Phạm Thiên Thư
KINH NGỌC (QUA SUỐI MÂY HỒNG)
Thi Hoá Tư Tưởng Kim Cang Kinh Vajracchedika Prajna Paramita Sutra
Chùa Khánh Anh Xuất Bản 1993
Nahi etehi yànehi gaccheyya agatam
disam yatthà
ttanà sudantena danto
dantena
gacchati
Dhammapada
nào nhờ xe
mây biếc
ngựa hồng tới
niết bàn
bè tâm trăng
bát nhã
vượt bến hoặc
mê sang
Thích Già Mâu
Ni
LỜI GIỚI THIỆU
Thầy Tuệ Không Phạm Thiên Thư một sinh viên tốt nghiệp Phật Khoa Vạn Hạnh đã có sáng kiến và can đảm thi hóa Kinh Kim Cương để cúng dường chánh pháp.
Tôi nói sáng kiến vì rất ít có Phật tử nếu không phải là chưa có, đã dùng thể thơ mà diễn đạt nghĩa chân không diệu hữu của Đại Thừa.
Tôi nói can đảm vì chỉ có tuổi trẻ mới can đảm làm những chuyện phi thường và thật là phi thường khi cả gan thi hóa bản kinh "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". Thật sự, xưa kia Đức Phật cũng đã dùng thể kệ (gàthà hay sloka) để thuyết pháp độ sanh. Thể kệ tức là thể thơ ngày nay vậy.
Gọi là để tán thán công đức thi hóa của thầy Tuệ Không, tôi ghi sau đây bài kệ bằng chữ Sanskrit. bản kệ này được dịch ra chữ Hán như sau:
Nhược dĩ
sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh
cầu ngã
Thị nhơn hành
tà đạo
Bất năng kiến
Như-Lai
Ye màm
rùpena càdràksurye
Màm ghosena
cànvaguh
Mithyàprahàna
prasrtà
Na mà
draksyatite janà
Thích Minh
Châu
Viện Trưởng
Viện Đại Học Vạn Hạnh
TỰA
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
Mầu nhiệm
thay Kim-Cương!
Lạ lùng thay
Kim-Cương!
Ước gì lòng tôi biến thành Kim-Cương để xóa tan biên giới Ta với phi Ta, để liễu ngộ sinh tử, để hết trụ vào Ta, cho cái tâm giải thoát.
Phải chăng đấy là cái Tâm "Ưng vô sở trụ mà sinh" nó đã dẫn dắt Huệ Năng về Tào Khê, nó đã làm cho Thái-Tông khoát nhiên tự ngộ vai trò lãnh đạo nhân dân "dĩ thiên hạ tâm vi tâm - dĩ thiên hạ dục vi dục". Vào sinh ra tử suốt cả một đời ngõ hầu thực hiện cái nghĩa vô tâm:
"Lưu thủy
hạ sơn phi hữu ý
Bạch vân xuất tụ
bản vô tâm"
Không có ý mà làm, với cái tâm không tâm ! Thật khó lắm thay ! Cao siêu thay !
Ở vào thời
mạt pháp, chính là thời khắp mặt đất mong cầu thánh chúa ra đời, Di-Lạc giáng
thế. Cho nên để dọn đường cho hành động vô tâm tưởng như chỉ còn tâm lý nghệ
thuật họa may làm cho con người tin tưởng vào Đạo Vô Cầu ở thế giới. Vì chỉ có
cảm xúc mỹ nghệ mới gợi đuợc ở lòng người ý vị Trang
Nhất thiết
hữu vi pháp
Như mộng huyễn
bào ảnh
Như lộ diệc như
điện
Ưng tác như thị
quán
Vậy thầy Phạm Thiên Thư đã cảm ứng mà thi hóa kinh Kim Cương Bát Nhã.
Nên lắm thay!
Gia Định nay tựa mồng một, tháng tư, năm Canh Tuất
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
Nguyên Khoa Trưởng
Đại Học Văn-Khoa
Nguyện cúng
dường kinh tạng thơ hoa
Trải tam thế mộng
một tòa sắc hương
Kiếp sau làm chim
trong sương
Về bay hóa độ mười
phương trời vàng
Phạm Thiên Thư
NGỢI KINH
thân như sương
đầu cỏ
tụ mười cõi trăng
sao
nhập dòng thơ thâm
diệu
mộng thức dưới hoa
đào
DÂNG KINH
cánh lan ngọc
cong cong
mười viền trăng
thu khuyết
hoa khép tay trầm
hương
qui-y tôn kính
Phật
MỞ KINH
giấy cỏ hoa mây
trắng
chép đôi dòng kinh
thơ
suối nào vi diệu
tụng
trang nghiêm cõi
Phật thừa
I
Mây hào quang
về hội
hoa suối cũng yên
nghe
pháp hội
nhân do
con chim thu
cõi tịnh
cũng về hội ta
bà
trùng trùng mây
mây biếc
hoa trải cúng
dường hoa
trong khu vườn
mai trắng
sương đọng mấy
từng hoa
sao tụ nước
xá-vệ
hương ngát mười
cõi xa
trên trụ đá mây
đỏ
trải chiếu cõi lưu
ly
Phật kết kim cương
tọa
chim tụng pháp
diệu kỳ
hai ngàn năm
trăm vị
tỳ-kheo rực
pháp-y
dưới thềm đá mây
nổi
dưới thềm hoa uy
nghi
II
Giữa rừng hoa
tịch mặc
Thoảng tiếng suối
thần rơi
Thiện hiện
khải thinh
giữa đại chúng
tịch mịch
hiền giả tu-bồ-đề
đứng dậy chắp tay
ngọc
hoa trắng trải
hoàng-y
vô ngàn, vô
ngàn năm
mây hương một lần
tỏa
vô ngàn, vô ngàn
năm
cõi ngọc nở sao
lạ
đức vô thượng
như-lai
chúng sanh cầu đạo
cả
chí an trụ nơi
đâu
pháp trừ tâm huyễn
vọng ?
III
hoa vàng khe đá
cũ
trang nghiêm cõi
đại thừa
đại thừa
chính tông
thiện nam như
ngọc trên đài sen
như hoa mai đông
một sớm nở
lắng nhuần sương
tụ mười cõi sao
chúng sinh cầu
đạo cả
như trăng hiện hư
không
hào quang vô lượng
biển
mười cõi sáng mênh
mông
nguyện độ hết
chúng sanh
loài sinh từ trứng
ngọc
loài sinh từ thai
hoa
loài sinh hồ suối
nước
loài hóa sinh cõi
trời
loài có sắc không
sắc
lãng đãng bụi vàng
rơi
loài có tưởng,
không tưởng
tan hợp thoáng mây
trôi
chúng sinh như
sương tụ
chúng sinh như mây
tan
mười cõi bóng mây
nổi
nhập vô-dư niết-bàn
vô lượng, vô biên
độ
mà không một chúng
sanh
đồng cùng như tánh
trí
từ biển lặng vô
minh
bồ tát thiên
chấp ta
của ta, rồi khác
ta
chấp chặt thọ gỉa
tướng
chúng sanh tướng
hằng sa
chưa thành bồ tát
đạo
IV
dặm mây hồng
muôn cõi
nào vì ngấn lệ
hoa
diệu hành vô
trụ
thực hành pháp
bố thí
chẳng chấp thức
căn trần
vô ngã vô sở
trụ
vô ngại cõi phù
vân
như mười phương
sao biếc
mười phương cõi hư
không
bố thí vô tướng
trụ
công đức chẳng suy
lường
bồ tát trụ tâm
ta
như trăng tụ sương
ngọc
như tĩnh lự mặt
trời
mạch sống mười cõi
nước
V
Phiến hoa mai
trắng nở
cửa động khép xuân
thu
như lý thực
kiến
dùng tâm thân
huyễn vọng
nhìn vạn pháp mây
trôi
thấy chăng như lai
tướng ?
chỉ thấy nước
trăng xuôi
thân tướng
không chân thực
gỉa dối bóng mây
đưa
vượt qua vô chướng
ngại
phương tiện như
lai thừa
VI
ba cõi ngọc lưu
ly
nở mặt rời không
tiện
chính tín hy
hữu
tu bồ đề tác
bạch:
đứng vô thượng
pháp vương
chúng sinh có tin
thực
cửa trí huệ chân
thường
người tu trì phước
huệ
nguyện phát thanh
tịnh tâm
tin pháp ngọc chân
thực
muôn xưa thiện
kiếp trồng
vô lượng kho châu
ngọc
nghiệp đức tụ trăm
sông
không chấp vạn
hữu tướng
ngã, pháp, sạch
tâm không
chính pháp như bè
ngọc
dùng qua ngọn suối
hồng
chân đến bờ vi
diệu
bè cũng thả xuôi
sông
VII
mây hồng kết
giải suối
nào cần thuyền
trăng đưa
vô đắc vô
thuyết
nầy hiền gỉa bồ
đề
diễn bầy ý chân
thực
tôi được chính
pháp chăng ?
và trao quyền pháp
ý ?
không pháp nào
vô thượng
phương tiện, phương
tiện thôi!
ngài chưa thuyết
một pháp
vì tánh chẳng y
lời
đạt ý, như thực
ý
lìa lời, như thực
lời
đạt trí, như thực
trí
ý, lời ngọn sóng
khơi
vô lượng hiển
thánh tăng
pháp vô vi tu
hành
từ chân tâm vắng
lặng
sái biệt độ quần
sanh
VIII
tặng trùng hoa
giọt ngọc
nào bằng thơ đại
bi
y pháp xuất
sinh
người đem biển
châu ngọc
vô lượng núi lưu
ly
rộng cho muôn cõi
nước
khắp cỏ hoa phù
đề
công đức vô biên
lượng!
chưa bằng tụng một
dòng
kim cương biển trí
tuệ
hoặc diễn vi
diệu thơ
cúng dường nhất
thiết tướng
vì vô lượng
Như-Lai
từ phẩm kinh ngọc
này
chứng vô thượng
chính giác
phật pháp, không
phật pháp
mới tạm gọi phật
thừa
thế gian tức phật
pháp
nhuần làn giải
thoát mưa
cỏ cây trổ hoa
ngát
IX
cõi đất hồng mã
não
nở muôn chúng hoa
thơm
nhất tướng
vô tướng
thánh quả
tu-đà-hoàn
gọi nhập dòng giải
thoát
chẳng gọi
tu-đà-hoàn
vì thực không quả
đạt
như đầm sâu bùn
tanh
ngại vì hoa trổ
ngát
thánh quả
tư-đà-hàm
còn một lần sinh
tử
chẳng gọi
tư-đà-hàm
vì chẳng nơi lai
khứ
như ao bợn bùn
nhơ
khóm sen xanh
thường trụ
thánh quả
a-na-hàm
chẳng trong vòng
dục-giới
không gọi
a-na-hàm
vì chẳng nơi ngăn
ngại
muôn cõi một cơn
mây
mưa từ vô lượng
trải
thánh quả
a-la-hán
bậc an trụ niết
bàn
chẳng là
a-la-hán
vì ngã, pháp mây
tan
như mặt trời thanh
tịnh
muôn cõi giáp tâm
đan
nay con tu tịch
tịnh
vắng lặng như hư
không
nên chẳng gọi tịch
tịnh
vì động tĩnh ngoài
vòng
X
một bông hồng
tịnh mặc
trang nghiêm cõi
bụt vàng
trang nghiêm
phật độ
xưa hội Phật
Nhiên Đăng
tôi đắc pháp nào
chăng ?
ngài đắc vô sở
đắc
vượt ngã, pháp tâm
băng
vô lượng
bồ-tát-hạnh
cõi Phật làm trang
nghiêm
hạnh nguyện không
sở nguyện
trang nghiêm thực
trang nghiêm !
bồ tát khởi
sinh tâm
thanh tịnh như hư
không
vô nguyện, vô sở
trụ
viên mãn một tâm
đồng
như mưa khắp
phương cõi
riêng gì chốn tây
đông
XI
cao cao từng
mây biếc
sao kết dòng thơ
hoa
vô vi thắng
phúc
người phát tâm
bố thí
ngọc, sao đầy hư
không
vàng, cuộn long
giang cát
chưa bằng tụng
kinh này
hoặc kết dòng thơ
ngọc
vào mật ý như
lai
tạo vô lượng
nghiệp đức
vô lượng trợ thần
oai
vàng ngọc thêm
chấp chặt
tham si lệ đổ
hoài
thấm dòng thơ giải
thoát
cứu độ khắp trần ai
XII
trăng không lìa
đáy suối
sen trắng ngát đầm
xanh
tôn trọng
chính giáo
người diễn nói
kinh này
dù một câu đạo
vị
khắp cõi quỷ,
trời, người
cúng dường như
tháp Phật
tôn kinh này
nơi đâu
đó hào quang chư
Phật
trì tụng trang
ngọc kinh
tựu thành pháp bậc
nhất
XIII
y trụ trang
diệu kinh
lắng tan ba nghiệp
vọng
như pháp thụ
trì
hiền giả
tu-bồ-đề
dưới thềm mây đá
biếc
tôn kinh này tên
gì ?
phụng trì sao như
thực ?
này hiền gỉa bồ
đề
tên kinh gọi kim
cương
bát-nhã ba-la-mật
thụ trì như danh
trên
Phật thuyết
ba-la-mật
chẳng phải ba-la-mật
mới thật ba-la-mật
lìa tướng như thực
tâm,
phương tiện lời
biện biệt
chính pháp như
bè ngọc
phương tiện vượt
sông mê
bừng tự tánh
bồ-đề,
bè sông như thực
trí
vô cùng bụi nhỏ
vàng
khắp đại-thiên thế-giới
ông nghĩ bụi nhiều
chăng ?
vô lượng bụi vàng
này
cũng không nhiều,
không nhỏ
tạm gọi bụi vàng
thôi
Như-Lai gọi thế
giới
thế giới thực
không nơi
tạm gọi là thế
giới
như gợn mây đáy
nước
lìa bóng để nhìn
trời
mây mười phương
tan tụ
bóng nào có một
nơi
lìa kinh một chữ
nhỏ
tức xa như thực
lời
nệ chấp một câu
nhỏ
chân tướng mãi xa
vời
chấp sóng chẳng
thấy nước
vọng tâm mãi nổi
trôi
lìa sóng để thấy
nước
sóng, nước một
trùng khơi
vào, ra không ngăn
ngại
chân , vọng chẳng
riêng nơi
ba mươi hai
tướng quý
có thấy được
Như-Lai
bóng hoa in đáy
suối
nào biết thực hoa
mai
chẳng nệ tướng mây
nổi
sá gì nghĩa
Như-Lai
người mang vô
thủy kiếp
như đáy cát sông
trong
phát đại nguyện bố
thí
như người chuyển
kinh này
in tụng dòng thơ
nhỏ
hoặc diễn giải
thoát thơ
chúng sinh vô
lượng độ
phúc đức ngút mây
mờ
XIV
cánh cửa ngọc
vi diệu
mở tụng mười cõi
sao
ly tướng
tịch duyệt
mười phương
trời châu ngọc
thắp sáng từng lời
kinh
xuôi về biển trí
tuệ
hiền gỉa tu bồ
đề
đức vô thượng
Như-Lai
mở cửa ngọc vi
diệu!
con từ vô thủy
nay
mới nghe kinh mầu
nhiệm
ý tuyệt vời mây
bay!
có người nghe
mật nghĩa
vào biển thanh
tịnh tâm
khởi tướng vàng
chân thực
tựu thành đức hy
hữu
thật tướng, tức
không tướng
mới là thâm mật
thân
thật tánh, tức
không tánh
thân, ý nắm phù
vân
nay con được
thụ trì
nương từ âm thần
lực
thâm hiểu ngọc
vàng kinh
để vào
Như-Lai-Ý
vô lượng kiếp
kiếp sau
người tụng đôi lời
ngọc
phát tâm vô lượng
từ
tựu thành nhất
thiết đức
lìa gỉa ngã
huyễn vọng
chẳng nệ tướng tụ
tan
chúng sinh nguyện
độ hết
địa ngục chuyển
niết bàn
sau nghiệp
chúng sâu dầy
có người tụng kinh
ngọc
sợ hãi chẳng sinh
lòng
vì tịnh không ngã,
pháp
hy hữu, hy hữu
thay!
đệ nhất
ba-la-mật
chẳng phải ba-la-mật
mới thật ba-la-mật
nhập thể tánh tròn
đầy
xa lìa ngôn tự
thuyết
nhẫn nhục
ba-la-mật
mê, ngộ chẳng xa
lìa
ngã, pháp thể
không lặng
cầu gì bên bờ
kia
tiền thân tôi
một kiếp
từng bị Ca-Lợi
vương
hành hạ cắt thân
thể
tâm chẳng sinh
giận buồn
vì ngã, pháp không
lặng
lại nhớ thủa
quá khứ
tôi là vị tiên
tu
nhập đại hạnh nhẫn
nhục
ngã, pháp tướng xa
lìa
người cầu đạo
bồ đề
phát tâm vô lượng
độ
lìa gỉa tướng mây
hồng
bố thí vô sở
trụ
chư tướng,
không thực tướng
chúng sinh, không
chúng sinh
lời chân như bình
đẳng
không dối trá mảy
may
khởi hạnh
nguyện bố thí
chưa lìa tướng
huyễn mê
như người trong
ngục đất
quờ quạng có thấy
gì !
khởi hạnh
nguyện bố thí
chẳng vì sự, tướng
mê
như người mở mắt
sáng
dưới mặt trời lưu
ly
thấu rõ pháp chân,
vọng
mai sau có
người nào
thụ trì phẩm kinh
ngọc
vào biển trí
Như-Lai
tựu thành vô lượng
đức
XV
giọt sương đọng
đài sen
ảnh chiếu ba cõi
bụi
trì kinh
công đức
có người đem
thân mệnh
như phù sa hồng
hà
bố thí muôn ức
kiếp
có người trộm nghe
kinh
khởi lòng tin
thanh tịnh
đức vô lượng vô
biên
hơn đại nguyện bố
thí
trải thân ngọc tam
thiên
vàng ngọc đắp ngục
tối
dòng kinh mở não
phiền
vì người khởi
đại tâm
phát nguyện tối
thượng thừa
tôi mở pháp vi
diệu
ai đọc tụng thọ
trì
diễn giải chân
thực ý
vào biển huệ lưu
ly
tựu thành vô lượng
đức
là chuyển đạo
Như-Lai
cứu người trong
lửa vực
người chấp
trược ngã kiến
chúng sinh, thọ
gỉa kiến
như tù ngục trong
thân
đối với kinh ngọc
này
không thụ trì tụng
đọc
chẳng thấy pháp
NhưLai
chìm sâu dòng suối
độc !
nơi nào mở kinh
này
ngâm tụng dòng thơ
nhỏ
khắp cõi quỉ trời
người
cúng dường vô
lượng độ
như kim thân
Như-Lai
như tháp thờ xá
lợi
thường tại giữa
mây bay
XVI
vô cùng trăng
sao vỡ
vô cùng bọt nước
tan
năng tịnh
nghiệp chướng
người trì tụng
kinh này
bị người khác
khinh chê
vì nghiệp trước
sâu dầy
nay nghiệp tội
tiêu tan
khởi phát thanh
tịnh tâm
chứng vô lượng đạo
quả
như sen ướp, trầm
xông
trải qua vô
lượng kiếp
tôi theo Phật
Nhiên Đăng
cúng dường vô
lượng Phật
công đức chẳng so
bằng
người tụng phẩm
kinh ngọc
nghĩa thâm diệu
suy tầm
ngã, pháp thể
không tịch
thực chứng đạo
viên dung
XVII
rửa tay tam
giới mộng
sông cuộn bụi vàng
rơi
cứu kinh vô
ngã
Hiền gỉa
tu-bồ-đề
trải tọa cụ lưu
ly
chắp tay lan bạch
ngọc
tán thán pháp diệu
kỳ!
đức vô thượng
Thế-Tôn
truyền tâm đạo
Bồ-Đề
pháp nào ý an trụ
?
pháp nào đẹp huyễn
mê ?
người thiện
nam, thiện nữ
khởi tâm đại
Bồ-Đề
hết thảy chúng
sinh độ
chúng sinh diệt độ
rồi
như không một
chúng sanh
mê, ngộ vô sai
biệt
đồng tánh trí tựu
thành
tu-bồ-đề hiền
gỉa
ý ông nghĩ thế nào
?
tôi theo Phật
Nhiên Đăng
chứng đạo vàng vô
thượng ?
như mật ý Như
lai
xưa Nhiên Đăng
Phật hội
chẳng một pháp
ngoài tâm
không chính đẳng,
chính giác
nếu một pháp
ngoài tâm
tôi vào vô thượng
giác
cổ Phật Nhiên Đăng
nào
thụ ký sao thành
Phật:
hiệu Thích Ca Mâu
Ni
bồ tát chấp ngã
tướng
huyễn tướng khởi
trùng trùng
như mắt quáng hoa
không
chưa thành bồ tát
đạo !
thực ra không
pháp nào
khởi tâm cầu vô
thượng
thực ra không pháp
nào
gọi chính đẳng
chính giác
xưa nay đạo
không lặng
mê, ngộ chẳng
ngoài vòng
một tâm giáp mười
cõi
biển lặng bóng
trăng trong
Như-Lai là diệu
nghĩa
như như vạn pháp
thường
xưa nay không một
pháp
như bóng chớp hoa
sương
không một pháp
bồ tát
không ta cũng
không người
không trang nghiêm
cõi phật
mật nguyện hoa
vàng tươi !
làm trang
nghiêm cõi Phật
tức trang nghiêm
cõi người
ngã, pháp bóng mây
nổi
vào ra dòng nước
xuôi
XVIII
một thể nước
thanh tịnh
mây sương suôí
biển đông
nhất thể
đồng quán
hiền giả
tu-bồ-đề
diễn bày ý chân
thực !
tôi có nhục nhãn
chăng ?
quả ngài có nhục
nhãn
hiền giả
tu-bồ-đề
diễn bày ý chân
thực !
tôi có thiên nhãn
chăng ?
quả ngài được
thiên nhãn
hiền giả
tu-bồ-đề
diễn bày ý chân
thực !
tôi có tụê nhãn
chăng ?
quả ngài có tụê
nhãn
hiền giả
tu-bồ-đề
diễn bày ý chân
thực !
tôi có pháp nhãn
chăng ?
quả ngài chứng
pháp nhãn
hiền giả
tu-bồ-đề
diễn bày ý chân
thực !
tôi có Phật nhãn
chăng ?
quả ngài có Phật
nhãn
vô lượng số
sông hồng
vô lượng cát phù
giang
như vô lượng cõi
Phật
vô lượng tâm chúng
sinh
tôi đều như thực
quán
tướng đồng dị mang
mang
hoá sinh vô lượng
kiếp
không ngoài tâm
viên đồng
thể không sanh,
trụ, diệt
XIX
mặt trời trí
huệ sáng
mười cõi một tâm
không
pháp giới
thông hóa
bố thí vô lượng
ngọc
bằng tất cả tam
thiên
phúc đức nhiều vô
lượng
từ một đại nhân
duyên
nếu như phúc
thật có
chẳng thể lượng ít
nhiều
vì vốn không thật
có
phương tiện nói
bao nhiêu
nghiệp duyên
như sóng nổi
phúc đức như bọt
trôi
khi gío yên biển
lặng
tìm đâu bọt giữa
khơi
XX
lìa sương un
bọt nổi
tâm hiện một dòng
trong
ly sắc ly
tưởng
nhờ kim thân
đầy đủ
có thấy tướng
Như-Lai
không qua thân mây
nổi
mà thấy đức Như
Lai
gọi sắc thân
đầy đủ
nào phải sắc thân
thường
mới gọt thân đầy
đủ
huệ đức tạng Kim
Cương
qua vạn tướng
tốt đẹp
có thấy được
Như-Lai ?
không qua tướng
mây gấm
mà thấy dấu
Như-Lai
đầy đủ tướng
tốt đẹp
không phải tướng
tròn đầy
mới tạm gọi đủ
tướng
như bóng suối chim
bay
như hoa nổi hư
không
như mây chìm đáy
nước
lìa sắc tướng, tâm
không
chẳng tìm đâu một
bước
XXI
không lời vàng
thức ngộ
tâm thể có mê
đâu
phi thuyết
sở thuyết
người chấp
Như-Lai pháp
là không hiểu
nghĩa mầu
nghe pháp không
chấp pháp
cầu pháp không
người cầu
tôi hằng phương
tiện thuyết
mê ngộ có xa
đâu
vô lượng kiếp
kiếp sau
người khởi tâm
thanh tịnh
biết cầu đạo nơi
đâu ?
tìm mộng trong
giấc mộng
người mê, chẳng
thấy mê
xưa nay không ngã,
pháp
tìm đâu lối bồ
đề
XXII
mở mắt dứt mộng
lớn
mê ngộ chẳng đôi
bờ
vô pháp khả
đắc
đức vô thượng
Như-Lai
tâm không chỗ sở
đắc
đạo cả chẳng trong
ngoài
nào có được mảy
may
không một pháp
vô thượng
chẳng cho cũng
chẳng cầu
không hư, cũng
không thực
mới gọi pháp nhiệm
mầu
XXIII
tâm mười cõi hư
không
nẻo vào đâu lối
ngõ
tịnh tâm
hành thiện
pháp như như
bình đẳng,
không thấp cũng
không cao
vô ngã, vô thọ
gỉa
vô nhân, vô chúng
sanh
do tu vạn pháp
lành,
nẻo vào vô thượng
đạo
pháp lành,
không pháp lành,
dùng pháp, không
nệ pháp.
lợi lạc khắp chúng
sinh
niết bàn vô thượng
đạt.
XXIV
tiếng chuông
vàng thức chúng
cõi mộng thoảng tơ
sương
phúc trí vô
tỷ
có người dùng
báu ngọc,
góp triệu dãy trường
sơn.
rộng cho đến côn
trùng,
phúc đức vô lượng
bể.
không bằng một
dòng kệ,
trì tụng hoặc diễn
bầy,
ca ngâm kinh ngọc
này,
khiến bừng tam
giới mộng.
nghiệp đức nước
nghìn sông,
cứu độ nhất thiết
khổ,
cúng dường Phật
mười phương.
XXV
mưa ngọc trải
mười cõi
vô lượng chúng hoa
thơm
hóa vô sở
hóa
các ông chớ bảo
rằng
Như Lai độ chúng
sinh
vì ngã, pháp không
tịch
nhân duyên tự độ
mình
mình là đảo ngọc
sáng
giữa biển vọng vô
minh
mình, mắt xích
phiền não
độ người tức độ
mình
Như Lai tạm nói
ngã
chỉ phương tiện
giải bày
kẻ mê chấp thật
có
như lặng suối tìm
mây
XXVI
vàng vàng hoa
mướp nở
mang mang hạt bụi
rơi
pháp thân
phi tướng
ba mươi hai
tướng ngọc,
chẳng quán được
Như-Lai.
dùng sắc không thấy
Phật,
pháp thân nào
trong ngoài.
dùng thân vàng
thấy Phật,
dùng khánh ngọc
cầu ta,
người đó lạc tà
đạo,
đũa ngọc gắp sao
tà.
XXVII
ngọn suối sương
un trắng
rì rào bọt nước
xô
vô đoạn vô
diệt
xa lìa thân huệ
ngọc,
nên chứng đạo bồ
đề.
từ ý đó cầu
đạo,
vạn pháp diệt tan
đi.
vì phát tâm vô
thượng
không chấp pháp
đoạn trừ
xá chi mây tan
hợp,
chân thực tướng
như như.
XXVIII
vào ra cơn mây
nổi
áo rũ bụi vàng
rơi
bất thụ bất
tham
bồ tát dùng thơ
ngọc,
như cát nổi cửu
long,
vô lượng kiếp bố
thí.
có vị chứng pháp
không,
được tạo thành
pháp nhẫn.
công đức kể vô
cùng,
hơn núi vàng biển
ngọc.
vạn pháp không
thật ngã,
hòa hợp đốm mây
xanh.
chẳng tham chấp
phước đức,
không hưởng phước
quả sinh.
tâm ngọc không đắm
nhiễm,
tròn tịnh nhật
quang minh.
XXIX
chân khỏa ngọn
suối trong
tan mấy từng sao
biếc
vô nghi vô
tĩnh
có người chấp
Như-Lai,
là như lui, như
tới.
là như nằm, như
ngồi,
thật không hiểu
nghĩa nói,
Như-Lai không
đâu lại,
không do nơi nào
đi.
Như-Lai như thực
trí,
vì khởi ngộ tan
mê.
ngã, pháp thể
không tịch,
không đi cũng
không về.
XXX
một ngọn suối
cát trắng
thả mười cõi mây
bay
nhất hợp ly
tướng
nếu có người
thiện nam,
đem đại thiên thế
giới,
nghiền nát như bụi
vàng.
ông nghĩ bụi nhiều
chăng ?
tu-bồ-đề tác
bạch:
vô cùng hạt bụi
vàng
vì nếu bụi có
thực,
Như-Lai không nghĩ
bàn.
thực tướng lìa
ngôn thuyết,
ẩn dụ ý mang
mang.
những hạt bụi
nhỏ đó,
tức không phải bụi
vàng,
mới thật là bụi
nhỏ.
Thực tướng khó suy
bàn,
chẳng chấp phương
tiện thuyết,
ba nghìn cõi
đại thiên.
không ba nghìn thế
giới,
mới gọi đại tam
thiên.
vị thể không biện
biệt.
nếu cõi kia có
thực,
hình tướng hợp như
mây,
một hình tướng hợp
lại,
tức không phải
tướng này.
mới gọi tướng hợp
lại,
nhân duyên giấc
mộng vầy,
như ánh chớp trời
ngọc,
như thoảng nắm
sương bay.
hình tướng mây
tan hợp,
lời không thể nghĩ
suy.
lòng tham chấp sự
tướng,
nghe thêm chẳng
ích gì.
như dưới cầu nước
chảy,
vừa đó đã qua
đi.
tôi thuyết,
phương tiện thuyết,
người nghe, không
chấp nghe,
bỏ quên lời bặt
ý,
tự hiện tâm bồ
dề.
mười phương nào
ngăn ngại.
XXXI
máu huyết cất
nhật nguyệt
một cõi ánh lưu
ly
trí kiến bất
sinh
nếu có người
cho rằng:
Phật nói ngã, nhân
kiến,
chúng sanh, thọ,
gỉa kiến,
có hiểu ý tôi
chăng ?
người nào đó
hiểu nghĩa,
phương tiện thuyết
Như-Lai.
lời nói không trọn
ý,
người nghe chẳng
vẹn lời.
vì tập kiến chấp
chặt,
càng xa nghĩa diệu
vời.
người phát tâm bồ
đề,
tin, thấy, biết
như thực.
chấp trược chẳng
sinh lòng,
thực chứng minh
huệ đức.
viên ngọc dấu
trong tay,
nghe lời, tin lời
thế
chẳng khởi tâm giữ
lời,
cốt lìa xem ngọc
thể.
niềm tin thoảng
bóng mây.
XXXII
một cành hoa
mai nở
trang nghiêm đồi
thông hồng
vô hóa phi
chân
có người dùng
mưa ngọc,
rộng cho khắp tam
thiên.
phúc đức vô lượng
bể,
chưa bằng viết
dòng kệ.
trì tụng hoặc diễn
bầy
ca ngâm kinh ngọc
này,
khiến tỉnh tam
giới mộng.
nghiệp đức nước
trùng dương,
cứu độ nhất thiết
khổ.
đền ơn Phật mười
phương.
người nhập kinh
diệu này,
xa lìa huyễn ngã
pháp,
vô ngại bóng mây
bay,
cúng dường nhất
thiết vật.
tự tại giữa vần
xoay,
thể như như bất
động,
trùng trùng
pháp hữu vi,
như huyễn mộng bọt
nước,
như bóng chớp
sương mai,
thường quán tưởng
như thị,
Phật nói kinh
này rồi,
hoa cúng dường
phơi phới.
chim tụng vi diệu
âm,
mây về mười cõi
giới.
trưởng lão tu-bồ-đề
tỳ khưu, tỳ khưu
ni,
ưu bà tắc bà
di,
khắp cõi quỉ trời
người,
hoa hỷ bừng pháp
hội.
KHÉP KINH
chẳng nương bè
trúc ngọc,
vượt qua suối mây
hồng,
con chim vô lượng
kiếp,
về tha trái nhãn
không.
ĐỘNG HOA VÀNG
chim từ
bỏ động hoa
thưa
người từ tóc
biếc
đôi bờ hạ
đông
lên non
kiếm hạt tơ
hồng
đập ra chợt
thấy
đôi dòng hạc
bay
Qua Suối Mây Hồng - phụ lục
NGÃ PHÁP MÂY NỔI
Tôi đang ngồi trên một chiếc ghế, một chiếc bàn viết gỗ nâu đặt ngay khung cửa sổ nhìn xuống khu đất cỏ xanh nằm xuôi hai bên con sông đọng nước tịch mịch. Khung cửa này là lối ngõ của hoàng hôn, của trăng sao, hoa cỏ và cả những tiếng chim lạnh buốt hắt vào tâm thức tôi mỗi chiều. Tất cả thế giới đó kết lại làm huyết bào nuôi dưỡng khí chất, nuôi dưỡng mảnh thân thể hiu hắt, rừng núi của những dù nấm hóa thân làm tinh tú mỗi đêm. Tôi , nuôi dưỡng tạo vật trong mình, cưu mang tất cả nhật nguyệt mất máu ... Tôi tựu thành con xoáy khủng khiếp của vô lượng hành tinh lấp lánh trong dòng ngân hà xa xăm. Tôi là một kết hợp dồn nén của tinh lực vũ trụ, của những dải mây huyền bí nhất, những mạch nguồn sâu thẳm nhất như bầy ngựa xanh chuyển vó, như ngàn ngàn con sông mang hoa lá dồn về. Tôi là đại dương nơi bão gío hát ca, nơi tụ đọng lớn lao của nước mắt loài người.
Những ống máu trong tôi cuồng nộ như trăm ngàn dòng Hồng Hà mang cát đỏ nuôi dưỡng hình hài.
Trái tim tôi: Một nửa là cao nguyên Tây Tạng, nơi nghi ngút tuyết bay, nơi tím ngắt mặt trời, và một nửa là vực sâu của đại dương. Mỗi nhịp đập là lãng đãng mây bay, là gầm gừ biển lớn, là muốn xô nghiêng cánh cửa Âm, Dương, là vẫy gọi mặt trăng đầu thai vào mặt trời để trần gian chìm toàn thể trong bóng tối thân mật, vắng vẻ, vĩnh cửu của mọi nhãn pháp so đo.
Bây giờ thỏi nến vàng ệch lù mù trước mặt, chỉ đủ sức quyến rũ những con dế lang thang, những cánh bướm bỏ sương mù vào sưởi ấm. Tôi rất quý những bạn láng giềng này, những khúc ca, những cuộc chơi rong trọn kiếp, mà không bao giờ tìm thấy giữa loài người. Tất cả mọi tiếng ca chỉ còn lại trong tiếng rú thống thiết của ý thức thất bại. Tất cả mọi bước chân rong ruổi là những bước chạy trốn tù ngục tự thân. Cũng dưới ngọn lửa này, những trang kinh càng trở nên héo úa, những trang giấy nghi ngút tà dương. Mỗi phiến giấy thơm trở nên một chiếc lá khô xào xạc, những chiếc lá cuối mùa của một cồn rừng gìa thâm u vắng vẻ. Những nét chữ cổ hiện thân từng đốt xương mục, từng nghành củi đeo đét thì thào, từng cỗ xương chim rã nát, từng mảnh sỏi vô hồn ... Tất cả chỉ còn là bèo bọt lênh đênh trên cơn hồng thủy ý niệm dâng ào ạt trong tôi. Tôi hú gọi mật nghĩa về nhập xác. Tôi chuyển tinh năng vào từng ngữ ngôn hồi sinh. Tôi kết tinh tú lại làm dòng kinh thơ nhật nguyệt. Tất cả bừng sáng trên một tâm địa huy hoàng. Mỗi dòng kinh Kim Cương là một suối tóc biêng biếc hiu hiu, là sợi mưa thu lãng đãng, là một lấm chấm hoa đào, là sợi hương thơm tan loãng từng mây, là dế đá ngủ giữa mặt trăng và đàn ca não nuột, là Nhị tướng giao nhau đẻ ngược ra Đấng vô cùng. Tôi gọi hồn thiên thu nhập với gang tay. Tôi chiêu vía vô cùng hiện giữa sương bụi. Tôi đốt xác hoàng hôn làm triêu dương mở mắt.
Mỗi dòng kinh thơ, là một mạch máu. Mỗi mạch máu là dòng tinh khí mặt trời, là một hơi thở bão tố. Tôi thở bằng kinh thơ, cưu mang từng túi phổi. Tôi đâm nổ ý thức tôi cho những dòng kinh vọt ra như vô vàn cây mống trời. Nút xoáy tinh lực không còn, tôi vỡ tung như trăm ngàn mảnh mây hào quang kiêu ngạo vỗ cánh vào vũ trụ. Mỗi chữ, mỗi nét mực xanh là mỗi cô đọng tinh lực vũ trụ. Sức mạnh của một biển cả thu gọn trong nét chữ bùa chú ngàn cân dưới cán bút ấn quyết xẻ núi. Tôi chỉ còn là kết hợp tạm bợ của sa mạc ý niệm, nằm chờ tiếng réo huyền bí của gío rừng tóc vô lượng dòng kinh. Tôi còn vô lượng chiếc kén tơ của con tằm đang mọc cánh thoát hình vỗ cánh ra đi làm trăng sao vằng vặc.
Bây giờ đúng ba giờ đêm. Mỗi vị sư là mỗi thế giới tịch mịch, mà mỗi gian phòng là những cảnh giới vũ trụ riêng biệt. Quí thầy ngủ yên ấm như một bóng trăng hiền từ trong giọt sương. Chỉ còn tôi và dòng sông dưới kia vẫn tỉnh thức cô quạnh. Tôi phải thức với dòng sông, thức vĩnh cửu cho dòng sông chảy mãi, tôi chợt bâng khuâng trước một bóng bóng dáng trên tường. Không đó chỉ là chân dung của tổ Bồ-Đề vác thuyền trượng khai thị trên vai, treo chiếc giầy cỏ vi mạt vô minh như một chấm than chênh vênh cuối cùng; chiếc giầy duy nhất đạp lên Nhị tướng để lìa cả sự ra đi. Trở về và ra đi cũng chỉ là sự gỉa danh, chỉ sự lênh đênh của cuộn mây trắng. Trở về chỉ là sự ra đi trùng sinh, sự ra đi nhập diệu, vì hoàng hôn bên này là triêu dương bên nọ, cũng như lá cờ vĩnh cửu chỉ tung bay trong nhận thức, dòng sông chỉ chuyển dịch trong huyết mạch, bia mộ chỉ là bia mộ của ảo tưởng thường tại; ảo tưởng này là biến chứng của tâm bệnh tham chấp và mê loạn.
Sự chết không phải là sự trở về mà là sự ra đi đột biến, sự vượt cầu vào mây khói. Cây cầu lửng như là dấu nối ngắn ngủi giữa hai đầu của sự vô cùng - là một ảo giác hiện nổi lên giữa vô cùng tím ngắt cỏ hoa. Cỏ hoa là hiện thân của vô cùng vi diệu. Kẻ yêu cỏ hoa là kẻ đi vào vô cùng. Tình yêu là chân tướng của vô cùng - chim non trong hốc cây - Mẹ dậy tiếng hót trìu mến - Ngụ từ bất tuyệt thiên thu. Ngụ từ là liếc mắt mầu nhiệm. Ngụ từ là ngọn tóc bâng khuâng. Ngụ từ là tiếng em nước suối. Ngụ từ là tiếng bồ câu gù nhau trong hốc cây. Ngụ từ là con chim nho nhỏ tha cỏ lên cành. Ngụ từ là câu hỏi vu vơ: Sao em áo xanh đã vàng lệ đợi. Ngụ từ là muôn về trong một. Ngụ từ là ngôn ngữ tinh nguyên. Ngụ từ là nụ cười mầu nhiệm. Ngụ từ là ẩn tích của ngôn ngữ. Ngụ từ là ngụ từ.
Kẻ lữ thứ qua cầu, muốn mau qua cầu như một cơn mưa thu, vì đường còn xa, còn bao nhiêu núi cao mây trắng cám dỗ, còn bao nhiêu cồn hoa suối mát đợi chờ, rồi đến một thị trấn nào đó ít lâu lại làm lại cuộc ra đi. Vì máu huyết thường hằng sôi động ra đi. Tôi rất thèm những chuyến xe chợ xọc xạch, vừa mang tôi đi, vừa dằn vặt tôi, cũng như tôi vừa ra đi vừa dằn vặt mình trọn kiếp. Tôi chán ngán hết mọi tỉnh lị. Tôi thèm một chỗ ngồi bên cửa xe, hút một cối thuốc, nhìn lên cây cao lãng đãng sương dài theo cỗ xe dong duổi tìm kiếm mảnh mặt trời vàng cuối núi. Tôi chỉ thèm chuyển dịch. Khinh thị những phố núi, đèo mây, những viện rượu ven rừng ngừng nghỉ. Nhổ nước bọt vào những ga mưa, chợ phố, những hang hốc cư ngụ. Tôi sống trọn vẹn bằng máu huyết ca hát lên đường. Chỉ có ra đi mới giải thoát. Giải thoát sự giải thoát mới giải thoát. Ra đi là bản chất của dịch hóa vũ trụ. sự ra đi cuối cùng, sự ra đi tột đỉnh là ra đi của sự ra đi, ra đi trong nỗi không tịch sấm sét.
Một chiều, có lẽ vào một mùa hạ thật xa, ngày ấy như một cánh chim biếc đã rụng xuống ven núi rũ xương. Tôi cắp tấm nhựa về một ruộng lúa ngoại ô, nằm hút thuốc nhìn trời, việc nhìn trời cao đối với tôi cũng cần thiết như đóa hoa, sách quý, trông cây và như hai bữa cơm rau thanh đạm. Tôi chợt thích thú đón xe đi Vũng Tầu và tìm được chuyến xe cuối ngày lưa thưa hành khách. Thế rồi cỗ xe chợ gìa cũng vừa kịp thả tôi xuống thành phố cùng với vừng sao đêm chi chít trên bãi biển. Tôi vời khung xe gỗ ngựa chất đầy bóng tối về phía bãi sau. Vó ngựa lọc cọc rơi mưa trên con đường cheo leo lưng núi. Tôi bỏ xuống chọn một quán ăn có cây đèn gío vàng ệch trên tường. Gọi một phần ăn, một ly rượu nâu đậm, một phin cà phê rồi ngả lưng nhồi cối thuốc hút nhìn biển. Biển đêm trở thành cây dương cầm gỗ huyền hoặc. Những ngọn sóng rì rào trong hốc đá, những ngọn gío hú vi vu cuồn cuộn chung quanh. Những bờ cây nào rũ tóc. Những đỉnh non nào le lói trăng sao. Biển chỉ còn những tiếng khóc, những tiếng thổn thức, tiếng nấc nghẹn thống thiết, tiếng nguyền rủa thì thầm, tiếng hát ca man rợ. Biển là hiện thân của sự đau khổ chất chứa; nơi tụ đọng tất cả nước mắt loài người và trùng thú. Biển là dấu chấm hết vĩ đại nhất của thiên thu, cũng như giếng mắt huyền nhiệm của xử nữ, nơi vắng bặt sau cùng của mọi bản anh hùng ca chuyển núi. Biển là nước mắt kết thành tiếng khóc, tiếng khóc tự kết thành nước mắt. Nước mắt tự vỡ ra âm thanh não nuột. Biển là vũng máu thiên thu, vũng máu vô ngàn năm tím ngắt. Biển là giọt máu duy nhất còn lại, chứng tích của cuộc ám hại, sau khi tên sát nhân vĩnh cửu xa bay. Biển là cỗ trống đồng meo mốc thúc giục mây xám lên đường. Biển thường xuyên tung tín điều cho loài người man rợ. Biển quyến rũ máu huyết hát ca. Biển là thông điệp thăm thẳm của thông điệp và sấm dậy; vắng vẻ ghê rợn và bùng nổ kinh hoàng. Hỡi con nước bất mãn kia. Ta vứt xuống ngươi một cọng râu khinh thị. Hỡi dấu chấm câu hun hút kia. Ngươi nhỏ xuống lưng chúng đời sống như một dòng văn ngô nghê. Hỡi thông điệp mê hoặc kia. Ngươi chỉ cần thiết cho những ngọn núi rầu rĩ. Hỡi thủy huyệt huyên náo kia, hãy trả mây trắng hồi sinh, hỡi bầy ngựa thiên thu kia. Hãy hò hét lên đường. Hỡi trùng dương sương muối kia hãy đổ xuống nụ cười thêm mặn.
Tôi ngạo nghễ đứng lên trong những cử chỉ và khuôn mặt thật thô, bỏ xuống bãi cát theo dấu chân một suối tóc thủy quái về cuối bãi. Thân lau sậy đó đã mất hút từ khi cây đèn bão vàng ệch tắt phụt trên cột quán lần thứ nhứt, cũng như viền trăng lúc đó mất hút trong cơn mây đen ào bay. Một con chim nào mất dấu trên bầu trời, một tiếng chim nào chết đuối trên biển động. Dấu chân thứ nhất. Dấu chân thứ hai. Dấu chân thứ ba. Dấu chân thứ tư. Dấu chân thứ năm, thứ saú.... Dòng chân hiện ra cùng với mảnh trăng trên bãi cát, tôi gián tâm thức vào cuộc truy tầm dấu tích. Dòng chân hút dài về cuối bãi. Tôi mãi theo và phát hiện thêm một dòng chân đậm hơn ngược chiều. Những dấu chân đực cái giao nhau chần chừ, rồi trở thành những xoáy cát sâu hoẳm. Tôi ngồi xuống nhìn đôi chân mình, đôi chân như hình ảnh cuộc sống, những dấu chân, những biểu tượng rơi rớt quẩn quanh. Hồi nhỏ, trước mỗi lần chui vào tấm phản gỗ hoàng tâm, đặt sau lưng khung cửa đất nhìn ra những tháp núi un sương ảo nghiệm, nghe tiếng dế gáy bùi tai, nằm thở hiu hắt với mảnh nguyệt đầu giường, mẹ tôi lại đem soi chân ra ánh trăng, nếu còn cát bụi là bế tôi ra con suối nhỏ đầu nhà, đem khỏa chân con xuống dòng nước róc rách, cho cát bụi xuôi theo con suối với sao đêm. Có lẽ từ những ngày mất hút đó cùng với ánh trăng nơi trang trại Đá Trắng; một cõi sương khói tít mù. Tôi đã lớn lên và đã bao lần rửa chân mà thật ra chưa một lần nào sạch cát: cát hồng, cát tía, cát xanh, cát bẩn tưởi, cát hào quang ... tất cả mọi thứ bám đầy chân và lấp dần huyết mạch, đóng sạn trong tim, tụ lại nếp óc làm nên sa mạc, một thứ sa mạc đầy bão nổi và xương ngựa khô. Tôi đã gián bao nhiêu dấu chân trên mảnh đất này. Những dấu chân thèm đất, hút nhựa sống từ lòng đất nuôi dưỡng tâm linh, chuyển vào đất những thất bại tức tưởi, gõ trên đất những âm động lao xao. Dấu chân đuổi theo những dấu chân. Dấu chân chạy trốn những dấu chân. Dấu chân khoan thai phỉnh gạt. Dấu chân sợ hãi chù chừ. Mỗi bàn chân là một ngọn cây cằn cỗi, một loại hoa xương rồng ngát hương. Mỗi ngón chân là một nụ sinh lực hồng hào, là một nhành hoa ngà ngọc. Mỗi người là một thân cây mọc ngược; gốc từ không trung, hấp thụ thanh khí nhật nguyệt, tinh chất cỏ hoa máu huyết biển núi. Mười nhành rễ chim bay, hút mật hoa hồng, uống suối ngọc thạch, hứng nhụy thông cao, mang thể chất vũ trụ vào sinh trưởng.
Tất cả mọi con đường đều hình thành bằng những dấu chân. Những dấu chân ngàn xưa còn nạm đá cẩm tỏa sáng. Nhũ+ng dấu chân hôm nay đặt lên con đường rêu phong đó; những phiến đá kết tinh nô lệ, những dấu chân hôm nay ra đi chẳng tự tại chút nào, dù mỗi người đều có ý thức rằng mình tự do một cách tù túng, mơ ước tự do một cách nô lệ.
Những dấu chân mờ dần trên bãi biển, rồi vô tăm tích dưới những đợt sóng đen tối. Cơn thủy triều đã dậy như một hàng dừa xanh. Dòng chân trên cát biển bây giờ hiện rõ trong tôi như một dòng mực, như những nét chữ kỳ diệu của trang kinh Kim Cương. Tất cả mọi con đường, mọi ước vọng, mọi vóc dáng, mọi khuôn diện chợt vắng lặng trong tôi như một con chim bay tấp vào cơn mây đen, như một lòng suối cát biếc không vẩn gợn mây đục, như giọt nước ôm trọn vầng trăng. Trong giếng khơi thanh tịnh đó chợt hiện lên một bông hoa tím ngắt, nhỏ như đầu kim, một đóm hoa rơi, một chấm hoa mùa thu của ký ức. Không đó chỉ là một bọt nước nổi lên, phản ảnh chùm sao ly ti, chùm Bắc đẩu le lói biến hiện.
Tôi chợt khinh thị tất cả tư tưởng, phẫn nộ với tất cả vách đá chiếm hữu mặt trời, độc quyền mặt trăng, ăn cắp tinh tú nghìn xưa, đè nặng bóng tối huyền nghĩa xuống tâm thức con người. Tôi muốn chẻ tất cả tượng gỗ xuống nhóm lại bếp lửa nhân gian cho mọi sự sống hò reo lên đường, cho nghìn suối mang hoa xuống non, cho trăm sông mang máu hồng về biển, cho trùng dương thả mây trắng phiêu bồng, cho rừng già thố lộ với núi cỏ, cho sỏi đá tình tự với chim muông, cho tinh tú nhào vào mạch máu, cho em hong tà dương từng ngọn tóc, cho anh vợi hoàng hôn trong mắt xanh, cho mùa đông cất cánh, cho thung lũng thay mầu, cho xuân thu đổi áo, cho tất cả chiến tranh, tất cả hình thái phơi sương nhòa lệ thực sự vắng lặng nơi mỗi người. Mặt trời phải sống dậy nơi mỗi người. Mặt trời không còn là xác chết, không là vụn đá, không là sa mạc ứ đọng huyết mạch. Mặt trời trùng sinh. Mọi con đường nổ tung. Mọi dấu chân tỉnh thức. Mọi bàn tay mọc cánh thăng hoa. Tôi đọc được mật nghĩa từ một dòng chân mất hút trên bãi biển.
Tôi đứng dậy bâng khuâng, và trọn đêm bới cát, đắp mũi tên vàng từ bờ xa cắm phập xuống biển xanh.
Sáng hôm sau tôi từ bãi biển thức dậy với mặt trời. Một con chim xanh đậu trên đầu mũi tên như một cầu lửng cát vàng bắc xuống biển. Con chim ca hát hiu hiu, rồi lao cánh mất hút trên sóng biếc như một mũi tên bích ngọc. Tôi tiểu tiện vào biển và nhặt một vỏ sò trắng, ôm giọt nước xanh trong kẹt đá với mặt trời rực rỡ ly ti. Tôi bỏ lên, tìm vào quán ăn rồi đáp xe về tỉnh.
Qua một kiếp sống nổi nêng, mỗi người đã vượt qua bao nhiêu cây cầu; một cây cầu trúc vàng, một cây cầu đá xám, một cây cầu tre La Ngà, một cây cầu ván thiên, một cây cầu sắt rỉ ... Bao nhiêu con cầu dựng lên để tiếp nối những dòng chân, những bước đi không bao giờ ngừng nghỉ, vì tư tưởng là ra đi, ra đi từ bản chất, ra đi trên những dấu chân, trên những nẻo đường ảo tưởng, những lối quạnh tàn trăng. Giấc mơ cũng là sự ra đi, ra đi trong dấu chân hoài niệm và thao thức. Chỉ có giấc ngủ say, giấc ngủ mệt thiếp, giấc ngủ chết lịm, giấc ngủ của Đạo gia, giấc ngủ của kẻ đau nhừ thất bại, và hoan hỷ trong sự thành công mĩ mãn nhất, tột đỉnh nhất của ý thức thất bại, đồng nhất trong sự thất bại ném tung gỉa ngã xuống cỏ, một giấc ngủ không lo nghĩ, không tham vọng, không chấp nhặt vì tất cả đều thất bại, vì nhất tức nhất thiết, vì nhất thiết tức nhất, vì cỏ hoa cũng là tứ chi, vì nước mắt tha nhân cũng làm mình rướm máu, mình khóc bằng máu, thở bằng nhịp tim, ăn uống bằng nhật nguyệt, cưu mang sự đau khổ loài người trên mỗi sợi tóc, trong mỗi chân lông, trên mỗi tế bào, trên mỗi vó ngựa ý thức trong rừng rậm tịch mịch, vượt qua khỏi bờ Nhân Ngã, nhẩy vọt vào đồng nhất với đại đồng. Chỉ còn lại một vầng trăng giữa thiên thu, giữa rừng tóc bồng bềnh mây nổi. Vừng trăng là nụ cười, nụ cười là con mắt, con mắt tịch mịch nhiệm mầu, con mắt nuôi nấng hào quang, con mắt cửa ngõ vào đại thể, con mắt cuối cùng của một nhân sinh xao xuyến. Con mắt đó vẫn ngủ êm trong mỗi người. Đó là giấc ngủ thanh tịnh nhất. Giấc ngủ cuối cùng ra đi, ra đi cả sự ra đi; mọi dấu chân xoáy tròn làm tinh tú, mọi tinh tú nổ tung làm mọi cõi giới châu ngọc lưu ly. Một giấc ngủ Không Tịch, gối đầu, duỗi chân trên hai đỉnh tuyệt vô song.
Nụ cười của Phật Thích Ca là thông điệp của sự thất bại ý thức. Tất cả quyền uy điện ngọc, và lòng thương yêu rộng lớn và trí sáng suốt vô cùng, và lòng dũng cảm vô biên và nỗi đau nhức vô lượng của chúng sinh, những bước chân lênh đênh cầu giải thoát những đạo sư ngủ gật trong rừng tối siêu hình ... Tất cả những tương quan hiện tượng đó, tất cả những cung bực mê loạn đó đã đưa Phật đến cuối cùng của sự thất bại và nhẩy vọt vào Tự Tánh Không của vạn pháp, nổ tung mọi thức tướng sai biệt, dứt vọng niệm, thể nhập vào tạng tính chân như, cho cây trải hoa cúng dường, cho chim diễn bầy vi diệu, cho trùng trùng tạng kinh luận mở cửa treo trăng.
Ngã pháp đều không tự tánh, nên chỉ là giả lập, gỉa tướng, một phương tiện hư ngụy để vượt hư ngụy; một bè trúc xanh nổi nênh qua ngọn suối mây hồng.
Viết trong đêm
đầu thu 1969
Pháp Vân Thiền
Viện
HIỆN HÓA PHÁP
Thầy Quảng
Trí
Mùa mưa năm nay lại về như một bầy câu trắng. Bầy chim mang theo những trái biếc; những cánh hoa và những rung động xào xạc. Trong cuộc đời chúng ta đã bao lần đuổi bầy mưa đi, gọi mây lớn về. Tâm hồn, mỗi kẻ đã biến đi mất hút bao nhiêu trận bão núi thổi tới, những xoáy gío hồng cuồng bạo, những cơn giông xanh nhẩy múa từ vách đá, từ đại dương, từ hốc sỏi, từ những ngọn cỏ, những cổ thư, những cửa hẹp, những đầu ngón tay, những suối mắt, những nụ cười, sợi tóc và kể cả những cơn mê loạn chính mình. Những cuộn gío dấy đất, rên xiết, hú hếu rồi mất hút tịnh yên trong một tâm giới không lặng. Trận bão nào cũng bắt đầu từ chính mình, và mất dấu từ chính mình. Những trận bão hằn lên thân thể như bao nhiêu đường roi xanh quận lại tâm thức như một ổ rắn lục. Tại sao chúng ta phải cưu mang ? Mỗi nét mi, mỗi nốt tay, mỗi nhành chân, mỗi lời nói và hơi thở, tôi thấy đều là rắn, đều là những mầm mống dấy động nổi loạn. Tại sao chúng ta không thả chúng xuống dòng sông ? Phải chăng chúng ta đã hoàn toàn bất lực, đã ung thối từ khi mới nở hoa, đã côi cút và bị tước đoạt bắt đầu từ một thức giới gỉa tưởng, đã mệt mỏi trên những bước thang hào quang bắc tới một thứ tuyệt đối hão huyền.
Trong mỗi chúng ta đều có sẵn những chốn ẩn trú, những cơn phố tịch liêu, những trạm ngựa ủ rũ, những ga sương tháng mười, những chợ khu âm động, những di chúc rầu rĩ còn ứ đọng trong máu huyết mỗi người. Chúng ta sống hoàn toàn bằng cái chết. Tất cả tử khí đó đã làm tê cứng gân máu chúng ta. Chúng ta chỉ còn lại một thứ xác khô canh giữ di ngôn trong ngôi cổ mộ thất lạc.
Tôi muốn ra đi tất cả, từ bỏ tất cả, như một lão đại hành khất, như một thiền sư vân thủy lang thang, như một con chuồn chuồn huyết dụ, như một vệt sao rơi, như một tia chớp giữa mộ đá tàn lụi. Tôi muốn ra đi khỏi những lời nói, những ý nghĩ, những tình cảm vụn vặt. Tôi muốn ra đi khỏi cả sự ra đi. Tôi muốn yêu mến thất bại để phá hủy mọi tham vọng. Tôi muốn sự từ khước cuối cùng đối với tất cả nơi trú quán siêu hình. Tôi muốn trở nên một tế bào reo ca trong cơ thể nhân loại. Tôi muốn đâm nổ con mắt, vì tất cả mọi bước chân sợ hãi đều bắt đầu từ con mắt. Tôi muốn ngả co dưới một lớp tuyết trắng. Tôi cũng thèm tư cách thản nhiên của vách núi. Tôi thèm cuộc rong chơi như nước xanh. Tôi muốn không còn mọi ước muốn. Nhưng tôi vẫn tìm kiếm trí khôn, quỉ biện, lảm nhảm ... Đó là mọi hiện tượng bạc nhược, hèn mọn nghiệp dĩ. Tôi vẫn lừa đảo mình trước cái chết bằng tất cả thành công và hạnh phúc bẩn tưởi. Tóm lại, tôi vẫn chuẩn bị cho sự nhắm mắt cuối cùng quá nhiều.
Tôi có thói quen tự nghĩ về mình. Trước đây ba mươi năm và lẻ một ngày, thì tôi chỉ là con tinh trùng nguyên sơ trong một môi trường trong suốt. Rồi, quán tưởng đến bẩy mươi năm sau, tôi lại nguyên vẹn còn một nắm xương mục giữa những rễ cây gặm mút chằng chịt, và bên trên một thảm cỏ xanh, những thiếu nữ đang vít cành, hái trái xương tủy tôi ăn thích thú. Từ nhãn quan này tôi trở nên yêu mến mọi người và tất cả đời sống đều trở nên khôi hài kỳ hoặc. Một lần, tôi đi xem cuộc đua ngựa, tôi chợt nổi cười nghiêng ngả: Tôi thấy gần hai chục con tinh trùng người cưỡi gần trên hai chục con tinh trùng ngựa phóng đua mãi miết, trước mấy trăm con tinh trùng đang hò hét và đánh cờ bạc; có con mặt hoa da phấn, có con đội mũ hút thuốc nghênh ngang. Ôi! Thật là khôi hài. Tôi lại chợt có ảo giác: chung quanh tôi, mấy trăm bộ xương trắng nhởn đang bầy cách gặm lẫn nhau. Ôi! Tôi muốn ù té chạy khỏi bãi chết ghê rợn này. Nhưng, tôi chợt nhận ra mình trong số đó, cũng chỉ là khung xương. Tôi chợt kinh tởm chính mình. Từ sự bắt đầu tạo dựng mỏng manh đến sự hủy phá cuối cùng bi thảm hiện đến trong tôi chưa đầy một hơi thở. Tôi chợt đứng ngoài dòng dịch hóa. Bên ngoài những hình thể gỉa tưởng và cảm thấy mình rỗng không tịch mịch; những cơn mây chiều dường như phiêu bạt trong tôi, như một đàn cá thu kéo về theo tiếng réo của trùng dương, khúc hát huyền bí của tâm thể.
Tất cả mọi khổ não đều bắt đầu từ ý thức. Sự giải phóng tối hậu phải là sự giải phóng con người ra khỏi gỉa ngã, và thiên chấp sai biệt. Con người vượt thoát hiện tượng giới tức là chuyển đổi tư tưởng giới, giải phóng mọi ràng buộc nô lệ, mọi định thức giáo điều, để bước vào ngưỡng cửa một tâm giới mới, an trụ ở vô trụ. Vô trụ mà thực ra dung hóa được toàn thể trở lực. Tôi cho rằng Hiện Hóa Pháp của người Việt hoàn toàn bỏ xa Biện Chứng pháp của Hégel; một thứ biện chứng duy lý, ngưng đọng dựa trên những đường xoáy ảo tưởng: một đầu là ngôi vị tối cao, một đầu là hư vô mở rộng. Hiện Hóa Pháp Việt Nam không dựa trên một định thức, một con đường nào, nên không chỗ bắt đầu và cũng không nơi cuối cùng, mà chỉ là cánh cửa mở tung nhận thức, đập tan mọi kiến chấp hư ngụy để đối mặt với thực tại ảo diệu, duyên khởi, toàn khắp và nhất như của dòng sống, "Khôn cũng chết, Dại cũng chết, Biết thì sống", "Khôn, Dại" là hai mặt của cuộc đời, là hai cực của tiêu chuẩn hành động, là hai vế của Nhị nguyên. "Cũng chết" là tự chuyển biến đắp đổi dung hóa lẫn nhau. "Biết thì sống" tức là vượt mâu thuẫn để điều ngự mâu thuẫn, nổ tung thiên chấp gỉa tướng, trực nhập dòng sinh hóa mênh mang, tan rữa mọi vực bờ Nhân Ngã, vắng lặng mọi tham vọng so đo, và dẫn đến Bình Đẳng Tánh Trí của muôn loài một vô môn quan dung thông Vô ngại. Đó là chìa khóa để mở cửa những bế tắc chiến tranh, là sinh mạch của nòi giống Việt: Hiếu hòa Hiếu sinh nhưng kiên cường tự chủ.
Mọi hình thái chiến tranh chỉ là chiến tranh của Quyền và Lợi. Mọi mê chấp Quyền và Lợi chỉ là sự sai lầm về nhận thức. Mọi kiến quan sai lầm chỉ là hậu quả của tâm bệnh bỏ quên bản chất và đánh mất thực tại. Vậy, đời sống lịch sử chỉ là một tiếp diễn đào thải và liên tục bắt đầu từ mỗi ý thức, mỗi cá nhân và mỗi thế hệ. Sự bắt đầu luôn luôn vươn tới sự tỉnh thức tự thân ra khỏi hang động ẩn trú của mọi nỗi sợ hãi, và lề thói trá ngụy trong một tinh thần dung hóa và sáng tạo truyền kiếp.
Tất cả mọi ngữ ngôn, mọi nhãn quan chỉ là không của hư Ngụy. Nó có thể đóng lại và cũng có thể mở toang vào Nhật Nguyệt. Chỉ khi nào không còn người nhìn ngắm Nhật Nguyệt và cũng không còn Nhật Nguyệt để nhìn ngắm, thì lúc đó không còn dụng tướng của cánh cửa và tâm thức trụ nhập với cỏ tím hoa vàng, đó là Nhập Pháp Thân Thường Trụ Như Lai.
Tôi viết những
dòng chữ này thực cuồng lưu. Tôi tự biết mình đang nốc từng đấu nước biển để
bốc lửa cơn khát. Những đấu nước có thể là máu, là nước mắt là mồ hôi của biển
xanh. Tôi tự biết những dòng chữ bất lực và hư huyễn này không kêu gọi được gì
trong cuộc chiến tranh
Bây giờ nắng đã bắt đầu rực rỡ trên những cánh bướm vàng quẩn quanh những đóa hoa trắng thơm vừa nở trên thành cửa sổ. Cho tôi được dừng bút nơi đây trở về phật Viện, vác cuốc xuống vườn trồng cải xanh.
Viết tại thư
viện Vạn Hạnh
cuối thu
1969
Tuệ Không
Phạm Thiên
Thư
đại nguyện
Nguyễn Thị
Minh
Trầm thơm quyện
tỏa hồn mơ
Trà sen nhấp giọng
ngâm thơ ngọc vàng
Mỗi dòng là ánh
từ quang
Mỗi trang là khói
chiên đàn thoảng xa
Mong sao mười
cõi Ta Bà
Bao nhiêu cát sỏi
trần sa trở mình
Kinh Ngọc là
khối quang minh
Là đường cứu độ
chúng sinh mọi loài
Nguyện cho khắp
cõi trần ai
Tỉnh cơn ác mộng
nở đài liên hoa
Trầm tư Thơ
Ngọc, Đạo Ca
Mỗi người là một
pháp tòa trí bi
Cảm tác khi
đọc Kinh Ngọc
Bồ Tát Giới - Đức
Minh
Nguyễn Thị
Minh
với dòng
Kinh Ngọc
trần thị tuệ
mai
Trong miền cát
bụi phiêu du
đã ngày mê mải, đã
mùa trầm luân
mắt xanh ánh biếc
phai dần
nhìn người kinh
hãi, tưởng thân tật nguyền
mịt mờ khuôn mặt
hoa niên
tóc chiêm bao rụng
khô miền hỗn mang
e như xuân đất
trời tàn
cây khô da thịt
ngổn ngang rừng người
Chợt thơm hương
phấn tuyệt vời
âm thanh Kinh Ngọc
nở mười phương hoa
Thắp lên ánh
sáng Đạo Ca
ngàn mùa xuân
trước dựng mùa xuân nay
Rừng đời trổ
lộc muôn cây
lòng đời chim hót
ấm đầy tình thương
tóc chiêm bao mướt
trầm hương
ôm bờ vai ngọt -
vô thường - chân như ...
tặng bác phạm
thiên thư
bùi giáng
chùa
chạy quanh khu
vực thần tiên
mỏi chân mười ngón
kết liên bốn mùa
vườn cây trái ngọt
trái chua
mù sương hấp dẫn
về chùa ngủ quên
cây mọc
Đạp thanh từ
tiết phiêu bồng
Hỷ căn du hý thần
không ngậm vành
cây trời mọc đất
trút nhanh
giờ đi bên khắc
đêm thanh loạn ngày
quận
Giây rừng rút
động chiều trưa
góp sương châu
quận về mưa thị thành
xa từ lũng tạ âm
thanh
Tình vân nhứ mạo
xuân xanh chiên đàn
Bùi Giáng
trụ vũ
vườn dâu
vườn dâu năm
trước còn không
sớm nay nở với
vừng đông một cành
chim linh hót
tiếng vô thanh
quê hương ta hạt
gieo lành nghìn năm
hoa mướp
hoa mướp tròn
như trăng tháng tám
tròn như tâm của
đức Mầu-Ni
gío khơi thổi động
cành phơ phất
hoa mướp muôn đời
chẳng nói chi
con kiến
sớm mai
mặt trời mọc
trong ánh sáng
diệu huyền của tâm linh
trên cành xoài lá
xanh đông phương
những con kiến
hành hương
về ánh sáng
Tôi nghe nhất
thể nhiệm mầu
khởi điệutình
ca
Lê Nghị
giọt về
một mai
giang - tố quan -
hà
nữa thác là sa
giọt về
núi ầm đổ
ngọn triều
khê
Cuộc chơi
thành Đá
Cuộc về thành
không
VÀO CÕI KHÔNG TỊCH
Vũ Tài Lục
Gốc rễ tín ngưỡng Phật học là chữ "Không" (néant) Không chẳng phải là Vô (nothing) vì Vô là cái gì quay lưng lại với Hữu (something) cho nên chỉ là tương đối. Không mới thật là tuyệt đối.
Không của nhà Phật xuất phát từ kinh nghiệm sinh hoạt bản thân. Theo Phật thể chứng thì loài người mê lầm rất sợ hãi cảnh giới Không đó vì Không là nơi vô tình vô vật, tình cảm vật chất đều tiêu diệt. Bởi sợ cảnh giới Không nên cố bấu víu vào Tâm hoặc Vật để mong tìm ra niềm an ủi mỗi khi nghĩ đến khoảng khắc của phút lâm chung. Bởi mê lầm nên nhận Không ra Chết. Thật ra Chết mới là tình trạng giải thể của vật chất và tinh thần chứ chưa phải là tiêu diệt. Còn ở cảnh giới Không thì hết thẩy mọi cơ duyên cũng như bi khổ đều tan biến mất. Giác ngộ được ý nghĩa chân Không thì vẫn đứng ngang nhiên ở cõi đời mà siêu nhiên thoát tục.
Lặng ngồi xem
cuộc bể dâu thay
Gío thu thổi gốc
mai cầu nọ
Áng áng hoa vàng
trước dậu bay
Kinh Kim Cương ghi những lời Phật giảng dẫn đường vào cảnh giới Không để phá bỏ những mê lầm về sự biện nhận cảnh giới này.
Tên kinh gồm tám chữ là: Kim Cương bát nhã ba la mật đa kinh. "Ba la mật" dịch âm của tiếng Phạn có nghĩa là "bờ bên kia" ý chỉ một việc đã viên mãn. "Bát nhã" là "trí tuệ". Kim Cương là tên một khoáng chất rất rắn, rất sắc, chất rắn sắc của nó nguyên lai vẫn đầy đủ không phải nhờ các vật khác rèn đúc, Phật lấy nó mà ví dụ như trí tuệ của người ta từ vô thủy ai ai cũng có khi thành bậc thánh nó cũng không thêm chút nào, lúc là phàm phu nó cũng không kém chút nào, nó đã không bị vô minh từ vô thủy làm chìm đắm, trái lại nó còn chiếu tỏ để phá tan cái vô minh, ý như gío quét mây bay, gío tan sương móc. Khi có đủ Kim Cương bát nhã thì người với pháp đều hết, sự với tướng đều không. Trong lời giảng Phật bảo ông Tư Bồ Đề rằng:
Bồ tát nên xa lìa hết thảy cái tướng hư vọng, phân biệt hòa hợp mà phát cái tâm vô thượng chính đẳng chính giác, không nên y trụ vào lục trần mà sinh lòng sai biệt, chỉ nên sinh cái tâm không trụ vào chỗ nào, nếu tâm còn có chỗ trụ, thì là vào chỗ điên đảo không phải là trụ vào bát nhã vậy. Đọc thấu đáo kinh Kim Cương là có thể thấu triệt chữ Không của Phật học, bởi thế kinh Kim Cương là một loại kinh ở bậc cao. Sư cụ Thiều Chửu một vị rất uyên bác Phật học khi dịch kinh này đã viết:
"Kinh này có nhiều nghĩa lắm, nguyên văn chữ Phạn dịch ra chữ Hán có đến sáu bản dịch khác nhau, các nhà chú giải thì có hàng mấy trăm nhà, hiện văn tự còn lưu lại thì cũng tới tám mươi hai nhà, mỗi nhà đều sở đắc một nghĩa đều có vẻ cao thâm huyền diệu cả, nhất là bộ Kim Cương huyền nghĩa của cụ Cát Tạng lại càng mênh mông bát ngát như trời như bể, bởi thế mà các Tổ xưa mới bảo rằng kinh này là kinh Vô lượng nghĩa, là kinh không thể lấy văn chữ, nói năng mà hình dung được. Các Tổ uyên bác là nhường nào mà còn kêu là khó, là không thể lấy văn chữ nói năng mà hình dung được thì tôi, tôi là một kẻ kém đức có bao giờ dám cầm bút mà dịch."
Nay khác hẳn với thái độ băn khoăn, khiêm tốn đến câu nệ của người thuộc thế hệ trước, thầy Phạm Thiên Thư táo bạo xông xáo vào kinh Kim Cương, chẳng phải chỉ để dịch mà thôi, Thư dám chuyển cả ý nghĩa bộ kinh này thành thơ rồi đặt cho một cái tên rất hay, rất thơ: Kinh Ngọc Qua Suối Mây Hồng. Phạm Thiên Thư đã thành công, cái thành công căn bản của Qua Suối Mây Hồng là phá bỏ sự ề à vẫn thường thấy trong các kinh sách với những câu "trầy vai áo chắp tay cung kính mà bạch Phật rằng ..." hay "lại nữa ông Tu bồ đề này" hoặc "Như nay con hiểu ý của Phật nói thì" v.v... nghe dễ chán và bực mình.
Bằng những lời thơ êm dịu, Qua Suối Mây Hồng làm cho người đọc như tựa lưng dưới bóng hoa nghe hồi chuông tĩnh tâm của ngôi cổ tự mà lim dim ngủ; vào cõi Không Tịch thanh thoát như người tiều phu nào đó ngày xưa mải mê xem tiên đánh cờ dựa cái búa bên cạnh, lúc tan cuộc cờ nhìn lại thì cán búa đã mục.
Bằng lời thơ êm dịu, Phạm Thiên Thư đẩy nhẹ con thuyền trí tuệ lướt trên giòng kinh cho người đọc thoải mái thênh thang đi tới cảnh giới Không ở giữa rừng hoa tịch mặc tháng ngày thoáng tiếng suối thần rơi.
Đọc kinh Kim Cương người ta có thể đến hạnh bồ tát để xử sự với thế gian bằng thái độ trong nhiệt tình vẫn giữ niềm xa cách, ở vẻ nguội lạnh vẫn chan chứa ân tình.
Nào những ai đã nguội lòng giấc mộng oa tranh nhìn công danh như hạt nước đọng trên cánh hoa, phú quí như giọt sương bám trên ngọn cỏ, Hãy tìm đến giòng suối mát Kim Cương bát nhã
MỤC LỤC
Lời Giới
Thiệu
Tựa
Qua Suối Mây Hồng
1) pháp hội
nhân do
2) Thiện hiện khải
thinh
3) đại thừa chính
tông
4) diệu hành vô
trụ
5) như lý thực
kiến
6) chính tín hy
hữu
7) vô đắc vô
thuyết
8) y pháp xuất
sinh
9) nhất tướng vô
tướng
10) trang nghiêm
phật độ
11) vô vi thắng
phúc
12) tôn trọng
chính giáo
13) như pháp thụ
trì
14) ly tướng tịch
duyệt
15) trì kinh công
đức
16) năng tịnh
nghiệp chướng
17) cứu kinh vô
ngã
18) nhất thể đồng
quán
19) ly sắc ly
tướng
20) phi thuyết sở
thuyết
21) vô pháp khả
đắc
22) tịnh tâm hành
thiện
23) phúc trí vô
tỷ
24) hoá vô sở
hóa
25) pháp thân phi
tướng
26) vô đoạn vô
diệt
27) bất thụ bất
tham
28) vô nghi vô
tĩnh
29) nhất hợp ly
tướng
30) tri kiến bất
sinh
31) vô hóa phi
chân
32) *
33) phụ hội
34) *
35) ngã pháp mây
nổi
36) hiện hóa
pháp
37) thơ - nguyễn
thị minh
38) thơ - tuệ
mai
39) thơ - bùi
giáng
40) thơ - trụ
vũ
41) thơ - lê
nghị
42) vào cõi không
tịch
43) *
44) mục lục
45) *