KINH PHẬT THUYẾT CÔNG ĐỨC DỤC TƯỢNG
Đại Đường, Thiên Trúc, Tam tạng Bảo Tư Duy dịch. [1]
Việt dịch: Quảng Minh
Tôi nghe
như vầy, một thời đức Bạt già phạn ở trên núi Linh Phong, (ở phía đông bắc) thành
Vương Xá, cùng chúng đại Bí sô và cùng
chư đại Bồ tát ma ha tát câu hội. Bấy giờ, trong
hội chúng có một vị
bồ tát tên là
Thanh Tịnh Tuệ, khởi lên
ý nghĩ, do
nhân duyên gì mà
chư Phật Như Lai được
thân thanh tịnh, lại nghĩ rằng, Phật ở đời thì thân cận,
cúng dường, sau khi
Phật diệt độ,
cúng dường xá lợi, hai loại người này thu hoạch
phước đức có bằng nhau không ? Khởi niệm này rồi, nương
uy thần Phật, từ chỗ ngồi
đứng dậy,
đảnh lễ chân Phật, thưa với Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn,
chư Phật Như Lai do
nhân duyên gì được
thanh tịnh thân; nếu Phật ở đời thì thân cận,
cúng dường, sau khi
Phật diệt độ,
cúng dường xá lợi, hai loại người này thu hoạch
phước đức có bằng nhau không ? Bấy giờ
đức Thế Tôn bảo
bồ tát Thanh Tịnh Tuệ rằng, tốt lắm, tốt lắm, nay ông vì
chúng sanh ở đời
vị lai mà
phát khởi lời hỏi như vậy, ông nên khéo nghe,
Như Lai vì ông
phân biệt giải nói. Bấy giờ,
bồ tát Thanh Tịnh Tuệ thưa với Phật rằng, dạ vâng
Thế Tôn, chúng con xin vui muốn nghe.
Đức Phật bảo
bồ tát Thanh Tịnh Tuệ rằng,
chư Phật Như Lai vì cầu
bồ đề nên thuở xa xưa
tu tập các
tam muội, giới, định,
nhẫn nhục,
trí tuệ,
từ bi hỷ xả,
giải thoát,
giải thoát tri kiến, (mười năng) lực, (bốn)
vô úy, tất cả
Phật pháp,
nhất thiết chủng trí, hết thảy toàn là những phẩm chất
thanh tịnh, cho nên chư
Như lai được
thân thanh tịnh. Lại lấy hoa, hương,
tràng phan,
bảo cái để dùng
cúng dường, lại lấy
nước thơm tắm thân
Như Lai, lại lấy
bảo cái che trùm trên thân, lấy các
ẩm thực, trống nhạc, đàn ca, ngâm khen
Như Lai, đem
công đức này
hồi hướng nhất thiết chủng trí, có được
công đức vô lượng vô biên,
cho đến thành tựu Vô thượng bồ đề. Tại sao ?
Trí tuệ của
Như Lai vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn,
Như Lai có bao
phước đức cũng lại như vậy.
Thanh Tịnh Tuệ, sau khi
Như Lai diệt độ, có hai loại
xá lợi, một là
pháp thân, hai là
hóa thân. Nếu
thiện nam tử,
thiện nữ nhân v.v...
cúng dường xá lợi, bằng cách tạo
hình tượng Phật nhiều như lúa mạch, tạo tháp có
hình dáng như trái
am la [2], cột tháp
hình dáng như cây kim lớn, lọng tháp
hình dáng như cánh bèo, để
gìn giữ xá lợi Phật,
xá lợi lượng như hạt cải lớn, được
an trí trong tháp.
Công đức cúng dường xá lợi bằng với
công đức cúng dường Như Lai còn ở đời, không có khác biệt. Người
cúng dường xá lợi được mười lăm thứ
công đức: một là được
tâm niệm thanh tịnh; hai là được tâm
tùy thuận chánh pháp; ba là được tâm
hổ thẹn; bốn là được thấy
Như Lai; năm là
phát tâm tịnh tín; sáu là nắm giữ
chánh pháp; bảy là
tu hành đúng pháp; tám là được thân cận chư Phật; chín là
tùy ý thọ sanh các
quốc độ có Phật; mười là sanh trong
nhân loại thì sanh
nhà dòng dõi,
tâm tánh mềm mỏng, người gặp
kính trọng; mười một là vừa sanh làm người được
tâm niệm Phật; mười hai là các chúng
ma quân không thể
não loạn; mười ba là ở
thời mạt pháp, có khả năng
hộ trì chánh pháp; mười bốn là thường được
mười phương chư Phật Như Lai gia tâm
che chở; mười lăm là mau được
thành tựu năm phần
pháp thân. Bấy giờ
đức Thế Tôn nói lời chỉnh cú rằng:
Nếu dùng tâm thanh tịnh
Sau Như Lai diệt độ
Người cúng dường xá lợi
Hoặc tạo các tháp miếu
Và hình tượng Như Lai
Ở trước tháp tượng kia
Quét tô mạn đà la
Đem các thứ hoa hương
Tung rải trên tháp tượng
Lấy các nước diệu hương
Mà rưới tắm tượng Phật
Các ẩm thực thượng diệu
Giữ sạch để cúng dường
Tán lễ công đức Phật
Vô lượng khó nghĩ bàn
Trí tuệ và thần thông
Các phương tiện thiện xảo
Thảy đều đến bờ kia.
Bấy giờ, bồ tát Thanh Tịnh Tuệ nghe đức Thế Tôn nói chỉnh cú này xong, thưa với Phật rằng, Bạch đức Thế Tôn, lúc đức Phật ở đời và sau khi Ngài diệt độ, các chúng sanh ở đời vị lai tắm tượng như thế nào, cúi xin đức Thế Tôn vì chúng sanh mà chỉ bày nói rộng. Đức Phật dạy, Thanh Tịnh Tuệ, lúc Phật ở đời, các chúng sanh phát khởi tịnh tâm, sau khi Phật diệt độ cũng nên phát khởi tịnh tâm như vậy, không nên có sự chấp tưởng rằng có Phật hay không Phật, đối với các phẩm tính tốt đẹp (của Như Lai) ôm lòng khát ngưỡng, không sanh nhàm chán. Tại sao ? Vì làm như vậy là thành tựu pháp thân và báo thân của Như Lai. Như Lai đã từng vì ông nói pháp bốn chân lý chắc thật, mười hai nhân duyên, sáu ba la mật, nay Như lai vì ông nói pháp tắm tượng, là cách cúng dường thù thắng nhất trong các cách cúng dường.
Thiện nam tử, nếu muốn tắm tượng, nên lấy ngưu đầu, chiên đàn, tử đàn, đa ma la hương, cam tùng, khung cùng, bạch đàn, uất kim, long não, trầm hương, xạ hương, đinh hương v.v..., lấy các thứ diệu hương như vậy, tùy theo các thứ có được mà làm thành nước tắm chứa trong đồ đựng sạch sẽ. Trước tiên làm cái đàn hình vuông, thiết một sàng tọa đẹp, trên an trí tượng Phật, dùng các nước thơm lần lượt tắm tượng. Dùng các nước thơm tắm khắp tượng xong, lại lấy nước sạch rưới tắm tượng đã tắm nước thơm. Mỗi người lấy một ít nước tắm tượng, xức trên đầu của mình, rồi đốt các thứ hương làm sự cúng dường.
Khi nước bắt đầu chảy từ trên thân tượng xuống, nên tụng bài kệ:
Nay con rưới tắm chư Như lai
Thân tịnh trí, công đức trang nghiêm
Chúng sanh ngũ trược rời trần cấu
Nguyện chứng Như Lai tịnh pháp thân.
Khi đốt hương nên tụng bài kệ sau:
Giới, định, tuệ, giải, tri kiến hương
Khắp mười phương cõi thường thơm phức
Nguyện khói hương này cũng như vậy
Về làm tự tha năm loại thân.
Bấy giờ, đức Thế Tôn thuyết pháp này rồi, trong hội chúng có vô lượng đại bồ tát chứng đắc tam muội Thanh tịnh vô cấu, liền từ chỗ ngồi đứng dậy; vô lượng trời người được sự không thối chuyển đối với Vô thượng bồ đề. Bấy giờ, tôn giả A Nan thưa với Phật rằng, bạch đức Thế Tôn, kinh này mệnh danh là gì, chúng con tiếp nhận và kính giữ như thế nào ? Đức Thế Tôn dạy tôn giả A Nan, kinh này tên là Rưới tắm chư Phật được thân thanh tịnh, tôn giả nên tiếp nhận và kính giữ như vậy. Đức Thế Tôn thuyết kinh này xong, tất cả đại chúng trong pháp hội đều rất hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhận và phụng hành.
23.06.2009
(Mùng 1 tháng 5 nhuần Kỷ Sửu)
[1] Kinh tập bộ, Phật thuyết dục tượng công đức kinh, Đai tạng kinh số 697. Bảo Tư Duy (693-706): Một trong 24 dịch sư đời Đường (618-907). Các dịch phẩm của ngài là: Phật thuyết dục tượng công đức kinh (ĐTK 697), Phật thuyết giảo lượng sổ châu công đức kinh (ĐTK 788), Đại đà la ni Mạt pháp trung nhất tự tâm chú kinh (ĐTK 956), Quán Thế Âm bồ tát Như ý ma ni đà la ni kinh (ĐTK 1083), Quán Thế Âm bồ tát Như ý ma ni luân đà la ni niệm tụng pháp (ĐTK 1084), Bất không quyến tác đà la ni Tự tại vương chú kinh (ĐTK 1097), Phật thuyết tùy cầu tức đắc Đại tự tại đà la ni thần chú kinh (ĐTK 1154), Đại phương quảng bồ tát tạng kinh trung Văn Thù Sư Lợi căn bản nhất tự đà la ni kinh (ĐTK 1181), Na la diên thiên cọng A tu la vương đấu chiến kinh (ĐTK 1281).
[2] Am la = am một la (Amra): Luật Thiện Kiến gọi trái xoài là trái am la.