưa
thọ giới mà đã vào số
chư Tăng.
Cũng vậy, nếu có
chúng sanh nào
phát tâm mới học kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn biên chép
đọc tụng, người nầy dầu chưa đầy đủ
công đức bằng bực Thập-Địa Bồ-tát, nhưng đã được dự trong số các bực Thập-Trụ Bồ-Tát. Nếu có
chúng sanh nào hoặc là
đệ tử Phật, hoặc không phải
đệ tử Phật, hoặc vì tham vì sợ, hoặc vì
lợi dưỡng mà nghe học
thọ trì kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn nầy nhẫn đến một
bài kệ, kính tin không hủy báng, phải biết người nầy thời là đã được gần vô-thượng bồ-đề.
Nầy Ca-Diếp ! Vì
nhơn duyên trên đây, nên Như-lai nói bốn hạng người trước kia là chỗ nương tựa của
thế gian. Bốn hạng người ấy không bao giờ đem
lời Phật dạy, nói là không phải của Phật. Vì thế nên Như-Lai nói bốn hạng người ấy là chổ nương tựa của
thế gian. Ông phải
cúng dường bốn hạng người ấy.”
Ca-Diếp Bồ-Tát thưa : “ Bạch Thế-Tôn ! Con làm thế nào biết được hạng người ấy để
cúng dường ?”
Phật dạy : “ Nếu có người nào
kiến lập hộ trì chánh pháp, thời phải thỉnh hỏi và
xả thân cúng dường người ấy. Như ta từng nói nơi kinh Đại-thừa nầy :
Có ai biết chánh-pháp
Không luận già hay trẻ
Đều nên phải
cúng dườngCung kính và
lễ lạyNhư hàng Bà-La-Môn
Chí thành thờ thần lửa
Và như các thiên-thần
Cung kính trời Đế-Thích.
Ca-Diếp Bồ-Tát
bạch Phật : “ Bạch Thế-Tôn ! Như
lời Phật dạy cúng dường bực Sư-trưởng chính phải như vậy. Nay con có chổ nghi, xin Như-Lai
giảng giải. Nếu có vị trưởng-túc giới-hạnh tinh nghiêm đến
học hỏi với người trẻ tuổi, thời có phải
lễ kính chăng ? Nếu
lễ kính thời đâu gọi là
trì giới. Hoặc người
tuổi trẻ tinh nghiêm
giới luật đến học với vị trưởng-túc
phá giới, có nên
lễ kính chăng ? Hoặc người
xuất gia đến học với người
tại gia thời có nên làm lễ chăng ? Nhưng người
xuất gia không nên
lễ kính người
tại gia. Và trong
giáo pháp của Phật, người trẻ tuổi phải
cung kính bực trưởng túc cao niên, vì bực trưởng túc
thọ giới cụ túc trứơc, đã
thành tựu oai nghi. Như-Lai từng bảo rằng người
phá giới không được dung thọ ở trong
Phật pháp, như đám cỏ ở trong thửa ruộng tốt. Như-Lai lại nói có ai biết
chánh pháp, không luận là già trẻ, phải
cúng dường người ấy như Thiên-thần kính thờ trời Đế-Thích. Các lời dạy trên có chỗ
trái nhau, xin Như-Lai
giải thích cho. Như Phật từng nói thầy Tỳ-kheo
trì giới cũng có chỗ sai phạm.
Duyên cớ gì mà Như-Lai nói lời ấy. Trong các kinh khác, Thế-Tôn cũng có nói cho trị tội kẻ
phá giới. Những lời dạy ấy chưa được trọn nghĩa.”
Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp !
Bài kệ vừa rồi là Như-Lai vì chư Bồ-Tát học Đại-thừa sau nầy mà nói, chớ chẳng phải nói với hàng Thanh-Văn
đệ tử.
Nầy Ca-Diếp ! Như lời của Như-Lai đã nói, lúc
chánh pháp diệt,
thời kỳ chánh giới bị hủy hoại
tăng trưởng sự phágiới, chớ chẳng phải lúc
chánh pháp hưng thạnh. Lúc mà tất cả Thánh-nhơn không hiện, lúc mà hạng
xuất gia nhận và chứa tôi trai tớ gái cùng vật
bất tịnh, trong bốn
hạng người trên sẽ có một người
hiện ra nơi đời cạo bỏ râu tóc
xuất gia học đạo, thấy chư Tỳ-kheo không biết vật tịnh cùng
bất tịnh, cũng không hiểu là luật hay phi luật, vì muốn
điều phục họ nên cùng họ hòa quang, nhưng không
tội lỗi như họ. Người nầy khéo
phân biệt chỗ làm của mình cùng chỗ làm của Phật. Dầu thấy các người
phạm tội ba-la-di, vẫn
im lặng không cử tội.
Nầy ca-Diếp ! Người nầy vì
hộ trì chánh pháp nên dầu có chỗ
phạm luật mà không gọi là
phá giới. Như có vị Quốc-vương phải bịnh chết, Thái-tử còn
thơ ấu chưa có thể nối ngôi. Có người Chiên-đà-la
giàu có,
quyến thuộc đông, thừa dịp soán ngôi, tự lên làm vua. Trong nước, các hàng Cư-sĩ, Bà-la-môn, phần nhiều trốn sang nước khác. Người ở lại cũng ẩn tránh không muốn thấy mặt vua ấy. Vua Chiên-đà-la hay nhiều người trong nước bỏ sang nước khác, bèn truyền lịnh rằng nếu có vị Bà-La-Môn nào có thể vì nhà vua mà làm thầy
chủ lễ tôn vương, thời nhà vua sẽ chia đôi cõi nước cho cai trị.
Mọi người nói
với nhau bao giờ có người dòng Bà-La-Môn lại đi
chủ lễ tôn vương cho một gã Chiên-đà-la. Vua thấy không có vị Bà-La-Môn nào ra mặt cả, bèn
xuống lịnh nếu trong hàng Bà-La-Môn không một ai chịu ra làm thầy cho nhà vua, thời nhà vua tất sẽ buộc các người Ba-La-Môn cùng
ở chung, làm việc chung với người Chiên-đà-la.
Còn nếu ai chịu
chủ lễ tôn vương thời nhà vua quyết chia đôi cõi nước để phong thưởng,
cho đến thuốc cam-lộ
bất tử của
cõi trời Đao-Lợi do sức
thần chú cầu được, nhà vua cũng sẽ chia đều cho người ấy.
Bấy giờ có một người bà-La-Môn
tuổi trẻ,
đức hạnh thanh tịnh, giỏi về
chú thuật ra lãnh làm
chủ lễ tôn vương cho vua Chiên-đà-la. Nhà vua
y lời hứa chia nước làm đôi, cùng Bà-La-Môn trẻ đồng cai trị. Hàng Bà-La-Môn đều giận trách người ấy : Người là dòng Bà-La-Môn sao lại đi làm thầy cho gã Chiên-đà-la ?
Ít lâu sau, Bà-La-Môn trẻ bảo vua rằng : Tôi bỏ phép của dòng tôi đến làm thầy cho nhà vua, và dạy cho vua
chú thuật vi-mật. Nhưng đến ngày nay, nhà vua vẫn chưa thương tưởntg đến tôi.” Vua hỏi cớ. Bà-La-Môn trẻ đáp : :” Nhà vua chưa cho tôi cùng được uống thuốc cam-lộ
bất tử của Tiên-vương”. Vua bảo : “ Phải lắm quả nhơn thiệt không biết, nếu
đại sư cần thời lấy mà dùng. Bà-La-Môn trẻ đem thuốc cam-lộ về nhà mời các đại thần đến cùng chia nhau uống. Vua được tin ấy bèn nói với Bà-La-Môn trẻ rằng : “ Sao
đại sư cùng các đại thần uống thuốc cam-lộ mà không chia phần cho quả nhơn. Bà-La-Môn trẻ dưng thuốc độc cho vua. Nhà vua uống xong say mê như người chết, Bấy giờ Bà-La-Môn trẻ liền lập Thái-tử con Tiên-vương
lên ngôi, mà xướng lên rằng : “ Theo phép ngai vàng không bao giờ hạng người Chiên-đà-la được ngự. Từ xưa
đến nay tôi chưa từng nghe thấy dòng Chiên-đà-la làm vua, phải tôn Thái-tử
lên ngôi để chăn dân trị nước.” Sau khi
sắp đặt việc triều chính xong, Bà-La-môn trẻ
giải độc cho Chiên-đà-la rồi đuổi ra khỏi nước Bà-La-Môn trẻ dầu hành động các việc như trên nhưng vẫn không mất pháp Bà-La-Môn. Bấy giờ người trong nước, hàng
cư sĩ và Bà-la-môn đều khen ngợi
việc làm ấy và đều
kính trọng Bà-La-Môn trẻ.
Nầy Ca-Diếp ! Sau khi Như-Lai vào Niết-bàn, hàng Bồ-Tát
hộ trì chánh pháp,
phương tiện giả
đồng sự với các Tỳ-kheo
phá giới. Nếu thấy có người dầu
phạm giới nhiều, nhưng có thể trị các ác Tỳ-kheo, Bồ-Tát liền đến
cúng dường kính lễ người ấy, vì việc
cúng dường nên phải
cầu xin với nhà
đàn việt và cất chứa vật
bất tịnh.
Mặc dầu Bồ-Tát
cung kính lễ bái cúng dường người ấy và chứa vật
bất tịnh, nhưng vẫn không có
tội lỗi, vì là
phương tiện để tẩn trị các ác Tỳ-kheo cho
Tăng chúng thanh tịnh được
an ổn và
lưu bố kinh điển Đại-thừa, làm
lợi ích cho trời cho người.
Nầy Ca-Diếp ! Vì
duyên do ấy, nên Như-lai nói hai
bài kệ trước kia để bảo các Bồ-Tát khen ngợi người
hộ pháp. Như hàng Cư-sĩ và Bà-La-Môn
ngợi khen Bà-La-Môn trẻ. Nếu có ai thấy người vì
hộ pháp mà cùng
đồng sự với các Tỳ-kheo
phá giới, rồi nói là có tội, thời phải biết kẻ ấy tự chác lấy
họa hại. Người
hộ pháp kia thiệt không có tội.
Nầy Ca-Diếp ! Nếu có tỳ-kheo phạm
cấm giới rồi tự
kiêu mạn không
sám hối, phải biết đó chính là người thiệt
phá giới. Bồ-Tát vì
hộ pháp nên
mặc dầu có chỗ sai phạm, nhưng không
kiêu mạn chịu
sám hối, nên không gọi là
phá giới. Vì cớ ấy nên Như-Lai nói trong kinh :
Có ai biết
chánh phápKhông luận già hay trẻ
Đều nên phải
cúng dườngCung kính và
lễ lạyNhư hàng Bà-La-Môn
Chí thành thờ thần lửa
Và như các Thiên-Thần
Cung kính trời Đế-Thích.
Lời kệ trên đây là Như-Lai vì các Bồ-Tát học Đại-Thừa mà nói, chớ chẳng phải nói với hạng người học pháp Thanh-Văn.”
Ca-Diếp Bồ-Tát thưa :” Bạch Thế-Tôn ! Các vị Bồ-tát như thế ở nơi giới rất là huỡn đãi. Giới của các vị ấy đã thọ có còn đủ chăng ?”
Phật dạy : “ Nầy ca-Diếp ! Nay ông không nên nói như vậy. Vì giới của các vị ấy đã thọ vẫn đủ không mất.
Giả sử có sai phạm liền phải
sám hối.
Sám hối xong thời được
thanh tịnh.
Nầy Ca-Diếp ! Như bờ đê cũ có lỗ hở trống thời nước rịn chảy, vì không người sửa sang. Nếu được sửa sang thời nước không rịn chảy.
Cũng thế, các vị Bồ-tát dầu cùng kẻ
phá giới đồng sự, nhưng ở nơi giới đãthọ vẫn không hư mất. Vì
nếu không có người
thanh tịnh trì giới thời
Tăng chúng sẽ tổn giãm, ngày càng lười trể. Nếu có người
trì giới thanh tịnh thời giới đã thọ được đầy đủ không mất.
Nầy Ca-Diếp ! Đối với “thừa” mà huỡn đãi mới gọi là huỡn đãi, còn huỡn đãi nơi “giới” không gọi là huỡn đãi. Các vị Bồ-Tát không trể lười nơi Đại-thừa, đây gọi là
giới căn bổn. Các vị ấy vì
hộ trì chánh pháp nên dùng nước Đại-thừa mà tự tắm gội. Vì thế nên Bồ-Tát dầu
hiện ra sự
phá giới nhưng không gọi là huỡn đãi.”
Ca-Diếp Bồ-Tát thưa : “ Trong
chư Tăng có bốn hạngngười, như trái am-la khóphân đuợc trái sống trái chín. Làm thế nào biết được người
trì giới cùng người
phá giới ?”.
Phật dạy : “ Nầy Ca-Diếp ! Nhơn nơi
kinh điển vi diệu Đại-Niết-Bàn thời dễ biết.
Ví như nông phu gieo mạ cấy lúa, cày bừa hết cỏ, cứ
mắt thịt xem thời gọi là thửa ruộng sạch. Đến mùa bông
trái thời lúa cùng cỏ khác nhau. Tám việc như vậy hay làm nhơ nhớp
chúng Tăng, nếu trừ được thời dùng
mắt thịt cũng biết là
thanh tịnh. Hoặc khi
trì giới hay
phá giới mà không
tác ác, dùng
mắt thịt khó
biện biệt được, lúc việc
ác lộ bày thời dễ thấy biết. Như loại cỏ dễ nhận được. Cũng vậy, trong
chúng Tăng nếu có thể xa lìa nơi
tám pháp bất tịnh, thời gọi là
Thánh chúng thanh tịnh, là
phước điền, đáng được
cõi trời cõi người cúng dường,
quả báo thanh tịnh dùng
mắt thịt không thể
biện biệt .
Nầy Ca-Diếp ! Như rừng Ca-La-Ca rất rậm rạp nhiều cây. Trong rừng nầy chỉ có một cây Trấn-đầu-ca. Trái của hai thứ cây nầy rất giống nhau khó
biện biệt được. Đến mùa trái chín, một
thiếu nữ lượm cả hai thứ, một phần trái Trấn-đầu-ca, mười phần trái Ca-la-ca đem ra chợ bán. Các trẻ nít
ngu dại mua lầm trái Ca-la-ca, ăn xong phải độc mà chết. Hàng
thức giả nghe được việc ấy, liền hỏi
thiếu nữ lượm những trái nầy ở nơi nào ?
Thiếu nữ nói là lượm ở rừng Ca-la-ca.
Thức giả bảo trong rừng ấy tòan là cây Ca-la-ca chỉ có một cây Trấn-đầu-ca thôi.
Mọi người biết rõ đều
chê cười rồi bỏ đi.
Nầy Ca-Diếp !
Tám pháp bất tịnh trong
chư Tăng cũng vậy. Trong
chư Tăng phần đông đều
thọ dụng tám thứ
bất tịnh ấy, chỉ có một người
trì giới thanh tịnh không thọ tám thứ
bất tịnh , và biết
đại chúng thọ dụng phi pháp, nhưng vẫn
đồng sự không xa tránh, như cây Trấn-đầu-ca đứng giữa rừng cây Ca-la-ca. Có Ưu-Bà-Tắc thấy phần đông
phi pháp và chẳng
cung kính cúng dường vị
thanh tịnh nầy. Nếu muốn
cúng dường nên trước hỏi bạch Đại-Đức, tám việc như vậy có nên nhận và chứa không ! Phật có
cho phép không ? Nếu nói là Phật
cho phép, thời người nhận chứa ấy đặng
cùng chung bố-tát, yết-ma, tự-tứ không?
Đại chúng đáp rằng : Tám việc ấy, đức Như-Lai
xót thương thảy đều
cho phép chứa. – Ưu-Ba-tắc nói :Trong tinh-xá Kỳ-Hoàn, hoặc có Tỳ-kheo nói Phật
cho phép chứa
vàng bạc, hoặc có Tỳ-kheo nói Phật không
cho phép. Người nói là Phật
cho phép, thời người nói Phật không
cho phép chẳng chịu
ở chung, chẳng đồng
thuyết giới,
tự tứ, nhẫn đến không chịu cùng uống nước một con sông, chẳng chịu chung hưởng vật
lợi dưỡng. Sao các ngài lại bảo là Phật
cho phép ? Phật là đấng trời trong hàng trời, dầu cho Phật có nhận các thứ ấy,
chư Tăng các ngài cũng chẳng nên chứa cất. Nếu vị nào nhận chứa thời không nên
đồng sự, chẳng nên cùng
thuyết giới,
tự tứ, yết-ma. Nếu chung cùng,
sau khi chết sẽ đọa vào
địa ngục, như kẻ phải chết vì ăn lầm trái Ca-la-ca.
Nầy Ca-Diếp ! Như nơi chợ có người bán thuốc, bán cả thuốc quý Tuyết-sơn cùng nhiều thứ thuốc độc khác,
mùi vị đều giống nhau. Người mua không rành mặt thuốc hỏi mua thuốc Tuyết-sơn. Người bán
dối trá lấy các thứ thuốc độc đưa ra. Người mua
nhận lầm là thiệt nên trả tiền mang thuốc đi và
mừng thầm rằng đã mua được thuốc quý Tuyết-sơn.
Nầy Ca-Diếp ! Trong
chư Tăng Thanh-Văn có giả-danh-tăng có chơn-thiệt-tăng và hòa-hiệp-tăng, hoặc
trì giới, hoặc
phá giới. Đối với trong đại-chúng ấy, phải
bình đẳng cúng dường cung kính lễ bái, vì với
mắt thịt, hàng Ưu-Bà-Tắc chẳng
phân biệt được vị nào
trì giới, vị nào
phá giới, ai là chơn-thiệt-tăng, ai là giả-danh-tăng, như người mua thuốc không
phân biệt được thuốc quý Tuyết-sơn. Người có thiên-nhãn mới có thể biết rõ.
Nầy Ca-Diếp ! Nếu Ưu-Bà-Tắc biết rõ là Tỳ-kheo
phá giới thời chẳng nên
cung cấp lễ bái cúng dường. Nếu biết Tỳ-kheo nhận và chứa
tám vật bất tịnh, cũng lại chẳng nên
cung cấp lễ bái cúng dường. Nếu trong
chư Tăng có người
phá giới, chẳng nên vì đắp ca-sa mà
cung kính lễ bái”.
Ca-Diếp Bồ-Tát thưa : “ Bạch Thế-Tôn !
Lành thay !
Lành thay !
Lời Phật dạy chơn
thật không hư, con sẽ
trân trọng tuân theo,
xem như bảo vật kim-cang.
Như
lời Phật dạy : Các Tỳ-kheo phải
y theo bốn điều :
Y theo pháp không y theo người,
y theo nghĩa không y theo lời,
y theo trí không
y theo thức,
y theo kinh
liễu nghĩa không
y theo kinh chẳng
liễu nghĩa. Bốn
pháp như vậy, nên phải chứng biết không phải bốn hạng người”.
Phật dạy : Nầy Ca-Diếp !
Y theo pháp đó chính là Như-Lai Đại-Bát-Niết-Bàn, tất cả
Phật pháp tức là
pháp tánh.
Pháp tánh ấy tức là Như-Lai. Thế nên Như-Lai thường trụkhông
biến đổi. Nếu ai bảo rằng Như-Lai
vô thường, người nầy không biết không thấy
pháp tánh. Nếu là người không biết không thấy
pháp tánh thời không nên nương tựa. Như trên đã nói bốn hạng người
hiện ra nơi đời
hộ trì chánh pháp nên phải chứng biết để mà
y chỉ. Vì các vị nầy khéo
hiểu biết pháp-tạng thâm-áo vi-mật của Như-Lai, biết rõ Như-Lai
thường trụ không
biến đổi. Không bao giờ Như-Lai vô-thường
biến đổi. Bốn hạng người nầy có thể gọi là Như-lai, vì hiểu được và nói được
mật ngữ của Như-Lai. Nếu có người biết được
pháp tạng thâm mật, và biết Như-Lai
thường trụ không
biến đổi, người nầy chẳng bao giờ vì
lợi dưỡng mà nói Như-Lai là
vô thường. Còn nên
y chỉ với người nầy huống là chẳng
y chỉ với bốn bực trên.
Y chỉ nơi pháp tức làpháp tánh, không
y chỉ với người tức là hàng Thanh-Văn.
Pháp tánh tức là Như-lai, Thanh-Văn tức là hữu-vi. Như-Lai tức là
thường trụ,
hữu vi tức là
vô thường.
Nầy Ca-Diếp ! nếu là người
phá giới vì
lợi dưỡng mà nói Như-Lai là
vô thường biến đổi, thời không nên nương tựa với người ấy.
Trên đây là định nghĩa “
Y theo pháp không y theo người .”
Y theo nghĩa không y theo lời là thế nào ? Nầy Ca-Diếp ! Nghĩa là giác-liễu, nghĩa giác-liễu là
nghĩa không thiếu sót tức là nghĩa đầy đủ. Nghĩa đầy đủ là Như-Lai. Pháp cùng Tăng đều
thường trụ chẳng
biến đổi. Đó là
y theo nghĩa. Còn những lời gì chẳng nên
y theo ? Tức là các bộ luận
trau chuốt lời văn. Như Phật từng bảo rằng có rất nhiều thứ
kinh điển tham cầu không biết nhàm,
gian dối dua bợ, bày nhiều cách để
cầu lợi, làm việc cho kẻ
bạch y, lại xướng rằng
đức Phật cho phép thầy Tỳ-kheo nuôi tôi trai tớ gái, các vật
bất tịnh như
vàng bạc châu báu, lúa gạo kho đụn, trâu dê voi ngựa, cùng buôn bán lấy lời. Nơi đời cơ-cẩn Phật vì thương
đệ tử nên
cho phép Tỳ-kheo chứa đồ ăn cũ, để cách đêm, tự tay nấu nướng, không
lãnh thọ mà ăn. Không nên
y theo những lời như thế.
Y theo trí không
y theo thức là thế nào ?
Nầy Ca-Diếp ! Trí tức là Như-Lai. Nếu có hàng Thanh-Văn chẳng khéo rõ biết
công đức của Như-Lai, đó là “thức” không nên
y theo. Nếu rõ biết Như-lai tức là
pháp thân, đó là chơn trí nên phải
y theo. Nếu thấy thân
phương tiện ứng hoa ùcủa Như-Lai mà nói là thuộc về ấm-giới nhập, do ăn mà được sống được lớn, sự
nhận xét nầy là “thức” cũng chẳng nên
y theo. Người cùng
kinh điển nói những điều ấy đều chẳng nên
y theo.
Thế nào là
y theo kinh
liễu nghĩa mà không
y theo kinh chẳngliễu nghĩa ? Hàng Thanh-Văn nghe đến chỗ tạng pháp
thâm mật của Như-Lai đều
nghi ngờ không hiểu pháp ấy từ nơi biển
đại trí huệ mà có ra. Khác nào những đứa trẻ thơ khônghiểu biết xa rộng. Đây gọi là chẳng liễu-nghĩa. Còn bực Bồ-tát có
trí huệ chơn thật, theo trí lớn
vô ngại nơi
tự tâm, như người tuổi tác
hiểu biết xa rộng. Đây gọi là liễu-nghĩa. Lại Thanh-Văn thừa là không liễu-nghĩa.
Vô thượng đại-thừa mới gọi là liễu-nghĩa. Nếu nói Như-Lai vô-thường
biến đổi thời gọi là chẳng
liễu nghĩa. Còn nói Như-Lai
thường trụ không
biến đổi thời gọi là
liễu nghĩa. Lời của hàng Thanh-Văn nên chứng biết, gọi là chẳng liễu-nghĩa. Lời của Bồ-tát nên chứng biết, gọi là liễu-nghĩa. Nếu nói Như-Lai nhờ sự ăn mà sống còn, đó là lời không
liễu nghĩa. Nếu nói Như-Lai
thường trụ không
biến đổi, đây gọi là lời
liễu nghĩa. Nếu nói Như-Lai nhập Niết-bàn như củi hết lửa tắt, đó là lời không liễu-nghĩa. Nếu nói Như-Lai nhập
pháp tánh, đấy là lời
liễu nghĩa.
Giáo pháp của Thanh-Văn thừa, thời không nên nương tựa vì Như-lai muốn độ
chúng sanh nên
phương tiện nói ra pháp Thanh-Văn thừa, như ông
Trưởng giả đem
bán tự dạy cho con.
Nầy Ca-Diếp ! Thanh-Văn thừa như mới cày bừa chưa có hột trái, gọi là chẳng liễu-nghĩa vì thế chẳng nên nương theo Thanh-Văn thừa. Phải nương theo pháp đại-thừa. Vì Như-Lai muốn độ
chúng sanh mà
phương tiện nói pháp đại-thừa, Pháp đại-thừa là liễu-nghĩa, là chỗ nên nương tựa.
Trên đây là bốn điều nên
y theo,
cần phải chứng biết.
Lại nữa, “nghĩa” đáng
y theo gọi là
chất trực,
chất trực gọi là
sáng suốt.
Sáng suốt gọi là không kém thiếu. Không kém thiếu gọi là Như-Lai.
Sáng suốt lại gọi là
trí huệ.
Chất trực gọi là
thường trụ. Như-lai
thường trụ gọi là
y theo “pháp”, “pháp” ấy gọi là
thường trụ, cũng gọi là
vô biên,
bất tư nghị, chẳng có thể
chấp trì, chẳng có thể
trói buộc, mà cũng có thể chứng thấy. Nếu kẻ nào nói là không có thể chứng thấy được “pháp”, thời không nên
y theo kẻ ấy. Vì thế nên theo “pháp” mà không
y theo người.
Nếu có người dùng lời vi-diệu tuyên nói vô-thường. Không nên
y theo những lời nầy. Vì thế nên
y theo “nghĩa” mà không
y theo “lời”.
Còn
nhận biết chúng Tăng là
thường trụ, là vô-vi không
biến đổi, chẳng chứa cất
tám vật bất tịnh. Đây là
y theo “trí không
y theo “thức”.
Nếu có người nói : Thức làm, thức thọ, không
chúng Tăng hòa hiệp.
Tại vì sao ? Luận về hòa hiệp gọi là
vô sở hữu. Đã
vô sở hữu sao gọi là
thường trụ. Đây là tình thức không nên
y theo.
Còn liễu-nghĩa gọi là
trí túc, trọn không dối hiện
oai nghi thanh bạch, không
kiêu mạn tự cao tham
cầu lợi dưỡng, và đối với trong
giáo pháp tùy nghi phương tiện của Như-Lai không sanh lòng chấp trứơc. Nếu vị nào an trụ được trong những điều này, phải biết người ấy đã trụ được nơi
đệ nhứt nghĩa. Đây gọi là
y theo kinh liễu-nghĩa.
Như trong kinh nói : Tất cả phừng cháy, tất cả đều khổ, tất cả đều không, tất cả
vô ngã. Đây gọi là không
liễu nghĩa.
Tại vì sao ? Vì không có thể
hiểu rõ nghĩa như vậy, hay làm cho
chúng sanh phải đọa
A-Tỳ địa ngục. Do vì
chấp trước nên không hiểu thấu
ý nghĩa. Với câu tất cả phừng cháy, cho rằng Như-Lai nói Niết-bàn cũng cháy. Tất cả
vô thường thời Niết-bàn cũng
vô thường. Khổ, không, vô-ngã cũng như vậy. Đây gọi là kinh không
liễu nghĩa chẳng nên
y theo.
Nầy Ca-Diếp ! Nếu có người nói Như-lai thưong xót
chúng sanh khéo biết thời nghi. Vì biết thời nghi nên có lúc Như-Lai nói nhẹ là nặng, hoặc nói nặng là nhẹ. Như-Lai xét biết hàng
đệ tử có các nhà
thí chủ cung cấp đồ
cần dùng không thiếu, nên Phật không cho nhận và chứa tôi tớ,
vàng bạc của báu, không cho buôn bán đổi chác những vật
bất tịnh. Nếu hàng
đệ tử không có
thí chủ cung cấp, và
thời kỳ mất mùa đói kém, vì muốn
hộ trì chánh pháp, nên Phật cho nhận và chứa tôi tớ
vàng bạc xe cộ, ruộng nhà gạo thóc, đổi lấy đồ dùng. Dầu cho nhận cbứa các thứ ấy, nhưng phải
tịnh thí cho nhà
đàn việt nhiệt thành tin
chánh pháp.
Bốn pháp trên đây nên
y theo. Nếu có các thứ kinh, luật cùng luận nào chẳng trái bốn pháp trên đây cũng nên
y theo.
Nếu có người bảo : Phải thời nghi hay không phải thời nghi, có thể
hộ pháp hay không thể
hộ pháp. Như-Lai đều cho tất cả Tỳ-kheo nhận và chứa những vật
bất tịnh ấy. Đây là những lời không nên
y theo. Nếu có những kinh, luật, luận nào mà đồng với những thuyết nầy cũng chẳng nên
y theo.
Như-Lai vì người
nhục nhãn mà nói bốn điều nên
y theo, không phải nói với các vị có
huệ nhãn.
Thế nên nay Như-Lai nói bốn
điều y chỉ như vậy. “Pháp” chính là
pháp tánh. “Nghĩa” chính là Như-Lai
thường trụ không
biến đổi. “Trí” là rõ biết tất cả
chúng sanh đều có
Phật tánh. “Liễu-nghĩa” là thấu rõ tất cả
kinh điển Đại-thừa.