KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.41. VỊ LỢI TÁC SƯ GIỚI
(giới vì lợi mà
làm thầy)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử giáo hóa nhân khởi tín tâm...” cho đến câu “phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử
giáo hóa người sanh lòng tin tưởng pháp Đại Thừa hay Bồ Tát làm Pháp Sư giáo
giới cho người. Lúc ấy, có người muốn thọ giới Bồ Tát, nên bảo người ấy thỉnh cầu
đại sư Hòa Thượng và A Xà Lê, và phải hỏi người ấy có phạm tội thất nghịch
không? Nếu người ấy hiện đời có phạm tội thất nghịch, thời Pháp Sư không được cho
người ấy thọ giới. Nếu trường hợp không phạm tội thất nghịch thì cho thọ giới.
Nếu phạm một, hai hoặc ba... trong số mười giới Trọng thì bảo người ấy phải sám
hối trước tượng Phật và Bồ Tát. Ngày đêm sáu thời tụng giới Bồ Tát, tha thiết
đảnh lễ Tam Thế chư Phật, cho đến khi được thấy hảo tướng. Sám hối như thế
trong bảy ngày, mười bốn ngày, hăm mốt ngày, nhẫn đến trọn năm mãi đến chừng
nào thấy được hảo tướng. Sau đây là những trường hợp gọi là hảo tướng: thấy
Phật đến xoa đầu mình, thấy quang minh, thấy hoa báu v.v... và các thứ cảnh
tượng tốt lạ. Thấy được những hảo tướng ấy là triệu chứng tội đã tiêu diệt. Nếu
không được thấy hảo tướng, dù có sám hối cũng vô ích. Vì người này hiện đời
không thể nào đắc giới, nhưng được tăng sự lợi ích thọ giới.
Nếu là người
phạm một hay nhiều giới trong số bốn mươi tám giới khinh, đối trước Tam Bảo sám
hối thời đặng tiêu diệt tội lỗi, không phải như trường hợp thất nghịch.
Vị Pháp Sư giáo
giới phải hiểu rõ những pháp này. Nếu không hiểu kinh luật Đại Thừa, những giới
trọng, giới khinh, hành tướng hay chẳng phải hành tướng, không hiểu Đệ Nhất Nghĩa
Đế, tập chủng, trưởng dưỡng tánh, tánh chủng tánh, bất khả hoại tánh, đạo chủng
tánh, chánh pháp tánh, những quán hạnh đa thiểu xuất nhập trong các pháp đó và
mười chi thiền, tất cả pháp hạnh... nhất nhất đều không thông hiểu. Trong tình
trạng thiếu sự hiểu biết như thế, nhưng Phật tử vì tài lợi, vì danh tiếng cầu
việc sai quấy, cầu số lượng nhiều, tham tài lợi, vì danh tiếng cầu việc sai quấy,
cầu số lượng nhiều, tham đệ tử đông nên giả bộ mình là người hiểu biết tất cả
kinh luật để được nhận cúng dường. Đó là tự dối mình, dối người. Nếu cố làm
giới sư truyền giới cho người, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Lời giảng
Chính mình
quả thật có chỗ nhận thức rõ ràng đối với kinh luật Đại Thừa, mà khi có người
đến cầu pháp bạn lại không chịu truyền trao, như thế đương nhiên là không được.
Còn tự mình thật không có tài đức, lại thích làm thầy người một cách miễn
cưỡng, cũng là điều không đúng.
Chúng ta hãy
nghĩ: Nếu những điều trì phạm trong kinh luật Đại Thừa dạy mà hoàn toàn không
thông suốt, thì vị hành giả làm sao có thể làm thầy cho người? Sự tu hành có
thành tựu mới có thể nói đến việc độ người. Còn quả thật mình không biết gì, mà
dám nói dối là hiểu biết tất cả thì chẳng những không ích lợi cho người, mà
chính mình cũng bất lợi. Đó là điều tuyệt đối không nên làm. Vì như thế sẽ làm
cho chánh pháp của Như Lai không được hoằng truyền chính xác.
Trải qua năm
tháng dài lâu, chánh pháp của Từ Phụ sẽ bị mai một. Hơn nữa, truyền trao giới
pháp sai lầm, người thọ giới không hiểu cứ tin đó là Bồ Tát đại giới, nên cứ y
theo đó mà thực hành. Họ không biết rằng thực hành như vậy là hoàn toàn phi
pháp và vô ý nghĩa. Thế là bạn đã sai lầm dẫn dắt chúng sanh khiến chúng sanh
không được đến nơi chân thật giải thoát. Trường hợp như vậy thử hỏi bạn có tội
hay không?
Vì tham cầu danh
lợi mà làm việc sai lầm như thế, tự mình trở lại phải bị hậu quả khốc hại. Nên
trong kinh Hư Không Tạng dạy: “Danh dự và lợi dưỡng là nguồn gốc các tội ác”. Thật
là lời vàng ngọc không sai mảy may.
Cổ đức cũng dạy:
“Tự mình thực không hiểu rõ, chỉ vì mong được tiếng khen mà lừa mình, lừa
người, tội không phải nhỏ. Dù rằng có thực hiểu biết, nhưng nếu vì mong được cúng
dường làm hại mình, hại người, lỗi không phải nhẹ. Như thế thực là không phải
tư cách hóa đạo chúng sanh và cũng là rất trái với hạnh tài thí, pháp
thí”.
Lời dạy trên có
giá trị vô cùng, nên những ai thích là thầy người, phải nên học thuộc và suy
nghĩ kỹ.
Giới này thuộc
về tội khinh cấu, nhưng có mức độ nặng, nhẹ khác nhau. Căn cứ vào sự không hiểu
biết của bạn nhiều hay ít, chúng sanh được hóa độ thuộc về hạng lợi căn hay độn
căn, tham tâm của bạn lớn hay nhỏ, giới pháp đã truyền trao đủ hay không?
Nếu có sự hiểu
biết quá kém, chúng sanh được hóa độ là những người lợi căn, bạn có tham tâm
lớn, truyền giới đủ, thì bị kết tội nặng; bằng ngược lại thì tội nhẹ hơn.
Trường hợp học
vấn của mình tuy chưa thành tựu, nhưng có người đến thỉnh cầu giới pháp quá
khẩn thiết, nếu không phải vì tâm mong cầu lợi dưỡng mà truyền trao giới pháp
cho người thì không phạm tội.
Giới này cả Đại,
Tiểu Thừa đều phải vâng giữ, còn thất chúng Phật tử cốt yếu chỉ có 2 chúng tỳ
kheo và tỳ kheo ni là phải tuân giữ. Năm chúng kia vì không có nhiệm vụ truyền
trao giới pháp, nên không thuộc phạm vi của giới này.
Nếu đem phối hợp
với Tam Tụ Tịnh Giới thì có sự tương ứng như sau:
- Không vì danh
dự, lợi dưỡng thuộc về Nhiếp Luật Nghi Giới.
- Nhất nhất mọi
giới luật đều thông hiểu là Nhiếp Thiện Pháp Giới.
- Dạy người phát
tâm tin tưởng giới pháp Đại Thừa là Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Đức Phật đối với
đại chúng dạy rằng: “Nếu là một Phật tử thọ Bồ Tát giới, lúc hành hạnh lợi
người, trước tiên phải nhận định tín tâm là căn bản tối yếu. Vì tín tâm là nền
tảng đi vào Phật pháp, là người đứng đầu để tiến lên thánh đạo, nên giáo hóa
người sanh lòng tin tưởng pháp Đại Thừa là điều cần yếu không thể thiếu được”.
Ở đây nói tín
tâm chính yếu là tin rằng tâm mình có thể làm Phật. Những người muốn thọ giới,
điều kiện trước tiên là phải tín tâm ấy. Khi đã phát tín tâm rồi thì muốn pháp lành
từ đó phát sanh, chúng sanh cũng từ đó mà có thể độ, Phật đạo cũng từ đó mà có
thể thành.
Phải biết rằng:
Chúng sanh dù bên trong sẵn có Phật tánh chủng tử, nhưng nếu không được gặp chư
Phật, Bồ Tát, cùng những lời dạy trong kinh luật và thiện tri thức dạy bảo, dẫn
dắt để phát khởi tín tâm, lại tự cho rằng chúng sanh tự nhiên có thể thành
Phật, thì nhất quyết không bao giờ có đạo lý ấy.
Thọ Bồ Tát giới
cùng tỳ kheo giới có điểm bất đồng:
- Giới tỳ kheo
thì ở trong tăng đoàn mà thọ, nên phải có thập sư hiện tiền, nếu không thì
không thể thọ giới.
- Giới Bồ Tát ở
trước thập phương chư Phật, Bồ Tát mà thọ.
Vì thế, vị Hòa
Thượng có nhiệm vụ tuyên giới chỉ tuyên đọc giáo giới, nghĩa là vị Hòa Thượng
vâng lời Phật dạy, tuyên đọc khoa nghi giáo giới cho hàng hậu học. Thế nên một
vị Bồ Tát làm Pháp Sư giáo giới cho người, nếu lúc thấy có người muốn thọ giới
Bồ Tát, trước tiên nên bảo người ấy thỉnh hai Đại Sư, tức là cung thỉnh Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật làm Hòa Thượng Bổn Sư đắc giới, thỉnh Nhất Sanh Bổ Xứ Di
Lặc Bồ Tát làm giáo thọ A Xà Lê.
Tại sao không
thỉnh Yết Ma và tôn chứng?
Vì Bổn Sư Thích
Ca là Phật hiện tại, Di Lặc Bồ Tát là Phật tương lai, tượng trưng hiện tiền thọ
Bồ Tát giới là nhân, tương lai thành Phật là quả. Nhân quả đầy đủ nên Yết Ma và
Tôn Chứng giảm bớt, không cần thỉnh.
Lúc làm lễ
truyền giới ở trước hình tượng Phật, Bồ Tát truyền trao giới pháp cho người thọ
giới, vị Pháp Sư giáo giới nên ngồi một bên, không được ngồi quay lưng vào
tượng Phật, Bồ Tát. Tất cả mọi người đều cần phải đúng như pháp, không được
trái với thánh giáo của Như Lai, để tránh cho người thọ giới trọn đời không đắc
giới.
Vị Hòa Thượng
truyền giới đã dạy người thọ giới lễ thỉnh hai Đại Sư trước rồi, kế tiếp phải ở
trước hai Đại Sư, hỏi người thọ giới rằng: “Người có phạm tội thất giá không?”
Ở đây nói tội
Thất Giá là tội Thất Nghịch trong giới trước đã nói.
Nhưng vì sao gọi
là Giá Tội?
Vì tội này làm
chướng ngại thánh đạo không thể phát sanh nên gọi là Giá, và vì tội ác này
nghịch với bổn nguyên tâm địa nên gọi là Nghịch. Nếu người thọ giới ấy hiện đời
có tội Thất Giá thì vị Bồ Tát làm Pháp Sư giáo giới không nên cho người ấy thọ
Bồ Tát đại giới. Nếu người ấy hiện đời không có tội Thất Giá thì vị Pháp Sư
giáo giới được quyền cho người ấy thọ Bồ Tát đại giới.
Nếu có người đã
thọ Bồ Tát đại giới này, nhưng về sau hủy phạm mười giới trọng thì phải làm
sao?
Ở đây nói “phạm
mười giới trọng” không phải là phạm tất cả mà là phạm một số trong mười giới
vậy. Tuy phạm trọng giới, nhưng Đức Phật đại từ bi, không nỡ để cho chúng sanh
phạm giới kia, vì việc phạm giới này mà phải bị luân trầm, nên Ngài đặc biệt
khai ra một pháp môn phương tiện, nghĩa là phải bảo người phạm trọng giới ấy
thành tâm sám hối để được tiêu trừ trọng tội đã phạm.
Nếu không ân cần
khẩn thiết sám hối thì do những tội nghiệp đã gây ra, sau khi xả báo thân, chắc
chắn phải bị đọa tam đồ muôn kiếp, không có thời kỳ nào được thoát khỏi.
Về việc sám hối
phải làm thế nào?
Phải ở trước
hình tượng Phật, đúng theo pháp mà sám hối. Sám hối không phải chỉ thực hành
một lần là đủ, mà phải mỗi ngày đêm sáu thời, dùng tâm chí thành khẩn thiết,
tụng mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh này. Phải biết rõ giới của mình
đã phạm và tướng tội của nó, phải sanh tâm thật hổ thẹn và ân cần sám hối, mong
mau được khôi phục giới thể thanh tịnh.
Ngoài việc tụng
giới còn phải tha thiết đảnh lễ tam thế thiên Phật. Tam thế thiên Phật nghĩa là
ba đời đều có một ngàn Đức Phật. Cử chỉ tha thiết là hình ảnh người Phật trong lúc
lạy Phật, vì trót đã phạm giới, hết sức thành khẩn chí thiết, dường như cứu lửa
cháy đầu, như non Thái Sơn sụp đổ, gieo năm vóc xuống đất, xưng niệm hồng danh
chư Phật, nghĩ nhớ bao nhiêu thống khổ của tội nhân trong địa ngục, phát Bồ Đề
tâm mong cầu được thấy hảo tướng.
Sám hối đỉnh lễ
chư Phật như vậy, nếu trong bảy ngày không thấy được hảo tướng thì phải tiếp
tục sám hối mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày. Nếu vẫn không được thấy hảo tướng
thì phải tiếp tục sám hối nhẫn đến trọn năm.